← Quay lại trang sách

Chương XXIII PHÂN KHU BẮC
❖ 1 ❖

Ngày 14 tháng 3 năm 1954. 7 giờ 45, Castries gọi điện cho Cogny:

-Người Việt có thể chấp thuận một cuộc ngừng bắn từ 8 giờ sáng đến trưa ngày hôm nay, cho ta đến Béatrice lấy xác chết và thương binh, có nên nhận không? Nhưng điều quan trọng trước tiên với tôi, là phải thả dù ngay một tiểu đoàn tăng viện.

-Thế còn phản kích? Cogny hỏi lại.

-Địch chiếm Béatrice từ nửa đêm. Dự trữ đạn dược đã hao hụt. Pháo của tôi đã bắn 6.000 phát 105. Lực lượng dự bị đang mụ ra vì đại bác bắn thẳng vào họ suốt đêm. Ngài muốn tôi làm thế nào?

-Được rồi. Nhận ngừng bắn đi. Tôi đồng ý. Khi có quân dù tiếp viện, ông sẽ phản kích.

Nhưng sẽ không bao giờ có cuộc phản kích ra Béatrice.

Tại Điện Biên Phủ, buổi sáng ngày 14, thiếu tá Kah (Các) tới gặp Castries. Ngày hôm nay, thiếu tá Mecquenem(Méccơnem) chỉ huy tiểu đoàn 5 Angiêri đang trấn giữ trung tâm đề kháng Gabrielle, mãn hạn phục vụ trong quân đội, Kah là người tới thay thế.

Castries đội chiếc mũ calô đỏ ngồi trong hầm, nét mặt bình thản. Ông ta vốn biết cách xuất hiện trước cấp dưới. Castries quay lại phía sau lấy từ trong hốc ra một chai rượu, rót hai ly rồi mỉm cười chạm cốc với Kah thay một lời chúc tụng.

Castries lật mấy tấm ảnh đặt úp trên bàn, chỉ cho Kah những đường hào của Việt Minh đã tiến vào gần Gabrielle.

- Đây là những ảnh máy bay trinh sát vừa chụp. Có thể là đêm nay…

- Tôi nghĩ điều đó là chắc chắn.

- Thiếu tá cầm những tấm ảnh này tới gặp Piroth trước khi đi, nói pháo binh của ông ta không được để Việt Minh tới hàng rào của Gabrielle nếu đêm nay nó bị tiến công. Tôi sẽ yêu cầu không quân dành một chiếc C47 Luciole thả pháo sáng suốt đêm trên Gabrielle.

Kah lộ vẻ lo lắng:

-Tôi nghĩ Gabrielle khó giữ hơn Béatrice nhiều. Béatrice là một cụm ba cứ điểm hỗ trợ cho nhau lại ở gần Trung tâm. Gabrielle chỉ là một vị trí cô lập ở xa Trung tâm.

Castries nghiêm mặt:

- Gabrielle là trung tâm đề kháng vững chắc nhất và hoàn thiện nhất về mặt chiến thuật. Nó có riêng một dàn súng cối 120. Đây là nơi duy nhất có hai tuyến phòng ngự, nếu mất tuyến ngoài, cậu cố giữ lấy tuyến trong, lực lượng phản kích và xe tăng sẽ có mặt kịp thời để gỡ rối cho cậu. Tiểu đoàn 5/7 RTA không thua kém bất cứ một tiểu đoàn lê dương nào, trước khi lên Điện Biên Phủ nó đã được trang bị toàn bộ vũ khí mới! Cậu bảo Mecquenem có thể trở về Hà Nội ngay hôm nay.

Kah gặp Piroth. Piroth hứa sẽ yểm hộ tối đa cho Gabrielle đêm nay, kể cả bằng trọng pháo 155.

Ngay sau đó, Kah tới Gabrielle. Kah tạm yên lòng khi thấy bãi rào dây thép gai mênh mông, những đường hào ụ súng san sát, và những người lính Angiêri dày dặn chiến trận, thái độ rất bình tĩnh. Mecquenem đã từng chiến đấu ở Angiêri và có mặt trong binh đoàn thường trực khối quân sự Bắc Đại Tây Dương. Người tiền nhiệm bàn giao tình hình trung tâm đề kháng một cách không vội vàng. Kah nhắc Mecquenem nên sớm về Mường Thanh để đi kịp chuyến máy bay trong ngày. Nhưng Mecquenem nói sẽ ở lại thêm đêm nay để xem trận đánh của Việt Minh có diễn ra. Anh ta vui vẻ chỉ những chai sâm banh ướp lạnh ở góc nhà ăn nói: “Tôi và thiếu tá sẽ uống hết những chai rượu này sau trận đánh đêm nay”.

18 giờ, đạn pháo của ta dập xuống Gabrielle. Trận địa súng cối 120 nhận nhiều phát đại bác, một phát phá hủy chiếc điện đài của trung úy Clerget. Nhiều ụ súng đại đội trợ chiến số 4 của trung úy Moreau đổ sập, hai khẩu súng cối 81 bị phá hỏng. Rồi chính căn hầm chỉ huy của đại đội 4 bị trúng đạn pháo, trung úy Moreau nằm chết gục dưới đống đổ nát.

