Chương 21
Susan Turner có vẻ thuộc đường ở đây. Cô rẽ trái, rồi rẽ phải, đi men theo bờ phía Bắc của nghĩa trang, rồi lại rẽ và đi tiếp nửa chừng sườn phía Đông. Cô nói, “Tôi đoán chúng ta nên chạy tới ga Union. Vứt xe ở đó, khiến họ nghĩ ta lên tàu”.
“Nghe được đấy”, Reacher đáp.
“Anh muốn đi đường nào tới đó?”
“Ngu nhất thì đi lối nào?”
“Vào giờ này trong ngày hả?” Turner nói. “Cứ chọn đường chính mà đi, tôi đoán vậy. Đại lộ Constitution, đúng thế. Suốt tuyến đường đó, ta sẽ đi chậm rề rề và rất dễ lộ mặt”.
“Thế thì ta đi lối đó. Họ sẽ nghĩ ta làm khác”.
Thế là Turner chỉnh lại tư thế rồi nhập vào làn xe để chuẩn bị qua sông. Giao thông rất tệ. Cũng là giờ tan tầm trong thế giới của thường dân. Xe sát rạt nhau, mũi xe này kề đuôi xe kia, giống một bãi đỗ xe đang di chuyển. Cô nhịp ngón tay trên bánh lái, quan sát gương, nhìn qua nhìn lại để lách từ làn này sang làn kia, cố tìm chút lợi thế.
“Thư giãn đi”. Reacher nói. “Giờ tan tầm chắc chắn là đồng minh của chúng ta. Họ sẽ không có cách nào đuổi ta được”.
“Trừ phi họ dùng trực thăng”.
“Mà họ sẽ không làm thế. Không phải ở đây. Họ sợ sẽ gây tại nạn làm một ông nghị sĩ nào đó thiệt mạng. Điều đó sẽ không có lợi cho ngân sách của họ chút nào”.
Họ tiếp tục bò lên cầu, chậm chạp, sau đó bò qua sông, bỏ hạt Arlington lại sau lưng. Turner nói, “Nhân nói về chuyện ngân sách, tôi không có xu nào. Họ tịch thu mọi thứ, bỏ hết vào một chiếc túi nhựa”.
“Cả tôi cũng vậy. Nhưng tôi đã kịp mượn luật sư của mình ba mươi dollars”.
“Tại sao cô ta lại cho anh mượn tiền?”
“Cô ta có biết đâu. Chưa biết. Nhưng rồi sẽ sớm biết. Tôi có nhắn lại là mình nợ tiền”.
“Chúng ta cần nhiều hơn ba mươi dollars. Đầu tiên là tôi cần quần áo bình thường”.
“Còn tôi thì cần dây giày”, Reacher nói. “Chúng ta sẽ phải tìm một chiếc ATM”.
“Ta có thể đâu”.
“Có nhiều loại ATM mà”.
Họ xuống cầu, chậm chạp, chốc chốc lại dừng, rồi lại lăn bánh, giờ đã vào tới Đặc khu Columbia. Lãnh địa của cảnh sát thủ đô. Ngay lập tức, Reacher thấy hai chiếc xe tuần tra thủ đô trước mặt. Chúng đậu quay đầu vào nhau trên vỉa hè, sau lưng Tượng đài Lincoln. Máy vẫn chạy, hai xe có cỡ một tá antenna liên lạc. Mỗi xe có một cảnh sát, ngồi trong xe ấm áp và thoải mái. Trực an ninh thường nhật, Reacher hy vọng thế. Turner đổi sang làn bên kia, để hàng xe rề rề nối đuôi nhau che cho mình khi chạy qua chỗ họ đậu. Cả hai viên cảnh sát đều không có phản ứng gì.
