← Quay lại trang sách

Chương 23

Reacher đi dọc phần đất phía trên bức tường, theo con dốc lên xuống và theo góc tù nơi hai bờ tường giao nhau, đi từ năm 1959 tới năm 1975, rồi lại quay lại ở đầu thấp hơn, đi ngược từ 1975 trở về 1959, qua hơn năm mươi tám ngàn cái tên hai lần liền, mà không thấy Susan Turner đâu, dù chỉ một lần. Nếu tôi không đến, thì cứ chạy tiếp đi, anh đã nói thế, và cô trả lời, Nếu tôi không, thì anh cũng vậy nhé. Và đã quá hẹn mười lăm phút lâu rồi. Nhưng Reacher vẫn ở lại. Anh đi tiếp một lần nữa, từ những cái chết ban đầu lẻ loi trên các tấm đá thấp độ hai tấc, qua vị trí đỉnh điểm thương vong với chiều cao hơn ba mét vào năm 1968 và 1969, rồi tiếp tục tới những cái chết sau cuối lẻ loi, trên các tấm đá thấp có hai tấc. Anh quan sát từng người, hoặc nhìn trực tiếp, hoặc nhìn vào hình ảnh phản chiếu trên đá đen, nhưng không có Turner. Anh bước ra khỏi cuộc chiến và trước mặt anh, trên vỉa hè là một đám đông quen thuộc những người bán đồ lưu niệm và kỷ vật, vài người là cựu binh, vài người giả là cựu binh, ai cũng chào bán đủ loại đồ cũ, như phù hiệu đơn vị và huy hiệu binh chủng, hay bật lửa Zippo có chạm khắc, cũng như hàng ngàn các món khác chẳng có giá trị gì, ngoài giá trị tình cảm. Như thường lệ, khách du lịch lại gần, chọn lựa, trả tiền rồi bỏ đi. Cũng như thường lệ, một đám người kỳ quặc và bất mãn lảng vảng quanh đó, gần như không bao giờ rời đi.

Reacher mỉm cười.

Vì trong những con người bất mãn ấy có một cô gái mảnh dẻ, tóc sẫm màu buông xõa, khoác một chiếc áo quá khổ quấn hai vòng người, dài tới gối, mặc quần rằn ri, lưỡi gà thò ra khỏi giày. Ống tay áo khoác được gấp lên cho vừa đến cổ tay, hai tay đút túi. Cô đứng rụt người, đầu cúi xuống đất, mê mụ, nghiêng người từ chân này sang chân kia, chẳng biết gì đến xung quanh, như một kẻ đang phê ma túy.

Susan Turner, đang nhập vai, lẫn vào đám đông, ẩn mình ngay giữa chốn công cộng.

* * *

Reacher lại gần cô nói, “Cô giỏi lắm”.

“Phải giỏi thôi”, cô đáp. “Một cảnh sát đi ngay qua chỗ tôi đứng. Gần như anh bây giờ ấy. Chính là viên cảnh sát ta thấy lúc trước, trong xe tuần tra đỗ ngoài kia”.

“Anh ta đâu rồi?”

“Đi về phía Đông. Như một hàng rào cảnh sát. Qua chỗ tôi đứng. Tôi đoán là qua cả chỗ anh nữa”.

“Tôi không thấy anh ta”.

“Anh ta đi xuống đầu kia của Hồ Phản Chiếu. Anh không hề ngẩng đầu lên”.

“Cô quan sát tôi à?”

“Đúng. Và anh cũng rất cừ”.

“Tại sao cô quan sát tôi?”

“Phòng trường hợp anh cần trợ giúp”.

Reacher nói, “Nếu họ đang lùng sục phía Đông thì ta nên đi về phía Tây”.

“Đi bộ?”

“Không, vẫy taxi”, Reacher đáp. “Ở thành phố này, taxi là cách ẩn mình hiệu quả nhất”.

Mỗi điểm du lịch chính dọc Công viên Mall đều có một dãy hai hoặc ba xe taxi đứng chờ khách. Cả ở Bức tường Chiến tranh. Sau quầy hàng lưu niệm cuối cùng là nhiều chiếc xe cũ rích với màu sơn bẩn thỉu và đèn taxi trên nóc. Reacher và Turner chui vào chiếc đầu tiên.