Mecquenem vẫn nắm quyền chỉ huy cứ điểm, nghiến răng chịu đựng những đợt hỏa pháo chuẩn bị của ta, vừa dứt tiếng pháo, Mecquenem yêu cầu pháo binh từ Mường Thanh bắn chặn các đường hào xuất kích và động viên binh lính trong đồn sẵn sàng đối phó với những đợt xung phong. Từ chập tối đến nửa đêm, Gabrielle chịu đựng liên tiếp nhiều trận pháo. Nhưng không có đợt xung phong nào. Máy bay thả dù pháo sáng suốt đêm trên vị trí. Mecquenem cho rằng pháo của Piroth đêm nay đã giữ đúng lời hứa hoàn thành nhiệm vụ nghiền nát những đợt tấn công của Việt Minh trước khi họ tới được hàng rào. Mecquenem chuyển quyền chỉ huy cho Kah và trở về hầm mình đi ngủ.

Gabrielle nằm cách xa phân khu Trung tâm Mường Thanh 4 kilômét, trên một quả đồi riêng rẽ ở đầu bắc cánh đồng (nên được ta đặt tên là Đồi Độc Lập), dài 500 mét, rộng 200 mét, trơ trụi không một bóng cây.

Nhiệm vụ tiến công Đồi Độc Lập được giao cho trung đoàn trưởng 165 Lê Thùy, thuộc đài đoàn 312, và trung đoàn trưởng 88 Nam Hà thuộc đại đoàn 308, dưới quyền chỉ huy của đại đoàn trưỏng 308 Vương Thừa Vũ. Trung đoàn 165 đã có thời gian dài nghiên cứu cứ điểm, đảm nhiệm mũi chủ yếu, đột phá từ hướng đông-nam, đánh dọc theo chiều dài của cứ điểm. Trung đoàn 88, còn được gọi là trung đoàn Tu Vũ, vốn có truyền thống đánh công kiên, vừa truy kích ở Thượng Lào về, phụ trách mũi thứ yếu, đột phá từ hướng đông - bắc, đồng thời mở một mũi vu hồi ở hướng tây, và bố trí lực lượng làm nhiệm vụ chặn viện từ Mường Thanh ra.

Theo kế hoạch, trận đánh Đồi Độc Lập sẽ bắt đầu vào 16 giờ 45 ngày 14 tháng 3 năm 1954. Nhưng do trời mưa, sơn pháo 75 và cối 120 điều từ Him Lam sang không tới kịp trước giờ nổ súng. 18 giờ. Chỉ huy trưởng trận đánh Vương Thừa Vũ trao đổi với tư lệnh phó 312 Đàm Quang Trung, quyết định cho pháo binh bắt đầu bắn vào các cứ điểm địch, phá hoại công sự và uy hiếp tinh thần binh lính. Trong khi đó bộ binh tiếp tục chuẩn bị thật chu đáo, chờ sơn pháo và cối 120 tới mới nổ súng.

2 giờ sáng, các khẩu đội sơn pháo mới đến nơi.

3 giờ 30 phút ngày 15, chỉ huy trưởng trận đánh Vương Thừa Vũ hạ lệnh tiến công. Cả lựu pháo và sơn pháo của ta lại lên tiếng sau một thời gian im lặng.

Kah không hiểu có phải là một đợt tiến công mới của đối phương, hay vẫn là sự “khiêu khích” của Việt Minh, nhưng vẫn gọi điện cho Piroth yêu cầu tiếp tục bắn chặn vào các đầu hào, không quên khen những đợt pháo trước đã chặn đứng được những đợt xung phong của Việt Minh. Trong cuốn “Điện Biên Phủ, một góc địa ngục”, Bernard Fall lầm tưởng từ chập đến tới quá nửa đêm đã có hai trung đoàn của ta tiến công Gabrielle. 3 giờ sáng ngày 15, ta đã phải điều hai trung đoàn khác tới để tiếp tục nhiệm vụ của hai trung đoàn trước đó bị thiệt hại nặng được lệnh rút ra.

Trên hướng chủ yếu trung đoàn 165 đột phá thuận lợi. Các chiến sĩ bộc phá của tiểu đoàn 115 tiến lên giữa lúc pháo của ta bắn trúng bãi mìn. Những trái mìn của địch soi rõ từng hàng rào dây thép gai và những lô cốt, ụ súng. Chỉ sau 40 phút, các chiến sĩ bộc phá đã hoàn thành nhiệm vụ mở cửa cho xung kích tiến vào trung tâm.

Kah đề nghị Mường Thanh cho pháo bắn chặn trên suốt tuyến phòng ngự thứ hai. Mecquenem đang ngủ trong hầm, thức giấc vì tiếng đạn nổ quanh người, gọi diện cho Castries. Castries hứa sẽ yểm hộ pháo tối đa cho Gabrielle và khi trời gần sáng sẽ đưa xe tăng và bộ binh phản kích. Được hứa hẹn, Mecquenem chạy về hầm chỉ huy cùng Kah đối phó với cuộc tiến công của ta.

Tiểu đội dao nhọn do Trần Ngọc Doãn và Nguyễn Văn Các chỉ huy, dẫn đầu đại đội 501 như tên bắn lao sâu vào đồn giặc. Đội hình bị tiêu hao, những đơn vị phía sau chưa kịp lên, tiểu đội vẫn kiên quyết tiến về phía trước. Trần Ngọc Doãn được hai tù binh dẫn đường tới trận địa súng cối, nổ súng diệt toàn bộ quân địch, phá hủy bốn khẩu cối 120 ly.

Xung kích của trung đoàn 165 tiến sâu vào đồn, đánh chiếm khu thông tin, tiến thẳng tới sở chỉ huy.

