← Quay lại trang sách

Chương XXIV CHIẾN HÀO ĐI

Khi bạn ta

Lấy thân mình đo bước

Chiến hào đi

Ta mới hiểu giá từng thước đất

Các anh nằm đây

Trận địa là đây

Trận địa sẽ không rời nửa thước

Không bao giờ

Không bao giờ để mất

Mảng đất

Các anh nằm

Chính Hữu

(Nguyên chính trị viên Tiểu đoàn 322,

Trung đoàn 88, Đại đoàn 308)

❖ 1 ❖

Ngày 17 tháng 3 năm 1954, Bộ chỉ huy chiến dịch tổ chức hội nghị sơ kết đợt 1 tại sở chỉ huy Mường Phăng.

Chỉ huy trưởng trình bày một bản sơ kết, và nhấn mạnh: “hai trận chiến đấu vừa qua là 2 trận đầu của một chiến dịch lịch sử, là hai trận đầu đánh vào một tập đoàn cứ điểm của địch, là hai trận công kiên lớn nhất từ trước đến nay, là hai trận đánh theo lối chính quy. Đánh thắng hai trận đó, chúng ta đã thu được thắng lợi lớn, quân địch đã bị thất bại nặng, nhưng lực lượng của chúng còn mạnh và chúng còn ra sức đối phó. Chúng ta cần phải có một nhận thức đúng đối với tương quan lực lượng giữa địch và ta, giữ vững quyết tâm trong những cuộc chiến đấu gay go sắp tới”.

Trong lúc hội nghị đang họp, đại đoàn 308 báo cáo, quân địch ở Bản Kéo đã tháo chạy khỏi cứ điểm ra hàng bộ đội ta. Chỉ trong vài ngày, toàn bộ Phân khu Bắc của địch đã bị tiêu diệt. Pháo cao xạ của ta đã tiến vào cánh đồng Mường Thanh bắn rơi những chiếc máy bay đầu tiên.

Chỉ huy trưởng lưu ý các đơn vị là vừa qua ta mới đánh vào những tiểu đoàn của địch đứng riêng lẻ, nay ta sẽ phải đánh vào khu trung tâm của địch với hơn ba mươi cứ điểm nằm sát nhau trên cánh đồng hai bên bờ sông Nậm Rốm và trên dãy đồi phía đông, với hơn một vạn quân. Đây là địa bàn quân địch có thể phát huy tối đa ưu thế về không quân, chiến xa và pháo binh kết hợp với những đợt phản kích của lực lượng cơ động thiện chiến. Địch sẽ khai thác những nhược điểm của bộ đội ta khi chiến đấu trên địa hình thiếu chỗ ẩn náu, khi chiến đấu ban ngày... Và đặc biệt, khu Trung tâm có một dãy đồi phía đông. Địch đã biến dãy đồi này thành một lũy thép trùng điệp che chở và bảo vệ cho sở chỉ huy và tất cả những cứ điểm của địch nằm dưới cánh đồng.

Đây chính là thế trận quân địch đã bày sẵn để chờ ta trên chiến trường do chúng lựa chọn.

Chỉ huy trưởng dự kiến chiến dịch sẽ gồm ba đợt. Đợt thứ nhất đã hoàn thành. Ta đang bước vào đợt tứ hai, siết vòng vây trận địa chiến hào, tiêu diệt và tiêu hao quân địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, làm cho kẻ địch suy yếu dần. Đợt này sẽ dài nhất, mang tính quyết định. Và đợt cuối cùng là tổng công kích để giành toàn thắng.

Trong khi mọi người chờ đợi được nghe phổ biến mục tiêu và nhiệm vụ của đợt tiến công thứ hai thì họ chỉ được nghe những nhiệm vụ phải làm để chuẩn bị cho đợt tiến công này.

Chỉ huy trưởng nêu lên ba việc:

Thứ nhất, phải nhanh chóng tiếp cận, bao vây địch bằng cách xây dựng trận địa tiến công và bao vây khắp các mặt đông, tây, nam, bắc của tập đoàn cứ điểm, trong cự ly có hiệu quả của tất cả các loại súng lớn, nhỏ của ta, đồng thời chia cắt phân khu Hồng Cúm với phân khu trung tâm.

Thứ hai, tiếp tục đánh “bóc” thêm một số cứ điểm ở ngoài “vỏ” tập đoàn cứ điểm, theo nguyên tắc phải bảo đảm chắc thắng.

Thứ ba, phải khống chế sân bay của địch cho hiệu quả; chuẩn bị đánh địch phản kích; tăng cường những hoạt động nhỏ, tiêu hao, quấy rối quân địch.

Trong những nhiệm vụ trên, việc xây dựng trận địa tiến công và bao vây là quan trọng nhất.

