Chương XXVI NAVARRE VÀ COGNY
❖ 1 ❖
Ngày 31 tháng 3 năm 1954, Navarre từ Sài Gòn bay ra Hà Nội.
Đêm 30 tháng 3, đợt tấn công thứ hai của Việt Minh đã bắt đầu, lần này là trực tiếp vào khu trung tâm. Những tin dữ báo về liên tiếp.
Cogny không có mặt tại sân bay. Thế chỗ Cogny, người ra đón Tổng chỉ huy là đại tá Bastiani. Viên đại tá xin lỗi Tổng chỉ huy vì sếp quá mệt phải đi ngủ. Lúc này là 1 giờ 45.
Navarrevề nơi làm việc ở trong Thành nghe De Bastiani và cơ quan tham mưu báo cáo về diễn biến Điện Biên Phủ cho tới lúc này. Ông ta như không còn tin ở tai mình. Sao chỉ có mấy giờ đồng hồ, mà De Castries đã trao gần trọn vẹn dãy đồi phía Đông cho đối phương! Số phận của con nhím Điện Biên Phủ nằm trên những trái đồi này.
-Castries yêu cầu gì?
-Tăng viện cấp tốc hai tiểu đoàn dù.
Navarreim lặng. Lực lượng dù do chính Tổng chỉ huy nắm. Lấy đâu ra hai tiểu đoàn dù lúc này?
Navarre ngồi đánh giá tình huống bất trắc nghiêm trọng nhất có thể xảy ra với De Castries ở Điện Biên Phủ, rồi bảo De Bastiani thảo một bản chỉ thị mới cho De Castries cách đối phó. Phân khu Trung tâm và Isabelle phải được bảo vệ. Cần động viên tinh thần binh lính là họ đang bảo vệ danh dự của nước Pháp và nước Việt Nam và họ đang cầm chân bộ đội chủ lực tác chiến của Việt Minh. Tất cả vũ khí và toàn bộ đồ tiếp tế phải được phá hủy trước khi rơi vào tay kẻ địch. Một tiểu đoàn dù, tiểu đoàn 2 của R.C.P và một giàn pháo không giật 75 là những tăng viện duy nhất ông ta có thể nhận được trong lúc này…
Navarrecân nhắc rồi bảo De Bastiani sửa lại là“những tăng viện duy nhất mà tập đoàn cứ điểm nhận được chỉ trong trường hợp chắc chắn nó sẽ giành thắng lợi”.
De Batiani để lại bản chỉ thị rồi xin phép trở về nhiệm sở. Navarre ngồi lại một mình vật lộn với rất nhiều câu hỏi không biết Cogny và Castries những ngày qua đã làm gì mà để Điện Biên Phủ lâm vào tình thế này.
4 giờ sáng, vẫn chưa thấy Cogny tới. Navarre cho gọi viên sĩ quan tùy tùng của Cogny, bảo y đi mời tư lệnh Bắc Bộ tới ngay. Viên sĩ quan lễ phép trả lời là y không dám đánh thức sếp vào giờ này.
Navarre càng cảm thấy cay đắng vì đã bị Cogny phản bội bằng sự dốt nát không đánh giá hết khả năng của đối phương trong cuộc chiến ở Điện Biên Phủ. Đến phút cuối cùng, Cogny vẫn ra sức ngăn trở không cho tăng cường cho Điện Biên Phủ một số tiểu đoàn để ngăn ngừa một cuộc tiến công! Cogny chỉ lo bảo vệ đồng bằng trong khi đồng bằng không có cái gì đe dọa! Cogny đã từ đầu đến cuối gây khó khăn cho nước cờ chiến lược của ông ta là cuộc hành binh Atlente!
Sáng sớm hôm đó, khi Cogny trở dậy, Navarre đưa Cogny bản chỉ thị mà ông ta đã thảo đêm qua. Cogny xem xong rồi đề nghị nên có hành động từ đồng bằng hoặc Lào. Navarre trả lời:
- Đồng bằng, chẳng có gì phải làm. Còn ở Lào, nghiên cứu đi và sẽ nói lại với tôi.
Những đợt sóng ngầm giữa hai người đã lên tới cực điểm nhưng chưa trở thành bão tố.