Trên hướng thứ yếu, trung đội bộc phá của đại đội Tô Văn, trung đoàn 88, đã phá trên một trăm mét rào dây thép gai, vẫn chưa lọt vào bên trong đồn địch. Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Ty thắc mắc vì hàng rào của đồn địch không thể dày quá như vậy. Anh đứng lên quan sát, giật mình nhận ra những tổ bộc phá đánh trước mình đã mở cửa lệch hướng. Anh chọn một lô cốt gần nhất trên đồn địch làm điểm chuẩn, chỉ huy các chiến sĩ bộc phá mở một con đường mới tiến vào trong cứ điểm.

Trong hầm chỉ huy, Mecquenem đang ngồi với Kah và cơ quan tham mưu thì một quả đạn có ngòi nổ chậm ngắn chui tọt vào hầm và nổ tung. Tiểu đoàn trưởng Kah đứt rời một cánh tay. Mecquenem bị nhiều vết thương, ngất đi. Người phó và viên sĩ quan liên lạc với pháo binh đều bị thương nặng.

Pháo địch bắn dữ dội vào ngay trong đồn hòng kéo dài cuộc chiến đấu của tiểu đoàn Angiêri, đợi lực lượng phản kích từ Mường Thanh tới. Các mũi xung kích của 165 và 88 cùng phối hợp chiến đấu, kiên quyết kết thúc cuộc chiến đấu trong đồn trước khi trời sáng.

6 giờ 30 phút ngày 15, tiểu đội dao nhọn của 165 hầu hết bị thương. Chiến sĩ Tùng, người còn lại của tiểu đội, cắm lá cờ Quyết chiến Quyết thắng lỗ chỗ vết đạn trên đỉnh Đồi Độc Lập. Tiểu đoàn 5 trung đoàn Angiêri số 7 đã bị xóa sổ.

Trước đó, 4 giờ sáng ngày 15 tháng 3, Castries triệu tập cuộc hội ý cấp tốc ở sở chỉ huy bàn cách cứu vãn tình hình ở Gabrielle. Langlais đề nghị dùng tiểu đoàn dù Việt Minh số 5 phản kích.

14 giờ 15 ngày hôm trước, tiểu đoàn dù Việt Minh số 5 (5è BPVN) bắt đầu được thả xuống Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn này gồm toàn binh sĩ người Việt nhưng vẫn do các sĩ quan Pháp chỉ huy, với đại úy Botella (Bôtenla) là tiểu đoàn trưởng. Tiểu đoàn này đã tới Điện Biên Phủ một lần, không được Castries đánh giá cao, người ta rút nó đi, nhưng bây giờ Castries lại phải nhận nó.

Máy bay vận tải thả dù thành những đợt sóng xuống ba nơi, từ độ cao 200 mét. Có những lính dù chết vì đạn cao xạ ngay khi còn lơ lửng trên bầu trời. Đạn pháo của ta trùm lên những bãi thả dù. Đại đội 1 và cơ quan chỉ huy tiểu đoàn 5 dù bị thiệt hại nặng.

18 giờ, tiểu đoàn dù mới tập hợp lại được trên những ngọn đồi phía đông bên tả ngạn sông Nậm Rốm, trong tình trạng kiệt sức. Nhưng họ vẫn phải bắt tay ngay vào việc củng cố công sự. Pháo binh đối phương không ngừng truy đuổi tiểu đoàn mới tăng cường. 20 giờ, tiểu đoàn vừa bố trí xong trận địa súng cối thì đạn đại bác ập xuống phá hủy ngay ba khẩu.

Đêm hôm đó, đến lượt Gabrielle bị tiến công.

Người ta cho rằng Langlais không dùng những tiểu đoàn dù 1, dù 8 thiện chiến vì không muốn hy sinh những lực lượng này vào cuộc phản kích vô vọng. Có ý kiến: tiểu đoàn dù 5 mới tới chân ướt chân ráo và quả mệt mỏi, lại chưa biết địa hình không thể mở đường qua hàng rào dây thép gai, bãi mìn. Langlais sửa chữa bằng cách bổ sung vào đội hình phản kích một đại đội của tiểu đoàn dù số 1 do chính Séguins Pazzis (Xêganh Padít), người mới thay mình tại binh đoàn không vận số 2 chỉ huy, và một trung đội xe tăng do chính chỉ huy đại đội xe tăng Hervouet dẫn đầu cuộc phản kích.

5 giờ 30, xe tăng mở đường cho những đơn vị phản kích tiến về Gabrielle. 7 giờ, họ tới con sông ở sườn phía nam Đồi Độc Lập. Đại đội của tiểu đoàn 1 dù lê dương thuộc địa hình bán theo xe tăng vượt sông, đại đội dù Việt Nam số 3cũng đi theo. Cuộc chiến đấu trong đồn đã kết thúc. Một số binh lính Bắc Phi chạy ra khỏi đồn từ lúc nào, nhảy lên bám lấy tháp pháo xe tăng mong được cứu sống.

Đại đội 213 của trung đoàn 88 làm nhiệm vụ chặn viện lập tức quét đại liên vào quân địch. Sơn pháo của ta bố trí bí mật trên cánh đồng, nổ súng vào xe tăng. Tiếc là đã hết đạn khoan nên chiếc xe tăng chỉ bị thương.

Viên trung úy chỉ huy đại đội 2 dù Việt Nam dừng lại cùng với đại đội của mình, không chịu vượt sông. Hai đại đội 1 và 4 đi sau cũng dừng lại.

8 giờ 30, toàn bộ xe tăng và quân dù phản kích quay đầu tháo chạy về Mường Thanh. Súng máy, súng cối, sơn pháo của ta đặt trên đồi Độc Lập và trận địa lựu pháo ở dãy núi phía đông bắn đuổi theo tiêu diệt thêm một số quân địch.