Thời gian dành cho việc xây dựng trận địa bao vây và tiến công trong đợt hai là 10 ngày. Những tuyến chiến hào vạch ra trên bản đồ ước tính dài khoảng 100 kilômét. Và chắc sẽ không dừng lại ở con số này. Việc xây dựng trận địa sẽ còn phải tiếp tục trong suốt quá trình chiến đấu.

Ngày đầu chiến tranh, trong những trận đánh ở thành phố và một thời gian ngắn sau khi rút khỏi các thành phố, bộ đội ta đã sử dụng chiến hào để ngăn chặn những cuộn tiến công của địch. Suốt những năm sau đó, ta không hề quay lại chiến thuật này, kể cả trong chiến dịch bao vây quân địch ở Hòa Bình. Những chiến hào trong chiến tranh thường mang tính phòng ngự. Trong phương án “đánh nhanh thắng nhanh”, ta không tính đến phương án sử dụng chiến hào. Tuy lúc này, ta là kẻ bao vây và tiến công tiêu diệt quân địch, nhưng phương án đánh địch của ta đã thay đổi. Ta đã xác định: chúng ta vẫn ở thế “yếu đánh mạnh”. Trận địa chiến hào sẽ giúp ta không chỉ ban đêm mà cả ban ngày hạn chế được sức mạnh không quân, pháo binh và hỏa lực bộ binh trong khi tiếp cận tập đoàn cứ điểm địch. Trận địa chiến hào sẽ giúp ta bảo vệ những vùng đất của ta và cả những vùng đất mới chiếm chống lại những cuộc tiến công của địch. Trận địa chiến hào sẽ cho phép ta bao vây quân địch và siết chặt dần vòng vây để bóp nghẹt con nhím Điện Biên Phủ. Không có trận địa chiến hào, như lúc này, chỉ một số pháo binh ít ỏi, có tầm bắn xa của ta mới với được tới tập đoàn cứ điểm của địch. Trận địa chiến hào sẽ cho phép hỏa lực của ta mạnh lên nhiều lần, vì khi chiến hào ta vào gần địch thì không kể súng cối, súng trường, tiểu liên mà cả lựu đạn của ta đều trở thành hỏa lực trực tiếp sát thương quân địch. Trận địa chiến hào sẽ giúp bộ đội ta giấu kín mọi hoạt động của mình, kể cả những cuộc chuyển quân, chuẩn bị chiến đấu ngay trước mắt quân địch.

Ta không có quân số áp đảo so với quân địch phòng ngự, ta không có máy bay, xe tăng, trận Điện Biên Phủ sẽ được quyết định bởi một trận đánh bằng chiến hào. Trận đánh này không chỉ cẩn đến sự dũng cảm, máu và mồ hôi, mà còn cả sự bền sức, bền gan của quân đội ta trong một trận đánh dài ngày.

Ta chủ trương làm trận địa chiến hào từ trận địa trú quân cho tới sát hàng rào tập đoàn cứ điểm.

Mở đầu là một đường hào bao vây toàn bộ khu Trung tâm tập đoàn cứ điểm trên cánh đồng Mường Thanh và dãy cao điểm phía đông, được gọi là đường hào trục. Đây là con đường mới dưới lòng dất nối liền các đại đoàn của ta ở phía tây và phía đông hai bên tả ngạn và hữu ngạn sông Nậm Rốm trên cánh đồng Mường Thanh trống trải. Nó cho phép ta bí mật điều động bộ đội trên toàn mặt trận, cơ động pháo và vận chuyển thương binh cả ban đêm và ban ngày tránh được sự khống chế của không quân và trọng pháo địch. Nếu như trước đây các đại đoàn của ta có mặt ở Điện Biên Phủ đã hình thành thế bao vây quân địch, nhưng thực sự chỉ là một vòng vây với nhiều lỗ hổng vì giữa các đơn vị đều có những khoảng cách nhiều khi khá xa. Với việc xây dựng đường hào trục, ta đã có một vòng vây chiến hào khép kín từ xa với đại bộ phận quân địch tại Điện Biên Phủ. Đây là sợi thòng lọng đã tung ra xung quanh con nhím của Navarre và sẽ dần dần siết chặt.

Cùng với đường hào trục, còn có loại đường hào thứ hai, là đường hào tiếp cận của bộ binh. Đường hào này chạy từ vị trí trú quân của từng đơn vị nằm trên sườn núi đổ xuống cánh đồng, cắt ngang đường hào trục bò dần tới những vị trí địch mà từng đại đoàn đã được phân công tiêu diệt.