Ngày mồng 1, Cogny nhận được lá thư của Navarre gửi cho mình từ Sài Gòn ngày 29 tháng 3 theo đường công văn chính thức. Y lập tức đè nghị Navarre một cuộc gặp vào chiều hôm sau.
Buổi chiều ngày 2 tháng 3, cuộc gặp mặt giữa Navarre và Cogny diễn ra tại biệt thự riêng của Navarre bên hồ Tây. Cuộc trao đổi giữa hai người diễn ra từ 16 giờ 10 đến 17 giờ 40, buồng bên có một cô thư ký đánh máy đôi lúc nghe thấy hai người to tiếng với nhau.
Theo lời thuật lại của Jules Joy, Navarre đã mở đầu cuộc gặp với một vẻ hiền lành và giọng nói nhẹ nhàng:
- Chúng ta đã viết cho nhau những điều khó chịu. Bây giờ cần trao đổi một cách bình tĩnh.
❖ 2 ❖Nhưng Cogny không còn giữ được tự chủ, lớn tiếng nói ngay:
- Tôi đã nhận được lá thư đề ngày 29 tháng 3 của ngài. Tôi gặp ngài hôm nay để nói rõ là tôi không còn muốn phục vụ dưới sự chỉ huy của ngài, và yêu cầu mình lập tức được thay thế.
Navarre ngạc nhiên nhưng vẫn giữ bình tĩnh, nói:
- Tôi đã cân nhắc kỹ về những điều đã viết trong thư, và tôi sẵn sàng để nói tiếp cho rõ hơn. - Không cần thiết. Điều tôi cần nhắc lại thêm với ngài là ý muốn tiến hành cuộc chiến ở Điện Biên Phủ chỉ thuộc về Tổng chỉ huy, và tôi bao giờ cũng là người thừa hành, và số phận của G.O.N.O có thể được định đoạt ngay trong đêm tùy thuộc nó có được tăng viện hay không.
Navarre biết trước điều này sớm muộn rồi cũng diễn ra, Cogny sẽ phản bội mình, nhưng hơi bất ngờ là nó lại diễn ra ngay lúc này, ông ta cũng trút gánh nặng chịu đựng bấy lâu nay: - Tôi biết ông đã phản tôi từ lâu. Ông đã tố cáo bao nhiêu viên chức cao cấp Bắc Kỳ về những quan niệm điều hành cuộc chiến đang diễn ra mà ông cho là sai lầm. Không ít người biết chuyện này. Trong một salon ở Paris, bà Catroux và một số bạn bè đã chuyền tay nhau một bức thư có câu: “tay Cogny ngày nào cũng phản lại mình…”
Cogny thét lên:
- Nếu ông không phải là tướng bốn sao thì tôi đã tát vào mặt ông.
Navarre tái mặt.
Cogny lấy lại bình tĩnh và xin cáo từ.
Navarre nói:
- Tôi yêu cầu ông chỉ chúng ta biết chuyện này.
- Tôi coi đó là điều thứ nhất trong bổn phận của mình.
Cogny vừa trả lời vừa rập gót giầy theo kiểu nhà binh.
Cuộc chiến trên giấy tờ giữa Navarre và Cogny không thể dừng lại. Cả đôi bên đều có ý thức đây sẽ là những căn cứ được dùng tới trong những cuộc luận tội sau này.
❖ 2 ❖Ở phương Tây, những nhân vật chủ yếu gắn bó với mùa Xuân Điện Biên Phủ năm 1945 ngày nay không còn nữa, nhưng với những chồng hồ sơ được giải mật, những tập hồi kí họ viết ra đã cho phép dựng lại trên nét lớn những diễn biến chính trong thời điểm đó.