Cuộc chiến đấu của quân địch tại Gabrielle coi như kết thúc.

❖ 2 ❖

Phân khu Bắc của địch gồm hai trung tâm đề kháng Gabrielle và Anne Marie (Annơ Mari): Gabrielle nằm ở phái bắc bảo vệ từ xa cho tập đoàn cứ điểm. Anne Marie cách Gabrielle 1 kilômét về phía nam, là những cứ điểm trực tiếp bảo vệ sân bay. Trung tâm đề kháng này gồm 4 cứ điểm: Anne Marie 1 và Anne Marie 2 nằm ở vòng ngoài, trên hai mỏm của đồi Bản Kéo, nên được ta gọi là cứ điểm Bản Kéo; Anne Marie 3 và Anne Marie 4 nằm ở đầu bắc sân bay, liền kề với Phân khu Trung tâm. Mấy ngày sau đó, Anne Marie 3 và 4 được sát nhập vào Phân khu Trung tâm, trở thành Huguette (Huyghét) 6 và Huguette 7.

Tiểu đoàn ngụy Thái số 3 đóng tại Bản Kéo vốn từ Lai Châu rút về, đã từng có mặt tại tập đoàn cứ điểm Nà Sản năm trước, do thiếu tá Thimonnier (Timonniê) chỉ huy. Navarre vốn không tin những đơn vị người địa phương, trước khi nổ ra đợt tiến công, đã gợi ý nên tăng cường thêm một trung tâm đề kháng ở hướng này, nhưng Castries và cả Cogny không nghe. Nhiệm vụ tiêu diệt Bản Kéo được trao cho trung đoàn 36. Lực lượng đóng tại Bản Kéo không đáng ngại, nhưng Bản Kéo ở gần Phân khu Trung tâm, cần đề phòng hoả lực địch yểm trợ từ nhiều phía, xe tăng và lực lượng phản kích có thể tăng viện dễ dàng.

Quân báo cho biết tin, sau khi hai cứ điểm Him Lam và Độc Lập bị tiêu diệt, bọn địch ở đồn Bản Kéo hết sức hoang mang. Trong suốt đêm ta bị đánh vào đồi Độc Lập, quân địch ở Bản Kéo cách đó chưa đầy một ngàn mét, không hề có bất cứ động tĩnh gì, kể cả dùng hoả lực chi viện cho Gabrielle. Biểu hiện rõ nhất là trước viện quân ta đào hào bao vây Bản Kéo, chúng cũng không dám chống cự. không một binh lính nào dám thò ra khỏi công sự lấy nước tại con suối ngay dưới chân đồn.

Ta chủ trương tiếp tục tổ trao trả một đợt thương binh cho địch ở đông Bản Kéo. Cơ quan chính trị của trung đoàn chiến thắng tại Gabrielle viết một bức thư yêu cầu chỉ huy đồn Bản Kéo cứ ngưởi đến tiếp nhận thương binh tại Gabrielle sẽ được đưa tới bãi ruộng ở chân đồi Bản Kéo. Kèm theo thư này là tối hậu thư hạ lệnh cho đồn Bản Kéo phải đầu hàng trước 17 giờ ngày mai- ngày 17 tháng 3. Ta hy vọng làm cách này sẽ tránh được một cuộc tiến công vào số binh lính Thái đóng ở Bản Kéo.

Ta đã nhắm trong số thương binh nhẹ từ Đồi Độc Lập, một người có thể làm việc này. Đây là anh binh nhì, người Angiêri, tên là Mêđien, nhanh nhẹn, tháo vát và tỏ ra có nhiều thiện cảm với bộ đội. Ta còn muốn nhờ anh mang theo trong người một số truyền đơn để phát tán ngay trong vị trí. Nhưng khi ta nêu vấn đề với Mêđien thì anh ta từ chối. Anh ta khẩn khoản nói:

-Tôi đã rõ: con đường sống của tôi là về trại tù binh. Vác đạn, tải thương, lao công, việc gì tôi cũng làm được. Tôi không muốn về với quân Pháp một phút nào nữa.

Ta giải thích đây là một việc làm cần thiết, một việc cùng chống kẻ thù chung là đế quốc Pháp. Mêđien vẫn không nghe. Môhamét, một hàng binh, đề nghị:

-Tôi xin đi thay cho Mêđien. Tất nhiên bản thân tôi cũng như Mêđien không hề muốn trở lại với cái quân đội bẩn thỉu ấy.

Nhưng Môhamét đã là hàng binh, nếu địch phát hiện sẽ rất nguy hiểm cho anh. Môhamét đành phải quay lại động viên bạn. Cuối cùng Mêđien nghiêm trang đáp:

-Tôi xin phục tùng mệnh lệnh. Tôi hứa: tôi sẽ không bao giờ nhằm súng vào các ông.

5 giờ chiều, ngớt máy bay, Mêđien ra đi. Anh nhận thêm cả hai tập truyền đơn địch vận giấu trong người để bí mật phân phát trong vị trí.

Trưa ngày 15, viên đại uý Clarchambre (clácsăm), chỉ huy những cứ điểm nằm trên đồi Bản Kéo, nhận được một lá thư của đơn vị chiến thắng tại Gabrielle, do một lính Angiêri bị thương đưa tới. Trong thư hẹn: 7 giờ sáng hôm sau (16 tháng 3 năm 1954) cử người tới bãi ruộng bên bờ suối phái đông- bắc, nhận những thương binh của tiểu đoàn 5 Angiêri sẽ được trao trả, kèm theo bản tối hậu thư kêu gọi: “Toàn bộ binh sĩ ở Bản Kéo hãy ra hàng để tránh bị tiêu diệt trong một ngày sắp tới ”. Clarchambre phải báo cáo điều này với Castries. Castries một lần nữa thấy không thể khước từ đề nghị nhận lại thương binh tại Gabrielle được trao trả.