* * *
Họ tiếp tục lái đi, qua bóng tối đang dần bao phủ, chậm chạp và phải dừng liên tục, vô danh giữa cả một tập hợp lãnh đạm năm mươi ngàn chiếc xe nhồi nhét trong vài dặm đường. Họ tiến về hướng Bắc trên đường 23, đúng dãy phố hôm trước Reacher đã đi bộ qua, rồi tiếp tục rẽ phải vào đại lộ Constitution. Đại lộ này chạy thẳng về phía trước, dường như dài vô tận, trước mặt họ là cả một dòng sông đèn hậu màu đỏ không có điểm dừng.
Turner nói, “Kể tôi nghe về hai gã đêm trước đi”.
Reacher đáp, “Tôi lên xe buýt và đến thẳng Rock Creek. Tôi định mời cô đi ăn tối. Nhưng cô không có ở đó, dĩ nhiên. Anh chàng thế chỗ cô nói với tôi về một cáo buộc hành hung nhảm nhí nào đó nằm trong hồ sơ của tôi. Một tên tội phạm chúng tôi để mắt tới từ mười sáu năm trước. Tôi không ấn tượng cho lắm, anh ta liền trích Tiểu mục 10 rồi gọi tôi tái ngũ”.
“Cái gì, anh đã trở lại Lục quân rồi sao?”
“Từ tối hôm qua”.
“Tuyệt vời”.
“Đến giờ, chưa thấy tuyệt chỗ nào”.
“Ai thế chỗ của tôi?”
“Một trung tá tên Morgan. Một tay hành chính, nhìn thì biết. Anh ta cho tôi ở tại một nhà trọ nằm phía Tây Bắc của trụ sở, và sau khi tôi nhận phòng được năm phút thì có hai gã lái xe tới. Hạ sĩ quan, chắc chắn, dưới ba mươi, ba hoa khoác lác về việc tôi đã khiến cả đơn vị phải mang tiếng xấu, rằng tôi nên rời khỏi địa phương ngay tắp lự, để tránh cho họ không phải nhơ danh vì tôi ra tòa quân sự, rằng tôi mà không nghe thì họ sẽ cho tôi ăn đòn. Thế là tôi nện đầu họ vào thành xe”.
“Họ là ai mới được chứ? Anh có biết tên không? Tôi không muốn đơn vị của mình có loại người như thế”.
“Không phải quân của 110. Điều đó thì rõ. Trong xe rất ấm. Có nghĩa là họ đã lái một quãng đường xa hơn rất nhiều so với đoạn đường từ Rock Creek. Hơn nữa, kỹ năng chiến đấu của họ hoàn toàn không đạt yêu cầu. Họ không phải người của cô. Tôi biết chắc, vì lúc còn ở trụ sở, tôi đã kiểm tra quân số, một cách không chính thức. Tôi đi lang thang khắp nơi, kiểm tra tất cả các phòng làm việc. Họ không phải nhân sự ở đó”.
“Thế thì là ai?”
“Họ là hai mảnh nhỏ của một bức tranh ghép hình lớn”.
“Bức tranh là gì?”
“Tôi không biết, nhưng hôm nay tôi lại thấy họ. Nhưng chỉ từ xa. Họ đến nhà trọ, có quân tiếp viện. Hai người nữa, tổng cộng là bốn. Tôi đoán họ muốn kiểm tra xem tôi đã đi chưa, hoặc nếu chưa thì sẽ giúp tôi đẩy nhanh quyết định”.
“Nếu không phải người của 110 thì tại sao họ lại muốn anh biến mất?”
“Chính xác”, Reacher nói. “Họ thậm chí còn chưa bao giờ gặp tôi. Thông thường, phải gặp rồi người ta mới muốn đuổi tôi đi”.
Họ tiếp tục bò đi, qua Bức tường Chiến tranh Việt Nam. Ở đó cũng có một chiếc xe tuần tra. Máy vẫn chạy, antenna vẫn tua tủa. Reacher nói, “Có nên cho rằng mọi chuyện đến giờ đã vỡ lở không nhỉ?”