Paris thực sự bàng hoàng trước những thất bại ngày đầu ở Điện Biên Phủ. Và Navarre không phải đã không báo trước với nhà cầm quyền Pháp điều này. Trận đánh chỉ mới diễn ra mấy ngày, nhưng đã làm bộc lộ toàn bộ những nhược điểm của con nhím Điện Biên Phủ. Những điều trước đây người ta chỉ nghi hoặc bây giờ đã trở thành sự thực. Trọng pháo của Việt Minh đã có mặt và đè bẹp pháo binh của Điện Biên Phủ. Cao xạ pháo của Việt Minh đã xuất hiện với tác dụng cực kì nguy hiểm của nó, đang tàn sát những máy bay, lực lượng chủ bài của quân đội viễn chinh. Sân bay Điện Biên Phủ, cái dạ dày của con nhím Điện Biên Phủ đã bị vô hiệu hóa. Những thành lũy của Điện Biên Phủ được coi là bất khả xâm phạm đã bị đối phương tiêu diệt trong vài giờ. Castries hoàn toàn bất lực trước cuộc tiến công của đối phương, không thể chiếm lại bất kì một vị trí nào đã mất. Tin dữ từ Điện Biên Phủ bay về Paris từng giờ. Có những người chỉ huy tập đoàn cứ điểm chết từ phát pháo đầu tiên của địch. Một tham mưu trưởng của tập đoàn cứ điểm mất tinh thần phải đưa về phía sau. Người chỉ huy pháo binh Điện Biên Phủ tự sát…
Nhà Trắng tuy rất quan tâm đến cuộc chiến đang diễn ra ở Đông Dương nhưng cũng không hiểu gì nhiều về tình hình đang diễn ra ở đây. Eisenhower tin vào lời báo cáo của O’ Daniel: “Người Pháp hoàn toàn có thể chống lại sức ép của cộng sản với điều kiện Mỹ tăng cường viện trợ”. Eisenhower tỏ vẻ ngạc nhiên vì sao Catries mất Béatrice, Gabrielle và cho rằng những vị trí này với công sự như thế lẽ ra phải dễ dàng đẩy lùi những cuộc tiến công lớn hơn, và sao để mất rồi mà không cho quân dành lại
Thủ tướng pháp Pléven thấy cần thông báo gấp tình hình cho người Mỹ trước khi quá muộn. Người được lựa chọn làm công việc này là Tổng tham mưu trưởng Ély, đã từng làm trưởng phái đoàn Pháp tại bộ phận thường trực của khối quân sự Bắc Đại Tây Dương ở Washington, một nhân vật được đánh giá là có quan hệ tốt với Mỹ
Ngày 20 tháng 3 năm 1954, Ély lên đường sang Washington.
Ély được gặp các nhân vật chủ chốt của nhà trắng, Tổng thống Eishenhower, Phó tổng thống Nixon, Ngoại trưởng Dulles, Tham mưu trưởng lục quân Mỹ Ridway, Chủ tịch hội đồng liên quân thủy sư đô đốc Raford và dự cả một cuộc họp của Hội đồng tham mưu trưởng Mỹ vốn không dành cho người nước ngoài.
Ély tới Mỹ khi Catries đã mất toàn bộ phân khu Bắc. Tổng tham mưu trưởng Pháp phát biểu công khai: “Pháp không thể thắng được với phương tiện hiện có trong tay” và yêu cầu Mỹ tăng cường giúp đỡ vũ khí, đặc biệt là máy bay ném bom B-26, và can thiệp bằng không quân.
Hai năm trước, tình báo Pháp đã phát hiện ra máy bay Mig của Liên Xô đã được triển khai trên những sân bay gần biên giới Việt-Trung, có cả một số máy bay không mang cờ hiệu Trung Quốc mà mang cờ hiệu Việt Nam (?!). Người Pháp đã tính tới khả năng của một cuộc tiến công theo kiểu Trung-Triều ở Triều Tiên tại Việt Nam, và nghĩ tới một kế hoạch Damoclès để đối phó. Kế hoạch này bao gồm quân Pháp rút ngay về đầu Châu thổ sông Hồng bố trí một tuyến phòng thủ hẹp đợi quân Mỹ và quân đồng minh được điều đến. Người Pháp hy vọng quân Dulles, Nixon và Raford sẽ chứng minh các điều kiện để triển khai kế hoạch Demolès đã được tập hợp đầy đủ ở Đông Dương, đặc biệt trong vùng thung lũng Điện Biên Phủ. Lần này Ély nhấn mạnh vào sự xuất hiện của pháo cao xạ đang gây tổn thất cho không quân không kém gì máy bay Mig.