Ngày 16 tháng 3, một viên trung uý và một số binh lính Thái có mặt đúng giờ ở địa điểm với những chiếc cáng thương. Binh sĩ tiểu đoàn 5 bị thương đã được băng bó cẩn thận, đang nằm chờ. Khi chia tay với những người chiến thắng, một số người lính Angiêri bỗng hô to: “ Hồ Chí Minh muôn năm! Cảm ơn các bạn!”

Tiếng loa vang vang kêu gọi những người con lầm đường hãy trở về mường bản, không theo địch, không dùng súng bắn giết bố mẹ, anh em. Nhiều truyền đơn được phát tán cả bên trong cứ điểm. Dưới chân đồn Bản Kéo, bỗng xuất hiện một áp phích lớn. Đập vào mắt mọi người là hình ảnh một đoàn binh lính rời bỏ vị trí kèm theo dòng chữ: “ Quay trở về với Tổ Quốc, các anh sẽ được đón tiếp tử tế ”.

Ba giờ sau. Trong đồn Bản Kéo nổ ra một cuộc binh biến. Lính Thái rủ nhau kéo lên hầm viên quan ba đồn trưởng, đòi thoả mãn yêu sách:

Một: Phát hết khẩu phần lương thực.

Hai: Giải tán về quê hương làm ăn.

Mấy viên sĩ quan chẹn cửa hầm, quát:

-Về vị trí, chờ lệnh!

Lính thái hô vang:

-Không đánh thuê nữa! Giải tán thôi anh em ơi! Đả đảo thực dân Pháp!

264 binh lính, trong đó có một viên trung uý người Thái, phá huỷ mấy khẩu 12 ly 7, ĐKZ, rồi mang toàn bộ vũ khí nhẹ chạy sang hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam, y như điều hẹn trong bức tối hậu thư.

Tên quan ba đồn trưởng ra lệnh bắn đuổi theo. Nhưng đạn đại bác 105 và súng cối 82 của ta cũng rót vào đồn, làm cho những tên còn lại hoảng lên, bỏ chạy toán loạn về Mường Thanh, chỉ còn lại mấy viên sĩ quan. Cuối cùng bọn này cũng vội vã chuồn nốt. (1) Và lựu pháo của ta cũng lập tức bắn dồn dập vào trận địa pháo địch ở Mường Thanh, yểm hộ cho binh sĩ Thái chạy tới những vị trí trú ẩn an toàn trong rừng.

Trung đoàn 36 không cần nổ súng đã chiếm được Bản Kéo và thừa thắng tiến vào chiếm các ngọn đồi ở phía bắc sân bay.

❖ 3 ❖

Nếu như hai trung tâm đề kháng được coi là mạnh nhất của tập đoàn cứ điểm bị tiêu diệt nhanh chóng trong đợt tiến công đầu tiên đã làm cho người Pháp choáng váng thì nỗi kinh hoàng bậc nhất trong đợt tiến công này lại là sự xuất hiện lần đầu trọng pháo của ta trong chiến tranh Đông Dương, và pháo binh của Pháp đã thua trong cuộc đấu pháo.

Đáng lẽ ra không quân cũng phải chia sẻ trách nhiệm không tiêu diệt được các trận địa pháo của ta. Nhưng mọi người chỉ nhắc tới Piroth.

Đại tá Piroth, 48 tuổi, đã bị thương mất một cánh tay ở Ý năm 1943, vẫn được giữ lại trong quân đội là do những phẩm chất, kinh nghiệm của một sĩ quan pháo binh. Piroth là người được chính Cogny, vấn là sĩ quan pháo binh, trực tiếp chọn. Người ta đã trao cho ông ta những đơn vị pháo binh đầy truyền thống. Tiểu đoàn 3, trung đoàn pháo binh thuộc địa số 10 (3/10 R.A.C), với ba cụm pháo 105 Mỹ, mỗi cụm bốn khẩu, có một sức mạnh đáng sợ. Một tiểu đoàn dược trang bị pháo 155 Mỹ mới tinh, loại pháo lớn nhất ở Đông Dương. Ngoài ra còn có ba đại đội súng cối hạng nặng 120 của Pháp mà đường đạn cầu vồng của nó trên nguyên tắc có thể phá tan mọi loại chiến hào của địch. Người ta đã nhận xét, trên căn cứ Phân khu Trung tâm rộng có 2,5 kilômét vuông, với 12 khẩu 105, 4 khẩu 155, 24 khẩu 120 và 81 và một khối lượng lớn đạn dược như vậy là quá đủ.

Trước khi trận đánh nổ ra, Piroth đã trình bày với cấp trên cũng như quan khách tới thăm ba điều: Một là: Việt Minh không thể nào đưa pháo của họ lên đây. Hai là: Nếu họ mang được tới thì ta sẽ tiêu diệt. Ba là: Dù cho bằng cách nào đó nó vẫn tiếp tục bắn được thì Việt Minh cũng không có đủ khả năng tiếp tế đạn cho pháo của họ để có thể thực sự gây khó khăn cho ta.