“Nghĩa trang Arlington”, Reacher nói. “Cổng chính”.

Anh đọc thông báo đính trên cửa xe. Giá mở cửa là ba dollars, rồi cứ mỗi dặm tiếp theo là hai đô sáu mươi xu. Cộng thêm tiền boa. Nghĩa là tổng cộng sẽ khoảng bảy dollars. Nghĩa là họ sẽ còn hai mươi ba đô trong túi. Nghĩa là khá hơn so với chẳng có gì, nhưng còn lâu mới đủ cho những gì sắp tới.

Họ hạ thấp người ngồi trên lớp đệm ghế đã xẹp. Chiếc xe nẩy tưng tưng và kêu ầm ĩ như thể chạy trên bánh vuông. Nhưng cũng hoàn thành được quãng đường. Vòng qua phía sau Tượng đài Lincoln, chạy trên cầu Memorial qua sông, ngược trở lại hạt Arlington. Tới bến xe buýt ở Cổng nghĩa trang. Đúng chỗ Reacher đặt chân tới lúc đầu, gần chính xác hai mươi tư giờ trước.

Một tiến triển xem ra rất kỳ quặc.

* * *

Một đám đông nhỏ đang đứng chờ ở bến xe buýt, tất cả đều là nam giới Mexico nhỏ con da sẫm màu, đều là lao động phổ thông, đều mệt mỏi, kiên nhẫn, cam chịu. Reacher và Turner nhập hội với họ. Turner hòa mình vào đám đông khá tốt. Reacher thì không. Anh cao hơn mọi người cả một cái đầu, bề ngang thì gấp đôi người khác. Da lại trắng hơn rất nhiều. Trông anh giống ngọn hải đăng đứng trên bờ biển đá hộc tối màu. Vì thế, thời giờ chờ xe trôi qua vừa lâu vừa căng thẳng. Nhưng không có chiếc xe cảnh sát nào đi qua, và xe buýt cuối cùng cũng xuất hiện. Reacher mua vé và Turner ngồi cạnh cửa sổ, còn Reacher ngồi cạnh cô ở bên lối đi và cố thu mình hết sức có thể. Chiếc xe chậm rãi và nặng nề lăn bánh, theo đúng tuyến đường hôm trước của Reacher, đi qua điểm dừng dưới chân đồi của con đường ba làn xe anh xuống hôm qua, tiếp tục leo lên ngọn đồi dốc về phía Sở chỉ huy Đội 110.

Turner nói, “Họ sẽ gọi FBI, vì họ cho rằng chúng sẽ chạy sang bang khác. Vấn đề là không biết ai gọi trước. Tôi cá là cảnh sát thủ đô sẽ gọi trước. Quân đội chắc sẽ đợi đến sáng mai”.

“Chúng ta sẽ không sao đâu”, Reacher đáp. “FBI sẽ không cho chặn đường. Ở Bờ Đông này thì không. Thật ra, có lẽ họ sẽ chẳng nhúc nhích gì đâu. Họ sẽ chỉ nhập căn cước cùng thẻ ngân hàng của chúng ta vào danh sách theo dõi, một việc làm vô nghĩa, vì ta chẳng có căn cước hay thẻ ngân hàng”.

“Có thể họ sẽ báo cho cảnh sát địa phương theo dõi các điểm dừng xe buýt”.

“Chúng ta sẽ để ý”.

“Tôi vẫn cần quần áo”, Turner nói. “Ít nhất là quần và áo khoác”.

“Ta có mười chín dollars. Cô chỉ được chọn một trong hai món đó thôi”.

“Thế thì quần vậy. Rồi tôi sẽ trả anh áo khoác, đổi lấy sơ mi của anh”.

“Cô mặc áo tôi thì cũng giống như quấn lều rạp xiếc trên người vậy”.

“Tôi từng thấy phụ nữ mặc áo đàn ông rồi. Như áo khoác thôi, lùng thùng nhưng thời trang”.

“Cô sẽ bị lạnh”.

“Tôi sinh ở Montana. Chẳng bao giờ thấy lạnh”.