Mặc dù được đón tiếp một cách sốt sắng và đặc biệt, nhưng Nhà Trắng không đưa ra một lời hứa hẹn nào. Theo Ély người Mỹ đã nói: “Cuộc can thiệp sẽ chỉ diễn ra trong trường hợp Trung Quốc cho không quân xâm nhập Đông Dương”. Chủ tịch Hội đồng liên quân Mỹ Raford nói xa xôi với Ély về một hành động can thiệp hạn chế trong thời gian nhất định của không lực Hoa Kỳ nhằm loại trừ lực lượng cao xạ của Việt Minh, nếu Hoa Kỳ được chính phủ Pháp yêu cầu.
Có thể tới lúc này các giới chức ở Nhà Trắng chưa tin vào tình hình nguy ngập của Pháp ở Điện Biên Phủ. Nhưng chủ yếu là do Mỹ vừa ra khỏi chiến tranh Triều Tiên, nên phải cân nhắc một cuộc phiêu lưu mới ở Đông Dương nếu chưa có chuẩn bị.
Ngày 22 tháng 3, Ngoại trưởng Mỹ Dulles vẫn tuyên bố một cách lạc quan: “Không một lý do nào bác bỏ kế hoạch Navarre đã thấy trước thắng lợi”.
Ély thất vọng quay về Paris.
Ngày 27 tháng 3 năm 1954, ngoại trưởng Mỹ Dulles đọc một bài diễn văn ở Câu lạc bộ báo chí hải ngoại New York về đường lối chính trị của Hoa Kỳ ở châu Á. Dulles trình bà chi tiết những tin tức mới nhận được xung quanh chuyện Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam. Ông ta tuyên bố: “Muốn ngăn chặn người ta áp đặt chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, cần có một hành động phối hợp. Điều này có thể chứa đựng những nguy cơ nghiêm trọng. Nhưng chúng sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với nguy cơ mà chúng ta sẽ phải vượt qua trong những năm tới nếu chúng ta không chứng tỏ bằng những quyết định ngay bây giờ”. Dulles còn nhắc lại ngày 24 tháng 3, Tổng thống Eisenhower đã tuyên bố Đông Nam Á là một: “tiên nghiệm quan trọng đối với thế giới tự do”.
Chắc là Eisenhower với Dulles đã thấy không thể dửng dưng trước tình hinh mới ở Đông Dương. Paris cái có cái để trông chờ.
Ngày 29 tháng 3 thủ tướng Pháp Laniel triệu tập Hội đồng chiến tranh. Hội đồng này mới được thành lập, là một tổ chức hẹp gồm các tham mưu trưởng và các thành viên quan trọng của nội các nhằm đối phó với tình hình khẩn trương trước mắt. Nội dung cuộc họp được giữ hoàn toàn bí mật nên không để lại dấu vết gì trong hồ sơ của Pháp về chiến tranh Đông Dương. Tướng Crépin, thư kí của Hội đồng, là người duy nhất được phép ghi lại những điều cần nhớ. Tuy nhiên người ta vẫn biết được nội dung của nó là trao đổi về khả năng can thiệp của người Mỹ trong nội tình. Ély cho biết cái người Mỹ đã nói tới là một cuộc can thiệp bằng không quân,không xa hơn. Vấn đề đặt ra nếu sau nhiều cuộc ném bom của Mỹ, tình hình vẫn không đủ để tiêu diệt lực lượng của Việt Minh? Không những thế, nó lại tạo cho một cuộc can thiệp ồ ạt của Trung Quốc như ở Triều Tiên, trước hết là bằng nhiều máy bay Mig. Và một cuộc can thiệp bằng không quân Mỹ cũng có thể làm cho các cường quốc cộng sản bỏ hội nghị Genève sắp được tổ chức ra về làm tiêu tan luôn hi vọng tìm kiếm một giải pháp chính trị cho Đông Dương tại hội nghị này. Cái sảy nảy cái ung, có thể do sự mở rộng chiến tranh của Mỹ mà chính phủ Pháp hiện nay mất đi sự ủng hộ của các đảng trung tả mà nhờ có các đảng này, chính phủ Pháp mới có một đa số ít ỏi để tiếp tục tồn tại trong thời gian qua.
Laniel và Hội đồng chiến tranh quyết định cử đại tá Brohon, một người vừa cùng ông ta đi Washington, đã nắm rõ toàn bộ vụ việc, đi Sài Gòn xin ý kiến của Navarre về tính hiệu quả của những cuộc ném bom như vậy.
3
Trong thời gian này, tại Washington, Dulles và Raford ra sức vận động Quốc hội Mỹ ủng hộ việc triển khai hành binh “Vautour”.