Piroth đã nói với Pierre Schoendoerffer, một phóng viên: “Không có một khẩu đại bác nào của Việt Minh có thể bắn đến phát thứ 3 mà không bị pháo của tôi tiêu diệt”. Một lỗi lầm nữa của Piroth được nhiều người nhắc lại là khi Bộ trưởng Marc Jacket gợi ý ông nên xin điều thêm lên Điện Biên Phủ một số khẩu pháo trong rất nhiều khẩu không dùng đến chất đống tại Hà Nội, Piroth đã trả lời mình có thừa pháo rồi.

Mọi trách nhiệm được đổ cho Piroth là do những lời tuyên bố lớn lối của ông ta.

Để bắn được trúng mục tiêu, pháo binh cần có những đài quan sát và sự chỉ điểm của máy bay, nhưng chỉ sau 48 giờ đầu tất cả những đài quan sát đặt trên các ngọn đồi và cả phi đội 6 máy bay trinh sát đều bị ta tiêu diệt.

Jean Pouget (Giăng Pugiê) nói Piroth đã dành chọn một đêm 13 tháng 3 quan sát hoả lực dần dần bị đối phương phản pháo chính xác một cách kinh khủng vào trận địa pháo của ông, hai khẩu pháo 105 ly cùng pháo thủ bị quét sạch, một khẩu 155 ly bị loại khỏi vòng chiến đấu…

Đại tá Trancart (Tơrăngca), chỉ huy Phân khu Bắc, bạn thân của Piroth kể lại sau trận Gabrielle, Piroth khóc và nói: “Mình đã mất hết danh dự. Mình đã bảo đảm với Castries và Tổng chỉ huy sẽ không để pháo binh địch giành vai trò quyết định, và bây giờ, ta sẽ thua trận. Mình đi thôi”.

Sáng ngày 15, Langlais nhận thấy có nước mắt trong khoé mắt của viên đại tá. Langlais hỏi:

-Đã biết pháo binh Việt Minh đặt chỗ nào chưa?

-Có lẽ ở đây. – Piroth chỉ ngón tay trên bản đồ.

-Có bắt chúng câm họng được không?

Piroth nhún vai.

Trong buổi hội ý, Castries đã quở trách Piroth và lên án y, rồi bảo viên đại tá về nghỉ. Pirot đứng dậy đi ngay. Từ đó, ông ta không chịu ăn uống. Castries cho người mang bữa ăn tới tận hầm và nhờ cha tuyên uý Heinrich tới săn sóc. Ông tuyên uý báo cáo Piroth đã khá hơn. Nhưng viên đại tá luôn mồn lẩm bẩm: “Chúng tôi đã biết gần đúng họ có bao khẩu pháo. Chúng tôi sẽ thắng vì có lựu pháo 155 bắn cầu vồng. Chúng tôi chờ họ đặt pháo thành dàn ở bên kia đỉnh núi, vì họ không thể đặt ở sườn đối diện với ta… ”

Sáng 15, người lính hầu của Piroth hiện ra như một người điên ở phòng sĩ quan tuỳ tùng và kêu cứu. Trong hầm, Piroth nằm dài, đầu và ngực nát bấy, cánh tay duy nhất của y bị cắt đứt. Castries quyết định giấu nhẹm chuyện Piroth tự sát. Các tuyên uý cùng với viên quan ba bác sĩ Le Dumany đào ngay một cái huyệt trong căn hầm và vùi xác Piroth xuống đó với vôi bột và lấp kín căn hầm. Người ta nói là Piroth bị đạn pháo bắn trúng hầm như trường hợp của Gaucher.

Castries điện cho Hà Nội: “Đại tá Piroth đã hy sinh trên chiến trường”.

Vì sao bi kịch này đã đến với Piroth? Piroth không phải không nhận thấy số pháo của mình không nhiều. Piroth chắc hẳn cũng đã biết là ở Triều Tiên quân địch bố trí trận địa pháo ngay ở sườn núi đối diện mà máy bay Mỹ đã không thể nào huỷ diệt. Nhưng Piroth còn tin vào những nguồn tư liệu khác cũng do chính cơ quan tình báo của Pháp cung cấp, là chặng đường dài 800 kilômét từ biên giới Trung Quốc tới mặt trận và con đường đất trên những đèo cao hiểm trở, dưới sự oanh tạc của cả không quân Pháp và máy bay Mỹ, sẽ không cho Việt Minh đưa những khẩu trọng pháo cơ giới và cả số đạn cần thiết tới Mường Thanh. Và Piroth còn tin hơn vì chỉ mới đầu năm, pháo binh của con nhím Nà Sản bé nhỏ hơn nhiều đã cho cùng những đại đoàn đang có mặt ở chiến dịch hôm nay phải ăn bụi và từ bỏ tham vọng đánh vào tập đoàn cứ điểm. Piroth khó nghĩ khác trong khi những người chung quanh, hiểu biết hơn ông ta nhiều cũng nghĩ như vậy.

Nhưng Piroth đã được đánh giá có lẽ là cao nhất trong những nạn nhân ở Điện Biên Phủ, vì ông ta tự nhận thấy trách nhiệm của mình, và ông ta đã tự xử một cách nghiêm khắc. Ông là người duy nhất được người Pháp tôn vinh bằng một tấm bia tưởng niệm trên chiến trường Điện Biên Phủ.

❖ 4 ❖

Theo Bernard Fall, trong ngày 15, Cogny gửi cho Navarre một văn bản tuyệt mật báo cho ông ta biết cần phải dự kiến khả năng thất bại của Điện Biên Phủ. Trong thư có những đoạn sau:

“ Ba binh đoàn cơ động bổ sung là cần thiết cho đồng bằng châu thổ, trong đó hai binh đoàn phải có sau tám ngày nữa để tránh một thảm hoạ chung tiếp theo thảm hoạ mà chúng ta có nhiệm vụ phải dự kiến có thể xảy ra ở Điện Biên Phủ”.