“Trừ phi Đại úy Edmonds ngủ gật trong khi chờ”, Turner đáp.
Họ bỏ qua chỗ chiếc xe tuần tra, đủ gần cho Reacher nhìn thấy cả viên cảnh sát trong xe. Anh ta là một người da đen cao, gầy như một lưỡi dao. Hoàn toàn có thể là anh em trai của đại úy trực ở Dyer. Nếu thế thì thật không may.
Turner hỏi, “Vụ tấn công mười sáu năm trước họ tố cáo anh là thế nào?”
Reacher trả lời, “Một tên tội phạm Los Angeles bán đồ quân đội từ đợt giải trừ quân bị sau Chiến dịch Bão Sa mạc ngoài chợ đen. Một thằng ngu béo quay tự xưng là Chó. Tôi nhớ đã nói chuyện với hắn. Quả thực là rất khó quên. Hắn to cỡ một căn nhà. Hình như mới chết gần đây. Để lại một bản tuyên thệ, nhắc đến tên tôi. Nhưng tôi có đánh hắn đâu. Không đánh, dù chỉ bằng ngón tay. Thực lòng mà nói, tôi cũng không biết phải đánh hắn kiểu gì. Tay tôi chắc phải lún tới tận khuỷu trong mỡ trước khi chạm được vào bộ phận cơ thể nào đó”.
“Thế thì chuyện ra sao?”
“Tôi đoán là một khách hàng bất mãn nào đó mang theo vài gã, xuất hiện với một giá đựng gậy bóng chày. Rồi vào một thời điểm nào đó sau này, thằng béo bắt đầu nghĩ đến chuyện tìm cách đòi tiền bồi thường. Cô biết đấy, muốn được tiền mà chẳng mất gì, trong cái xã hội thích kiện tụng của chúng ta. Thế là hắn tìm đến một tên luật sư chuyên những trò đòi bồi thường kiểu đó, tay này thấy rằng kiện mấy gã cầm gậy bóng chày thì sẽ chẳng đi đến đâu. Nhưng rồi có lẽ thằng béo nhắc đến cuộc gặp với quân đội, và tay luật sư tính rằng Chính phủ có khối tiền, thế là hai thằng vẽ ra một cáo buộc nhố nhăng. Những trò như thế phải có tới hàng trăm ngàn suốt bao nhiêu năm qua. Hồ sơ quân đội chúng ta hẳn đầy ắp những vụ kiểu ấy. Và vụ nào cũng được ngó qua rồi cười nhạo rồi nhét vào ngăn kéo rồi vĩnh viễn bị lãng quên, hợp lý thôi. Trừ mỗi vụ này là lại được lôi ra ngoài sáng”.
“Vì sao?”
“Là một mảnh trong bức tranh ghép hình. Morgan nói hồ sơ của tôi bị đánh dấu. Anh ta nói hệ thống gặp lỗi khi cô rút hồ sơ ra xem, nhưng báo hiệu khi cô trả hồ sơ về. Tôi không tin điều đó. Nhân viên của ta giỏi hơn thế. Tôi nghĩ hoàn toàn chẳng có việc hồ sơ của tôi bị đánh dấu gì. Tôi nghĩ là có một đống trò được vội vàng tháo ra vào phút chót. Ai đó đang rất hoảng”.
“Về anh ư?”
Reacher lắc đầu. “Không, trước hết là về cô. Cô và Afghanistan”.
Rồi anh ngừng lời, vì trong xe bỗng rực lên ánh đèn xanh và đỏ. Qua gương chiếu hậu. Một chiếc xe cảnh sát phía sau họ đang tìm cách lách lên. Còi báo đang réo, lặp đi lặp lại những biến thể tín hiệu của nó, nhanh và khẩn cấp. Tiếng hú, tiếng khanh khách điên loạn, tiếng rên rĩ lên cao xuống thấp ai oán. Reacher xoay người trên ghế. Chiếc xe tuần tra còn cách chỗ họ khoảng hai mươi xe. Phía trước nó, đoàn xe đang tìm cách dạt sang lề đường, tản ra, cố gắng nép vào với nhau để tạo thêm một làn xe nữa trên con đường chật cứng.