Đường hào tiếp cận của bộ binh, chính là đường hào tiến công, có nhiệm vụ thu hẹp dần sợi dây thòng lọng xung quanh con nhím Điện Biên Phủ, đưa những mũi chiến hào của ta tới sát hàng rào những cứ điểm mục tiêu trong đợt tiến công thứ hai. Đối với đại đoàn 308 ở phía tây, là những cứ điểm thuộc trung tâm đề kháng Huyguette có nhiệm vụ bảo vệ sân bay, trước tiên là cứ điểm 106 (Huguette 7) . Đối với đại đoàn 312 ở phía đông- bắc là cao điểm E (Dominique 1), cao điểm D (Dominique 2) nằm ở bắc dãy đồi phía đông, cứ điểm 105 (Huguette 6), một cứ điểm nằm ở đầu bắc sân bay thuộc trung tâm đề kháng Huguette. Đối với đại đoàn 316 là cao điểm A1 (Eliane 2) và cao điểm C1 (Eliane 1) thuộc trung tâm đề kháng Elian nằm ở phía nam dãy đồi phía đông. Đường hào tiếp cận của bộ binh là đường hào chiến đấu nên có hố phòng pháo, hầm trú ẩn, chiến hào và ụ súng để đối phó với những cuộc tiến công, phản kích của địch.

Trên cánh đồng phía nam, trung đoàn 57 của đại đoàn 304, được tăng cường một tiểu đoàn của 316, có nhiệm vụ xây dựng một trận địa hình cánh cung, chạy từ đông sang tây,cắt rời phân khu Hồng Cúm khỏi khu trung tâm Mường Thanh.

Trận địa của đại đoàn 308 phụ trách phía tây và trận địa các đại đoàn 312 và 316 ở phía đông gặp nhau một đầu ở Đồi Độc Lập phía bắc, một đầu ở bản Cò Mỵ phía nam, kết hợp thành một đường vòng rộng ôm lấy toàn phân khu Trung tâm.

Tất cả những đường hào của ta đều sâu 1,7 mét, tính theo chiều cao trung bình của bộ đội ta, nếu có người vượt quá chiều cao này, thì với phần đất đào lên đắp hai bên thành hào cũng đủ bảo vệ an toàn và giữ bí mật cho bộ đội ta khi di chuyển. Đáy hào trục rộng 1,2 mét đủ cho pháo binh di chuyển. Đáy hào tiếp cận của bộ binh chỉ rộng 0,5 mét để thu nhỏ mục tiêu trước bom, đạn của địch.

Việc xây dựng trận địa phải tiến hành ban đêm, triển khai cùng một lúc trên toàn thể mặt trận để phân tán sự chống phá của địch. Hào đào xong tới đâu được ngụy trang ngay tới đó để giữ bí mật trong thời gian đầu ý đồ chiến thuật của ta.

Trước đợt 1 chiến dịch, bộ đội ta đã tiến hành xây dựng trận địa ở những vị trí trú quân và nhắm vào một số vị trí ở ngoại vi. Quy mô của đợt hai này lớn hơn rất nhiều. Các đơn vị đều tiến hành một đợt học tập để toàn bộ cán bộ, chiến sĩ đều hiểu rõ nhiệm vụ, lường trước mọi khó khăn, xác định xây dựng trận địa lần này sẽ là một cuộc chiến đấu thực sự.

Phải có một thời gian biểu hoàn toàn mới cho bộ đội. Buổi sáng, là giờ ngủ. Khoảng cách giữa bữa cơm trưa và bữa cơm chiều là thời gian chuẩn bị vật liệu xây dựng trận địa, lên rừng đốn gỗ, chặt lá ngụy trang. Sau bữa cơm chiều, từ nơi trú quân tiến ra cánh đồng. Suốt đêm là thời gian đào trận địa. Bộ đội phải lao động cật lực từ 14 tới 18 tiếng mỗi ngày. Những đêm giá rét, đào trận địa mà mồ hôi vẫn tuôn chảy. Gặp những chỗ đất rắn hay nhiều sỏi đá, bàn tay các chiến sĩ phồng rộp, rớm máu. Nhưng khổ nhất vẫn là khi gặp ruộng lầy. Mọi người phải ngụp trong bể bùn, dùng tay, dùng xẻng, mũ sắt, có lúc cả áo mưa để đựng bùn đổ đi. Sau đó lại phải đóng cọc, chèn phên 2 bên hào phòng sụt lở. Những đêm mưa ở nơi đất trũng, nước đổ vào đường hào, mọi người bì bõm giữa bùn nước. Nước mưa chảy tràn trên mặt, nhưng không ai ngừng tay.

Khi đường hào đã kéo dài hàng chục kilômét trên cánh đồng thì không còn cách nào ngụy trang để che mắt quân địch, mỗi tấc đất chiến hào bắt đầu phải trả bằng máu. Pháo địch bắn suốt đêm vào những đường hào chúng đã phát hiện ra ban ngày. Máy bay liên tiếp thả đèn dù phát hiện những mục tiêu mới để oanh tạc. Địch ném bom napan, bom 1.000 pound xuống trận địa. Ban ngày, địch đưa quân ra những trận địa ở gần, đánh bật bộ phận canh gác, san lấp những đoạn hào, gài mìn ngăn bộ đội ta đào tiếp.