Thêm vào đó, có lẽ cũng cần phải giữ lại các tiểu đoàn khinh quân định điều cho ‘Atlante’…

Cuối cùng, để có thể củng cố được các đường giao thông, có lẽ cần phải trả lại ngay cho Bắc Kỳ tiểu đoàn công binh và phi đoàn vận tải đã lấy của nó và điều thêm cho nó những đội lính thuỷ commando thay thế vào chỗ ba đại đội commando được điều cho Atlante, một sự điều động mà tầm quan trọng của việc bảo đảm giao thông trên sông Hồng làm cho người ta khó hiểu…”

Ngày 15 tháng 3, Navarre có mặt tại Hà Nội. Ông ta có thói quen làm việc cách biệt, ngay ở Sài Gòn, ông cũng thường sống trong một biệt thự kín đáo. Nhưng lần này, ông ta ở ngày trong Thành Hà Nội.

Trong phòng làm việc, Navarre chỉ có một mình, rất bình tĩnh và gần như câm lặng. Cogny cho người tới đưa trình Tổng chỉ huy bản sao của hai bức điện. Một bức điện của De Castries viết: “Tôi nghĩ là chúng tôi có thể bị tan rã, trong trường hợp đó, tôi dự kiến ra lệnh cho Isabelle rút chạy bằng những phương tiện của mình”. Bức kia là lời phúc đáp của Cogny: “Ông có lý để dự kiến trường hợp xấu nhất, nhưng trước hết phải nghĩ đến việc giữ vững vị trí… Ngày mai tôi sẽ gửi cho ông một tiểu đoàn dù”.

Navarre liếc nhìn những bức điện một cách khinh bỉ. Ông ta biết Cogny định nói gì với mình.

Cogny và những người chung quanh y đã không bao giờ hiểu được những nước cờ của ông, kể cả lúc họ chống cũng như tán thành ông. Khi ông chủ trương đánh chiếm Điện Biên Phủ, họ kết lại với nhau để phản đối. Khi ông hoàn tất việc chiếm Điện Biên Phủ, họ hí hớn như con trẻ, chờ một chiến thắng quyết định. Họ không thể hiểu ra nước cờ đưa quân lên Điện Biên Phủ chỉ nhằm hút một số đại đoàn của Tướng Giáp lên miền Tây xa xôi, và ông ta đã thành công hơn thế nhiều, không những một số tiểu đoàn Pháp ở Điện Biên Phủ đã thu hút được phần lớn đội quân chủ lực tác chiến của Việt Minh mà cả chính Tướng Giáp cùng sở chỉ huy của mình cũng đã có mặt ở Điện Biên Phủ. Đối với Navarre, Điện Biên Phủ chỉ là một chiếc nhọt tụ độc. Họ không thể hiểu là nhờ đó mà đồng bằng không còn bị đe dọa, ông ta được hoàn toàn tự do sử dụng lực lượng quân cơ động tập trung tại đây để đối phó với bất cứ cuộc tiến công nào của đối phương trong mùa khô này. Nếu không có nước cờ táo bạo này, làm sao suốt thời gian qua, ông ta đã dễ dàng chặn đứng tất cả những cuộc tiến công của đối phương trên cả chiến trường Đông Dương với những lực lượng rất có hạn. Họ chỉ nhìn thấy viễn ảnh lừa dối của một chiến thắng dễ dàng ở Điện Biên Phủ. Trong khi đó, chính ông đã lường trước những khó khăn khi được báo cáo đối phương đang chuyển lên đây một số pháo lớn. Ông đã khuyên cả Cogny và Castries nên nhận thêm mấy tiểu đoàn, cắm thêm một vài trung tâm đề kháng để làm đối phương ngã lòng không thể nuôi tham vọng tiến công Điện Biên Phủ, nhưng cả hai bộ óc thiển cận này đã không nghe ông.

Tình hình Điện Biên Phủ đã tạo cho Navarre sự bất ngờ lớn. Kẻ địch rất khó chơi. Nhưng cuộc chơi còn tiếp tục.

Điều khiến Navarre khó chịu nhiều hơn cả là cái gã bò mộng Cogny rêu rao với những sĩ quan của mình và hai nhà báo Lucien Bodart và Max Clos: “Hàng tháng nay tôi đã nói với tướng Navarre rằng Điện Biên Phủ chỉ là một cái bẫy chuột” (2)

Y nói điều này ở đâu? Bao giờ? Điều y lớn tiếng tuyên bố mà ai ai cũng biết, là: “Nếu con nhím Nà Sản đặt được trên chiếc xe lăn thì tôi đã đưa nó lên Điện Biên Phủ từ lâu!” Y tán dương cái bẫy Điện Biên Phủ đến mức có lần ông ta đã phải bảo là nên thôi đi…

Navarre có thể thông cảm với Cogny là sự thiển cận, không nhìn thấy những ý định sâu xa của Tổng chỉ huy. Nhưng điều ông ta không thể tha thứ cho Cogny là sự phản bội. Từ sự phản bội muốn tranh công khi thuận lợi đến đổ lỗi khi gặp khó khăn. Từ việc họ ru ngủ ông ta bằng những chiến thắng ngọt ngào đến việc kiên quyết khước từ sự nài nỉ của ông ta tăng cường thêm cho Điện Biên Phủ vài ba tiểu đoàn. Cogny, vốn là pháo thủ, cũng đồng lõa với Piroth đánh lừa Tổng chỉ huy là sẽ vô hiệu hoá những khẩu trọng pháo Việt Minh ngay từ khi chúng cất tiếng. Những viên phi công đã lừa ông là sẽ cắt đứt con đường đất bé tí nằm cheo leo bên sườn núi, phía dưới là vực thẳm. Trong khi đối với ông Điện Biên Phủ chỉ là cái mồi thu hút quân chủ lực địch trong mùa khô này thì chúng lại cố tình biến nó thành một chiến trường để giành thắng lợi quyết định. Không phải đó chỉ là sự thiển cận mà có cả sự lừa dối, sự phản bội.