Ngày 3 tháng 4, tám nghị sĩ có thế lực thuộc hai đảng Dân chủ và Cộng hòa được mời tới để dự một cuộc họp mặt với Dulles, Raford tại Bộ Ngoại Giao. Cuộc họp còn có mặt của thượng nghị sĩ Johnson đứng đầu cánh thiểu số trong quốc hội và một số nhân vật quan trọng khác.
Dulles tuyên bố cuộc họp được triệu tập do yêu cầu của tổng thống, và tổng thống muốn Quốc hội thông qua một nghị quyết cho phép mình sử dụng lực lượng không quân và hải quân vào Đông Dương. Sau đó, Dulles sẽ trình bày ngắn tắt nguyện vọng của Điện Biên Phủ và khẳng định: mất Đông Dương sẽ đưa tới mất toàn bộ Đông Nam Á và rút cuộc Mỹ có thể bị dồn về tới tận đảo Hawai. Và nếu Mỹ không giúp Pháp và các chính phủ địa phương thì hậu quả rất có thể là Pháp sẽ rút ra ngoài vòng chiến.
Raford trình bày về kế hoạch Vautour. Cuộc hành binh Vautour sẽ được thực hiện bởi các hãng hàng không mẫu hạm Essex và Boxer và máy bay của Không quân Mỹ có căn cứ ở Clark Field, tổng cộng là 98 pháo đài bay B29, mỗi chiếc mang 14 tấn bom. Ngoài ra nhiệm vụ hộ vệ các máy bay ném bom chống lại máy bay Mig của Trung Quốc được trao cho 450 máy bay tiêm kích phản lực. Trong khi trả lời các câu hỏi, Raford nói cuộc hành binh này có thể lôi kéo Mỹ vào chiến tranh, vì nếu cuộc ném bom đầu tiên không đủ để giải tỏa hoàn toàn cho tập đoàn cứ điểm thì sẽ có những đợt ném bom tiếp theo.
Raford tránh không nói tới sự can thiệp có thể có của lực lượng trên bộ Mỹ. Theo thông lệ thì người đứng đầu phái thiểu số ở Thượng nghị viện sẽ đặt câu hỏi chất vấn đầu tiên các đại biểu chính phủ. Johnson đã làm việc này rất gay gắt. Ông ta đã đọc cả một bài diễn văn. Ông tuyên bố Mỹ đã phải đài thọ cho Triều Tiên 90% chi phí, và yêu cầu Dulles cho biết chính phủ Mỹ có tham khảo ý kiến của một quốc gia đồng minh nào khác ngoài nước Pháp đang tham chiến, để biết liệu nước ấy có cùng Mỹ can thiệp vào Việt Nam không.
Lời phát biểu của Johnson chính là hòn đá cản đường. Dulles thừa nhận là tình hình quá gấp gáp, Bộ ngoại giao đã không kịp tham khảo ý kiến của một quốc gia đồng minh nào. Đề nghị của Dulles và Raford lập tức bị gạt bỏ và hội nghị tuyên bố Quốc hội chỉ duyệt y kế hoạch Vautour hoặc một cuộc hành binh tương tự với ba điều kiện:
1. Nước Mỹ chỉ can thiệp trên tư cách là thành viên của một Liên Minh bao gồm những quốc gia tự do của Đông Nam Á, Philippin và khối Liên hiệp Anh.
2. Nước Pháp phải chấp nhận đẩy nhanh chương trình trao trả tự do cho các quốc gia liên kết, làm sao để sự giúp đỡ của Mỹ không thể được hiểu là ủng hộ chủ nghĩa Thực dân Pháp.
3. Nước Pháp cam đoan sẽ không rút quân ra khỏi cuộc chiến tranh này nếu Mỹ tung lực lượng mình vào
Cuộc họp này rõ ràng là sự khước từ một sự can thiệp tức thời của Mỹ dù chỉ bằng không quân để cứu nguy cho con nhím Điện Biên Phủ.
Hơn thế,nó còn mang những lời lẽ xúc phạm đối với một đồng minh trên mặt trận chống Cộng đang gặp khó khăn.