Sau khi nghe báo cáo về tình hình xây dựng trận địa, ngày 20 tháng 3 năm 1954, chỉ huy trưởng viết một bức thư gửi bộ đội:

“...Tôi được báo cáo các đồng chí đã làm trận địa mấy ngày liền lại phải chiến đấu, rồi lại phải liên tục bắt tay vào làm trận địa, như thế có đồng chí mệt nhọc.

Nhưng, ta mệt nhọc thì cần phải nhớ rằng quân địch ở Điện Biên Phủ còn căng thẳng mệt nhọc hơn ta, thương binh không có hầm mà nằm, không đủ thuốc để chữa, công sự một phần bị sụp một phần bị rung chuyển, tiếp tế không đầy đủ, thỉnh thoảng lại ăn một quả đại bác của ta, lại thêm thương vong.

Như vậy, chúng ta nên nghỉ ngơi cho kẻ địch có thì giờ mà nghỉ ngơi chấn chỉnh, có thì giờ mà tăng viện, mà thả dù tiếp tế, mà phát huy hiệu lực pháo binh và không quân của chúng, hay chúng ta là chiến sĩ của Quân đội nhân dân, là đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam, lúc này phải nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chịu mỏi mệt hơn một phần để gây thêm mười phần mệt mỏi và khó khăn cho địch. Giữa hai con đường đó nên đi con đường nào? Tôi chắc các đồng chí đều đồng thanh trả lời nên phát huy truyền thống chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chiến đấu anh dũng của quân đội ta để liên tục làm trận địa, liên tục chiến đấu với địch...”.

Hạ tuần tháng 3, để đảm bảo an toàn cho sở chỉ huy Mường Phăng trong một chiến dịch dài ngày, ác liệt, Đại đội vệ binh đã đào một đường hầm dài hơn 50m xuyên một trái đồi. Sau đó mở rộng ở đoạn giữa, làm thành mấy phòng đủ bố trí nơi hội họp, phòng tác chiến, nơi tạm nghỉ của cán bộ Sở chỉ huy. Trên trần hầm, ken sát từng cây gỗ tròn chắc nịch để đủ sức để chống bom chống pháo. Do các đơn vị công binh phải ưu tiên đi bảo đảm đường cho xe kéo pháo, xe vận tải... nên đại đội vệ binh vừa canh gác vừa đào hầm, thế mà hầm sở chỉ huy vẫn khang trang, vững chắc. Gần cửa hầm phía đông là lán ở và làm việc của Chỉ huy trưởng, gần cửa hầm phía tây là lán ở và làm việc của Tham mưu trưởng. Nơi ở của Chủ nhiệm chính trị và các đồng chí bạn có hào giao thông nối liền với đường hầm lớn của Sở chỉ huy.

❖ 2 ❖

Ngày 16, Cogny ném tiếp xuống Mường Thanh tiểu đoàn dù tăng viện thứ hai. Đây là tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 (6è BPC) do Bigeard (Bigia) chỉ huy. Tiểu đoàn này cũng tới đây lần thứ hai. Sau khi tham gia cuộc hành binh Castor (Caxto), nó được ném vào các trận đánh ở Hạ Lào rồi lại chuyển về Cát Bi làm lực lượng dù dự bị. Tại đây nó đã thất bại trong trận đánh đêm với lực lượng đột nhập sân bay, để mười máy bay B-26 và máy bay trinh sát bị phá hủy. Sự có mặt của tiểu đoàn dù 6 đã mang lại một chút phấn trấn cho quân đồn trú.

De Castries điện cho Cogny nói: số phận Điện Biên Phủ có thể được định đoạt trong những ngày sắp tới, cần thường xuyên dành cho mình một tiểu đoàn dù dự bị. Cogny nhanh chóng trả lời không giấu giếm: ở Bắc Bộ chỉ còn một tiểu đoàn dù, và trên toàn Đông Dương cũng chỉ còn hai tiểu đoàn dù!