Navarre và Cogny chỉ trao đổi với nhau bằng giấy tờ, mặc dù họ ở trong cùng một ngôi nhà, người tầng trên, người tầng dưới. Mỗi lần gặp nhau, họ chỉ tìm cách đổ lỗi cho nhau. Navarre lên án Cogny đã giữ lại những đơn vị khá nhất ở đồng bằng, đã xây dựng công trình phòng thủ Điện Biên Phủ với những lực lượng không có khả năng phản kích ban đêm, đã khước từ những gợi ý của ông ta ngày 4 tháng 3.

Mỗi ngày, ông ta càng thêm khó chịu với cách nhìn thiển cận của cấp dưới. Cái vui, cái buồn của họ đều thiếu suy nghĩ. Họ không nhận ra là vừa qua, quân đồn trú mới chỉ mất một số cứ điểm đột xuất ở vành ngoài. Những đơn vị của Tướng Giáp sẽ không dễ dàng như thế khi tiến vào phân khu Trung tâm với dẫy điểm cao phía đông và những vị trí nằm ken chặt dưới cánh đồng. Đấy mới thực sự là con nhím Điện Biên Phủ. Họ sẽ biết hoả lực của không quân, pháo binh, xe tăng như thế nào khi triển khai quân trên cánh đồng Mường Thanh, khi đụng đến những điểm cao phía đông.

Những người giúp việc cho Navarre đã quên cả một nhược điểm lớn của đối phương mà họ đã nhiều lần báo cáo với Tổng chỉ huy: khả năng tiếp vận của đối phương sẽ không cho phép họ duy trì một cuộc chiến đấu dài ngày trên chiến trường rừng núi Tây Bắc xa căn cứ địa của họ từ 400 đến 800 kilômét. Việt Minh sẽ duy trì cường độ chiến đấu như mấy ngày qua được bao lâu? Và còn người Mỹ thừa tiền của, thừa sức mạnh. Còn hơn cả Pháp, người Mỹ sẽ không bao giờ chấp nhận một sự bại trận nhục nhã ở Điện Biên Phủ.

Navarre căm hận những kẻ thừa hành đã lừa dối ông, đã phản bội ông, để Điện Biên Phủ lâm vào tình trạng khó khăn này. Những kẻ mới hôm trước còn có những lời tuyên bố hung hăng, không để dành cho mình một chỗ tránh né khi trận đánh gặp khó khăn, bây giờ đã tỏ ra hoang mạng cực độ. Ông ta bực dọc, khinh bỉ, không vui, nhưng không cho là mình đã hết mọi lá bài.

Navarre chỉ ở lại Hà Nội một thời gian ngắn rồi trở về Sài Gòn.

Tình hình Điện Biên Phủ ngày càng nguy ngập.

Ngày 25 tháng 3, Navarre trở lại Hà Nội.

Những chiến hào của Việt Minh đang phát triển về phía Dominique.

Cogny vẫn tiếp tục làm theo cách cũ là viết thư cho Navarre báo cáo tình hình và những ý kiến của mình. Trong lá thư ngày 25, Cogny báo động Navarre về tình hình nguy ngập ở đồng bằng Bắc Bộ, tình hình tiếp tế sắp trở nên nguy kịch và yêu cầu tăng viện lực lượng cơ động và công binh. Navarre thừa biết đây sẽ là những bằng chứng Cogny sẽ viện dẫn sau này nếu trận đánh thất bại.

Ngày 28, Navarre quay về Sài Gòn và gửi thư cho Cogny, bên trên Navarre tự tay ghi “Thư riêng. Tối mật”, trả lời những gì Cogny đã viết cho mình ngày 25 tháng 3. Navarre viết: “Chúng ta đang tiến hành một cuộc tổng giao chiến, do đó tôi có bổn phận tuyệt đối phải phân chia lực lượng cho những người dưới quyền theo nhiệm vụ mà tôi được trao phó và tôi là người phân xử duy nhất. Trong sự phân chia lực lượng, rõ ràng ông là người được ưu đãi nhất so với phần lớn những tư lệnh vùng. Đòi hỏi tôi không ngừng tăng viện lực lượng đồng nghĩa với việc đòi hỏi tôi những gì mà ông biết tôi không thể cho ông, hoặc là tôi chỉ có thể cho ông mà gây thiệt hại cho các bạn chiến đấu của ông.(…) Tôi không chấp nhận bất kể trong trường hợp nào những tình huống dự kiến trong lá thư ngày 25 tháng 3 sẽ xảy ra; trong trường hợp đó, ông hoàn toàn chịu trách nhiệm trước tình hình chỉ là hậu quả của một sự sử dụng tồi những phương tiện ông hiện có ”. (3)

Chú thích:

1. Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ. “Cứ điểm thứ ba” của Địa Vũ.

2. Jean Pouget, Nous, étions à Dien bien Phu (Chúng tôi đã ở Điện Biên Phủ) =, Presses de la Cité. 1964. tr. 226.

3. Jules Roy. Sđd. Tr. 494 – 495.