Ngày 4 tháng 4, đại tá Brohon từ Đông Dương trở về Paris. Mặc dù là ngày Chủ nhật, viên đại tá vẫn tới gặp ngay tổng Tham mưu trưởng Ély. Brohon báo cáo Navarre tỏ thái độ dè dặt đối với cuộc hành binh Vatour. Navarre e rằng cuộc hành binh này sẽ dẫn tới phản ứng của không quân Trung Quốc. Nhưng cùng lúc này, Ély nhận được bức điện của Navarrer (viết đêm 3 rạng ngày 4 tháng 4): “cuộc can thiệp bằng không quân mà đại tá Brohon có thể mang tác dụng quyết định, nhất là nếu nó diễn ra trước khi Việt Minh tổng công kích”. Ély đưa Brohon đi gặp Pléven cùng với bức điện. Pléven không giải thích được mâu thuẫn này, dẫn cả hai người lên gặp thủ tướng Laniel. Laniel quyết định triệu tập ngay cuộc họp Hội đồng chiến tranh tại điện Matignon.
Cuộc họp hội đồng chiến tranh thấy cần dựa vào bức điện của Navarre đã gửi cho Ély, vì có thể đây là sự cân nhắc cuối cùng của Navarrer, quyết định chính thức đề nghị Mỹ can thiệp bằng không quân. Nửa đêm, đại sứ Mỹ được mời đến. Laniel trình bày với đại sứ Mỹ là chỉ còn cách dùng máy bay hạng nặng tiêu diệt những trận địa pháo của Việt Minh nằm sâu trong lòng đất trên những ngọn đồi quanh tập đoàn cứ điểm mới cứu vãn được đội quân đồn trú ở Điện Biên Phủ. Đại sứ Mỹ nhận sẽ chuyển ngay đề nghị của Laniel cho Nhà Trắng. Ély cũng lập tức thông báo cho Valluy, người kế nhiệm mình ở bộ phận thường trực khối quân sư Bắc Đại Tây Dương tại Lầu Năm góc quyết định mới của thủ tướng Pháp, để tác động tới Raford càng nhanh càng tốt thực thi những biện pháp quân sự của mình.
Ngày 5 tháng 4, Valluy gọi điện cho Ély báo cáo về phía các nhà quân sự Mỹ, mọi việc đều suôn sẻ. Cùng vào thời gian này, sứ quán Pháp ở Washington thông báo về một số bài báo và những bức điện không kí tên nói về một cuộc can thiệp ồ ạt của Trung Quốc vào Bắc Việt Nam. Đây là cách chuẩn bị về dư luận cho công chúng và Quốc hội Mỹ trước một cuộc can thiệp của Mỹ vào Điện Biên Phủ.
Cũng trong ngày hôm đó, tổng thống Mỹ Eisenhower viết cho thủ tướng Anh Churchill một bức thư trình bày bản dự thảo về phối hợp hành động tại Đông Dương. Điều quan trọng là liên minh phải mạnh và phải sẵn sàng tham chiến khi cần. Tôi dự kiến không cần đến một sự can thiệp đáng kể nào về lực lượng trên bộ của đất nước ngài và đất nước chúng tôi… Liệu tôi có nên nhắc lại bài học lịch sử nữa không? Chúng ta đã không chặn đứng được Hirohito, Mussolini và Hitler bởi vì chúng ta đã không đoàn kết và kịp thời hành động. Do đó mà diễn ra một thời kì dài của những bi kịch đau lòng và những hiểm nguy hầu như không lối thoát. Liệu hai đất nước chúng ta có rút được điều gì từ bài học kinh nghiệm đó không?...”
Ngày 6 tháng 4, Navarre điện tiếp cho Ély: “Cuộc can thiệp dự định sẽ mang mật danh ‘Vatour’.
Trước tình hình nguy ngập của đội quân đồn trú tại Điện Biên Phủ, có người cho rằng Pháp đã hy sinh cái cơ hội đi tìm một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh Đông Dương tai hội nghị Genève sắp họp nhóm. Nhưng cũng có thể là ngược lại, nhà cầm quyền Pháp cũng như Navarre lúc này cho rằng chỉ có một biện pháp mạnh, dù là mạo hiểm, để cứu vãn tình hình nguy ngập ở Điện Biên Phủ, họ mới có thể đạt một giải pháp về chính trị cho Đông Dương trong những ngày sắp tới hội nghị Genève…?