Tinh thần binh lính của tập đoàn cứ điểm sa sút đáng kể. Keller (Kenlé), viên trung tá tham mưu trưởng của De Castries, mất tinh thần, từ chối làm việc, chọn một căn hầm vững chãi, úp chiếc mũ sắt lên mặt, ngồi suốt ngày không nói năng gì. De Castries phải báo cáo Cogny và yêu cầu triệu hồi y với lý do “Hà Nội gọi về họp”. Nhiều lính lê dương thoát chết ở Him Lam bổ sung về các đơn vị từ chối tiếp tục chiến đấu, thậm chí một số bỗng dưng biến mất! Có thể họ đã chạy sang hàng ngũ đối phương, cũng có thể họ đã trở thành những “con chuột Nậm Rốm.” (1)

Từ sau khi mất Phân khu Bắc, địch hoàn toàn giữ thế phòng ngự. Những trận phản kích chỉ nhằm ngăn cản không cho trận địa chiến hào của ta tiến vào gần. Chúng tập trung vào việc tổ chức lại việc phòng thủ ở Phân khu Trung tâm, củng cố công sự, bố trí thêm vật cản, làm những đường hào nối liền các trung tâm đề kháng để tránh pháo ta khi cần di chuyển, yêu cầu Hà Nội tăng viện người, vũ khí. Hy vọng của địch vẫn là lợi dụng ưu thế về địa hình và binh lực, vũ khí tập trung để đánh bại cuộc tiến công của ta như chúng đã làm được ở Nà Sản.

Địch tăng cường hoạt động của thổ phỉ tại Sơn La để phá hoại hậu phương chiến dịch của ta. Trung tuần thánh Ba, Bộ Tổng tham mưu phải điều trung đoàn 9 từ Phú Thọ lên Sơn La và đưa trung đoàn 176 tách khỏi đội hình chiến dịnh lên Lai Châu tiễu phỉ. Ta diệt và bắt sống 700 tên, thu nhiều súng đạn.

Địch vẫn cố bảo vệ sân bay Mường Thanh bằng mọi giá. Đường ghi bị đại bác phá hỏng lập tức được chữa lại. Việc hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh ban ngày không thể tiếp tục. Hệ thống chiếu sáng đã bị pháo ta bắn hỏng. Ban đêm, máy bay hạ cánh theo dấu hiệu duy nhất là những ngọn đèn dầu đặt ở đầu đường băng. Chúng cần vận chuyển cho binh đoàn đồn trú những thứ tối cần thiết không thể thả bằng dù, và di tản thương binh đã làm cho những căn hầm cứu chữa dưới lòng đất bên bờ sông Nậm Rốm trở nên ngột ngạt. Nhưng do chiến hào của ta đã vào gần, đặc biệt là sự tiếp cận của súng máy phòng không, những cuộc hạ cánh ban đêm trở nên hết sức khó khăn.

Pháo cao xạ của ta đã trở thành nỗi kinh hoàng đối với những viên phi công trước đó vẫn coi khoảng không là nơi tuyệt đối an toàn. Các loại máy bay chiến đấu, vận tải, kể cả những siêu pháo đài bay của Hoa Kỳ liên tiếp bị bắn rơi trên bầu trời Điện Biên Phủ. Bernard Fall gọi đó là “cuộc tàn sát những máy bay” (le massacre des avions). Fall viết: “ Ngày 15, hai chiếc máy bay tiêm kích-ném bom đang được sửa chữa ở Điện Biên Phủ thử chi viện cho Gabrielle đang bị tiến công. Nhưng vừa rời khỏi sân bay nó đã gặp một luồng đạn cao xạ rất dữ dội và rất trúng đích. Cả hai chiếc vội trút bom xuống cách sân bay khoảng 6 – 7 kilômét. Nhưng chiếc thứ nhất vẫn trúng đạn nổ tan trên bầu trời, viên phi công Ali Sahraoui , thuộc phi đội chiến đấu 2/22 Languedoc chết ngay. Chiếc thứ hai thoát chết nhưng trong ngày hôm đó, viên phi công thứ hai điều khiển một máy bay ném bom của hạm đội 11 F của hải quân bị chết trong khi bổ nhào thả bom ” ... “ Chiều 26 tháng 3, một chiếc Dakota do đại úy Boeglin (Bowglin) lái bị bắn hạ ở phía tây Huguette, nhưng phi hành đoàn thoát chết. Chiếc máy bay cháy như một ngọn lửa hỏa thiêu khổng lồ trong nhiều giờ. Ngày 17, lúc 7 giờ, đại úy Dartigues (Đactigơ) hạ cánh thành công chiếc Dakota số 267... Sau khi hạ cánh xuống Hà Nội an toàn, anh quay lại chuyến thứ hai thì bị bắn rơi lúc 10 giờ tại phía nam Eliane 3. Phi hành đoàn (7 người) đều chết... 17 giờ 50, một chiếc Dakota trong đội vận tải 2/63 Sénégal đâm đầu xuống đất ở phía tây “Claudine” cháy như một ngọn đuốc... toàn bộ phi hành đoàn đều chết ”.