Turner cũng ngoái lại nhìn. Cô nói, “Bình tĩnh đi. Chỉ là cảnh sát thủ đô thôi. Quân đội sẽ thân chinh xuống đường săn cơ. Chúng ta không dùng cảnh sát địa phương cho bất cứ việc gì đâu. Cùng lắm thì FBI, chứ đời nào nhờ các chú hề kia”.
“Cảnh sát thủ đô muốn bắt tôi vì vụ Moorcroft, Reacher nói. “Luật sư của cô. Một thám tử tên Podolski nghĩ tôi làm vụ đó”.
“Sao anh ta lại nghĩ thế?”
“Tôi là người cuối cùng nói chuyện với Moorcroft, sau đó lại vứt quần áo cũ vào sọt rác. Vào thời điểm xảy ra vụ tấn công, tôi chỉ có một mình và không thể giải thích được rõ ràng hoạt động của mình”.
“Tại sao anh vứt quần áo đi?”
“Nói chung làm thế rẻ hơn đi giặt”.
“Anh nói chuyện với Moorcroft về việc gì?”
“Tôi muốn anh ta đưa cô ra khỏi trại giam”.
Giờ thì viên cảnh sát chỉ còn cách họ mười xe, luồn lách dòng xe cộ, khá nhanh.
Reacher nói, “Cô cởi áo khoác ra đi”.
Turner đáp, “Bình thường phải uống được một ly cocktail và xem xong một bộ phim rồi tôi mới cởi đồ”.
“Tôi không muốn anh ta thấy quân phục của cô. Nếu anh ta đang tìm tôi, thì chắc anh ta cũng đang tìm cô”.
“Thế thì chắc chắn anh ta đã biết biển số xe của ta chứ”.
“Có lẽ anh ta không nhìn được số xe. Cả một dòng xe chạy sát nhau thế này”.
Mấy chiếc xe trước họ đang dạt vào lề đường. Turner cũng làm theo, dùng tay trái điều khiển bánh lái, tay phải mở đường may nẹp, kéo phéc mơ tuya của áo khoác. Cô nghiêng người về phía trước, rũ vai áo bên trái khỏi người, rồi đến vai bên phải. Cô rút tay trái ra, rồi đến tay phải. Reacher lôi cái áo từ sau lưng Turner, ném xuống sàn xe phía sau. Turner mặc áo phông bên trong áo khoác, màu xanh ô liu, tay cộc. Chắc cỡ XS, Reacher thầm nghĩ, rất vừa với cô, tuy hơi ngắn. Áo chỉ dài gần chạm thắt lưng quần. Reacher thấy một chút da, mịn, rắn chắc và rám nắng.
Anh quay lại nhìn một lần nữa. Giờ thì viên cảnh sát chỉ còn cách họ có hai xe, vẫn tiếp tục luồn lách, đèn vẫn nhấp nháy xanh đỏ, còi vẫn kêu, hú hít rồi khanh khách rồi ỉ ôi.
Anh nói, “Nếu hôm qua có mặt ở văn phòng thì cô có đồng ý đi ăn tối với tôi không? Hoặc tối nay chẳng hạn, nếu Moorcroft đưa được cô ra khỏi trại giam?”
Turner đáp khi mắt không rời gương, “Anh phải biết ngay bây giờ à?”
Họ chỉ còn cách phố 17 có vài mét. Tượng đài Washington sáng bừng trước mặt trong trời chiều âm u.
Chiếc xe cảnh sát đã lên kịp, đi ngang họ.
Và ngừng lại ngang hàng với họ.