Trước nguy cơ con đường hành lang giữa Hồng Cúm và khu trung tâm bị cắt, tập đoàn cứ điểm tách làm đôi, De Castries đưa tiểu đoàn lê dương dù số 1 và xe tăng ra phản kích nhưng không đánh bật được chốt của trung đoàn 57. Ngày 27 tháng 3, De Castries quyết định trao cho Bigeard làm việc này, đồng thời loại trừ một đơn vị pháo cao xạ mới xuất hiện ở phía tây.

Bigeard đã rời khỏi tiểu đoàn dù 6, trở thành phó của Langlais chỉ huy khu trung tâm, đặc trách lực lượng phản kích.

Bigeard quyết định sử dụng một lực lượng thật mạnh gồm những tiểu đoàn khá nhất vào nhiệm vụ. Đó là tiểu đoàn dù xung kích 8, tiểu đoàn dù lê dương 1, tiểu đoàn dù lê dương 6, tiểu đoàn bộ binh lê dương số 2 và đại đội xe tăng của Hervoute (Hécvuê). Cả viên đại tá Vailant (Vayăng), chỉ huy pháo binh thay Piroth, thiếu tá không quân Guerin (Ghêranh) cũng được huy động. Toàn bộ lực lượng tương đương với năm tiểu đoàn.

Bigeard biết có một trung đoàn của 308 ở hướng này, mà y tưởng lầm là trung đoàn 36, cho rằng cuộc hành binh chỉ có thể thành công nếu giữ được bất ngờ. Theo kế hoạch, trận đánh sẽ bất thần mở đầu bằng một loạt pháo cấp tập thật trúng mục tiêu. 12 khẩu pháo 105, 2 khẩu 155, 12 khẩu cối 120 ly sẽ làm việc này từ 6 giờ ngày 28 tháng 3. Binh lính dù, lê dương và xe tăng khai thác tình trạng hỗn độn của địch do pháo gây ra, nhanh chóng tiến công. 6 giờ 30, không quân oanh tạc trận địa ngăn không cho viện binh đối phương tiếp cận. Sẽ lập tức rút lui trước khi kẻ địch chỉnh pháo bắn vào khu vực. Bigeard đã nhận thấy một nhược điểm của pháo binh ta là các khẩu đội đều bố trí phân tán trong hầm sâu phải mất nhiều thời gian di chuyển sang một mục tiêu mới.

Sáng 28, một đơn vị của trung đoàn 102 bố trí ở Pe Luông được lệnh di chuyển, bàn giao lại trận địa cho trung đoàn 88. Trung đoàn 88 đưa đại đội 229 của tiểu đoàn 322 ra phòng ngự ban ngày đề phòng quân địch đánh ra. Sương mù còn dày đặc. Cán bộ đại đội đi xem xét chiến hào, đặt kế hoạch tác chiến, điều chỉnh lại các ổ súng máy.

Trung đội 8 bố trí ở tuyến tiền duyên đang sửa sang lại các hầm hố chiến đấu thì đột nhiên tiếng súng máy nổ ran. Từ trong màn sương, quân địch hiện ra rất đông, vừa la hét vừa xông tới.

Thấy trời nhiều sương mù, máy bay không thể hoạt động đúng giờ quy định, Bigeard thay đổi kế hoạch, cho xe tăng cùng với tiểu đoàn dù lê dương 1 dừng lại phía sau làm lực lượng dự bị, chưa sử dụng pháo binh, đưa ba tiểu đoàn dù và lê dương bí mật đột kích vào trận địa của ta.

Trung đội 8 phải đối phó với cuộc xung phong của tiểu đoàn dù 6. Các chiến sĩ mặc dù đứng chân chưa vững tại trận địa, đã lập tức nổ súng đánh trả, quật ngã những tên địch đang xông tới. Hỏa lực của ta khá mạnh bắt tiểu đoàn dù 6 phải dán mình trên mặt đất. Bigeard buộc phải trở lại kế hoạch cũ. Pháo ở Mường Thanh bắn dữ dội rồi xe tăng tiến lên mở đường. Xe tăng tràn qua trận địa chia cắt trung đội. Những tên lính dù bám theo xe tăng chia thành nhiều toán nhảy xuống chiến hào. Các chiến sĩ kiên quyết không rời trận địa, chụm lại ở những ngã ba chiến hào bố trí trung liên, tiểu liên thành 1 vòng tròn, mặc cho những chiếc xe tăng vượt qua, nhắm những tên lính dù nổ súng.

Cùng lúc đó, trận địa phòng không trống trải của đại đoàn ở phía sau cũng nằm dưới hỏa lực liên thanh và đạn pháo của xe tăng. Những người lính phòng không chỉ được trang bị trọng liên bắn máy bay, giờ phải dùng vũ khí của mình chiến đấu với xe tăng và bộ binh địch. Đại đội trưởng Quỳ và chính trị viên Phú của đơn vị phòng không hạ lệnh cho tất cả xạ thủ hạ thấp lòng súng máy cao xạ nhắm vào những chiếc xe tăng và bộ binh địch. Nòng súng đỏ rực ngăn chặn hiệu quả những chiếc xe tăng. Nhưng rồi đạn bắt đầu cạn và hết hẳn. Đại đội trưởng và chính trị viên đều bị thương nặng. Xích xe tăng chà lên chiến hào và ụ súng. Các chiến sĩ, kể cả những người đã bị thương, giật dây lựu đạn chờ xì khói rồi mới ném thẳng vào quân địch. Cuối cùng, lựu đạn cũng hết. Các chiến sĩ dùng búa đanh, kìm, lắc lê, chân súng gãy... lăn xả vào quân địch đánh giáp lá cà. Cuộc chiến đấu không cân sức kéo dài.

Trận đánh diễn ra hoàn toàn bất ngờ. Đại bộ phận tiểu đoàn 322 sau một đêm đào trận địa mệt mỏi đang nghỉ ở hậu cứ, khi có người từ trận địa về báo tin, mới vận động tiến ra phản kích với sự trợ lực của súng cối 120 ly. Bộ đội ta xung phong đánh bật dần quân địch khỏi chiến hào trục. Thấy quân ta kéo tới đông, Bigeard lập tức ra lệnh rút lui. Trên trận địa cao xạ, từ những ụ súng, hầm đạn nhô lên một số chiến sĩ quần áo nhuốm đầy máu, trong tay chỉ có những dụng cụ sửa chữa pháo dùng làm vũ khí chiến đấu. Tại trận địa của trung đội 8 ở tiền duyên, người ta tìm được hai chiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương và Bùi Minh Đức. Phương là y tá, đã bị thương gãy cả hai tay. Đức là chiến sĩ, một thiếu sinh quân mười bảy tuổi vừa vào bộ đội, bị thương cả hai mắt không còn nhìn thấy gì. Trong những giờ qua, hai người dựa vào nhau tiếp tục chiến đấu. Phương quan sát mục tiêu, Đức dùng tay bóp cò súng. Vừa lúc đồng đội tới thì Phương thở hơi cuối cùng. Sau trận đánh, Đức được quân y hết lòng điều trị, giữ lại được một con mắt.

Trận phản kích của Bigeard được quân viễn chinh coi là thắng lợi, một chiến thắng hầu như duy nhất tại Điên Biên Phủ trong suốt thời gian này, nhưng đã cướp đi gần một trăm người chết và bị thương, trong đó có năm sĩ quan. Nếu cộng với số thiệt hại trước đó trong tuần thứ hai lắng dịu sau đợt tiến công Phân khu Bắc, quân địch đã mất thêm tổng số 522 người, gần tương đương với một tiểu đoàn. (2)

Đây là trận phản kích lớn cuối cùng của địch ở Điện Biên Phủ trước khi cuộc tiến công đợt hai bắt đầu.

❖ 3 ❖

Địch đã sử dụng sức mạnh tối đa của bom, đạn và các đơn vị phản kích ngăn cản công việc xây dựng trận địa của chúng ta. Nhưng mỗi ngày qua, các đường hào lại kéo dài thêm. Phân khu nam Hồng Cúm đã hoàn toàn bị cắt khỏi khu trung tâm. Để bảo vệ trận địa, các đơn vị bộ binh đã chuyển từ nơi trú quân ra ở ngay tại những đường hào mới đào xong.

Không riêng bộ binh xây dựng trận địa chiến hào để tiếp cận quân địch, một số đơn vị lựu đạn pháo cũng rời bỏ những căn hầm rất vững chắc và “tiện nghi” của mình trên các dãy núi Tà Leng, Pú Hồng Mèo, tới những vị trí mới ở gần mục tiêu hơn, chuẩn bị cho đợt tiến công sắp tới. Đại đội lựu pháo 804 chiếm lĩnh vị trí sát Him Lam. Hai đại đội lựu pháo 801, 802 chuyển pháo từ phía đông sang trận địa mới ở phía tây, nằm ngay sau Bản Kéo. Ở phía đông – nam. Đại đội lựu pháo 805 cũng cơ động từ trên núi Pú Hồng xuống gần Hồng Cúm.

Nếu như thời gian xây dựng trận địa đợt 1 kéo dài hơn 1 tháng, thì đợt 2 ngắn hơn nhiều. Chỉ sau mười ngày lao động và chiến đấu gian khổ, trận địa tiến công và bao vây của ta đã cơ bản hoàn thành. Trên 100 km đường hào cùng với hàng vạn hầm hố bao kín trận địa trung tâm của địch. Những đường hào đặt sân bay và sở chỉ huy De Castries trong tầm bắn súng cối của trung đoàn và tiểu đoàn bộ binh ta. Ta chính thức chấp nhận sự thách thức từ lâu của kẻ thù, chấp nhận một trận đấu “mặt đối mặt”.

Lịch sử đã đưa hai đội quân tới trận đánh quyết định tại một nơi không hẹn trước là Điện Biên Phủ, trên cánh đồng Mường Thanh, trong một trận đánh cả hai bên đều sử dụng trận địa chiến hào. Tuy nhiên cách sử dụng chiến hào vào nhiệm vụ tác chiến của đôi bên hoàn toàn khác nhau.

Trận địa chiến hào của địch là sự ghép nối của nhiều cứ điểm trong một cấu trúc chặt chẽ có tính cố định, gồm nhiều trung tâm đề kháng hợp thành những phân khu lớn, nhỏ, được bố trí thành nhiều tầng từ ngoài vào trong, trong một kế hoạch phòng ngự chung bằng dải phòng ngự rộng, lưới lửa chung của tập đoàn cứ điểm và riêng của từng cứ điểm, phát huy tối đa sức mạnh của pháo binh, không quân và xe tăng, những lực lượng quân ứng chiến để bảo vệ sở chỉ huy, bộ não của tập đoàn cứ điểm và sân bay, cái dạ dày của con nhím Điện Biên Phủ nhằm đối phó với một cuộc tiến công nhiều phía của quân ta từ ngoài vào. Cách duy nhất để địch tiêu hao lực lượng ta là chờ khi ta đánh vào. Còn nếu bây giờ ta chưa đánh, hoặc không đánh thì chúng không có cách nào gây thiệt hại cho ta. Toàn bộ trận địa của địch là một khối đông đặc, những ụ súng, lô cốt, đường hào, những rừng dây thép gai, bãi mìn hễ đụng tới là khạc lửa. Dù trong quá trình trận đánh, địch buộc phải tiến hành những điều chỉnh cần thiết về bố trí phòng thủ, về sử dụng lực lượng nhưng nó vẫn mang tính chất cố định của một công trình phòng thủ, phụ thuộc vào tư tưởng phòng ngự triệt để của đối phương.

Trận chiến hào của ta rất rộng không chen chúc như chiến hào của địch, nằm trên địa hình thoáng đãng không hề có một hàng rào dây thép gai, giống như một mạng lưới khổng lồ bủa vây khu Trung tâm Mường Thanh. Nó im lìm bất động trước những đợt bắn phá dữ dội của bom đạn địch, nhưng cũng nhanh chóng biến thành lũy thép khi Castries đưa bộ binh và xe tăng ra định lấp lại các đường hào. Như một sinh vật không biết chết cứ mỗi đêm nó một phát triển sinh sôi vươn dài những chiếc vòi bạch tuộc về phía con nhím Điện Biên Phủ. Đây là trận địa bao vây và tiến công với đặc điểm là tính cơ động của nó.

Thay vì những cuộc tiến quân tiếp cận địch trên cánh đồng bằng phẳng, những loạt pháo bắn chế áp, những đợt xung phong ào ạt trước hỏa lực bắn cản dày đặc của địch, bộ đội ta đã lặng lẽ mỗi ngày một tiến gần đến những ngọn đồi phía đông và những vị trí bảo vệ sân bay nằm trên cánh đồng Mường Thanh trống trải. Ở phía đông, nó đã vào gần các cao điểm E, D1, C1, A1. Ở phía tây, ngày 24 tháng 3, một mũi chiến hào chỉ còn cách hàng rào dây thép gai 106, thuộc cụm cứ điểm trực tiếp bảo vệ sân bay Mường Thanh, 50 mét.

Bernard Fall sau này đã có nhận xét: Navarre dự đoán quá ngắn thời gian diễn ra cuộc tiến công của ta vào Điện Biên Phủ, trong thực tế tất cả những quá trình này đều diễn ra dài hơn. Quả tình ta rất muốn rút ngắn thời gian này để giảm nhẹ những khó khăn về tiếp tế. Nhưng ta cần trước hết là một trận đánh chắc thắng. Và điều không kém quan trọng là hạn chế đến mức tối thiểu sư hy sinh xương máu của chiến sĩ. Với cách dùng trận địa chiến hào để tiêu diệt quân địch, ta không chỉ chọn một cách đánh chắc thắng mà còn chấp nhận việc đổ nhiều mồ hôi thay cho đổ máu trên chiến trường.

Vòng vây trận địa chiến hào hình thành đã khiến kẻ địch không còn khả năng rút lui, cũng như khó đưa thêm một số lớn quân tăng viện.

Chú thích:

1. Cách gọi binh lính lẩn trốn chiến đấu bằng cách đào hầm náu bên bờ sông Nậm Rốm, đêm đêm chui ra tìm lương thực máy bay thả dù ban ngày.

2. Bernard Fall. Sđd. Tr. 244, 245.