Chiếc xe hì hục leo lên đồi, đi qua Sở chỉ huy Đội 110. Tòa nhà đá cũ. Cổng đang mở. Lính gác đứng trong trạm. Anh chàng trực ngày. Xe của Morgan vẫn đậu trong sân. Cánh cửa được sơn mới đang đóng. Cửa sổ nào cũng sáng đèn. Turner xoay người trên ghế, cố nhìn lại, đến khi khuất hẳn mới thôi. Rồi cô bỏ cuộc, lại quay ra trước và nói, “Hy vọng tôi sẽ được quay lại đó”.

Reacher trả lời, “Rồi sẽ được mà”.

“Tôi đã làm việc rất chăm chỉ để được đặt chân vào đó, Một lực lượng giỏi. Nhưng điều đó thì anh biết rồi”.

“Tất cả mọi người đều ghét chúng ta”.

“Chỉ khi ta làm việc hiệu quả”.

Lên tới đỉnh đồi, xe buýt rẽ vào một con đường ba làn khác dẫn tới nhà trọ của Reacher. Ngoài trời đang mưa. Chỉ một chút, nhưng đủ để tài xế bật cần gạt nước.

Turner lại nói, “Nói lại cho tôi nghe vì sao chuyện này là lỗi của tôi đi. Tôi và Afghanistan”.

Con đường bằng phẳng trở lại, chiếc xe tăng tốc. Nó lạch cạch chạy qua nhà trọ của Reacher. Bãi xe trống. Không thấy chiếc xe móp cửa đâu cả.

Anh trả lời, “Đó là cách giải thích hợp lý duy nhất. Cô đưa cáo vào chuồng gà của ai đó, người đó muốn chặn cô lại. Là điều khá dễ thực hiện. Vì như ta thấy, không ai trong đơn vị biết gì. Đại úy trực của cô không biết. Cả Trung sĩ Leach cũng không biết. Hoặc bất kỳ ai khác. Nên cô là người duy nhất. Họ gài bẫy cô bằng tài khoản ngân hàng ở quần đảo Cayman, rồi bắt quả tang cô, từ đó cắt đứt mọi đường liên lạc của cô. Và đến giờ cô vẫn không thể liên lạc với ai, vì ngay khi có dấu hiệu đầu tiên cho thấy luật sư Moorcroft của cô định tìm cách đưa cô ra tù, họ bèn cho anh ta một trận nhừ tử. Vấn đề đã được giải quyết, ngay tại chỗ. Cô bị cô lập. Cô không thể nói chuyện với ai. Vậy là mọi chuyện đều diễn ra đúng theo dự kiến. Trừ một điều, hồ sơ cho thấy cô từng nói chuyện điện thoại hàng giờ liền với một gã nào đó ở Nam Dakota. Tin đồn quanh đơn vị cho biết anh ta từng là sĩ quan chỉ huy của Đội 110. Đại úy trực của cô chắc chắn biết điều đó, vì chính tôi nói cho anh ta biết, vào lần đầu tiên gọi điện. Có thể rất nhiều người cũng biết. Hôm qua khi tới nơi, rõ là rất nhiều người nhận ra tên tôi. Và có thể họ cho rằng tôi với cô cùng có một số mối quan tâm chung. Có thể chúng ta đã bàn những việc quan trọng. Có thể chỉ tán dóc, mà thậm chí có thể cô đã hỏi ý kiến của tôi về một vấn đề nào đó”.

“Nhưng tôi đâu có nhắc gì tới Afghanistan với anh”.

“Nhưng họ đâu có biết. Nhật ký cuộc gọi chỉ ghi lại độ dài, chứ có đề cập nội dung đâu. Họ không có bản ghi âm. Nên về lý thuyết tôi là một đầu mối chưa xử lý. Có thể tôi biết những gì cô biết. Nhưng cũng không hẳn là vấn đề, vì nhiều khả năng tôi sẽ không xuất hiện. Dường như họ đã kiểm tra tôi. Họ nói biết tôi sống thế nào. Nhưng họ vẫn có vài kế hoạch, để đề phòng. Họ lôi vụ Chó Bự ra chờ sẵn, chẳng hạn”.

“Tôi không hiểu làm thế thì có ích gì cho họ. Anh sẽ bị giữ lại, và sẽ có thừa thời gian để khai báo”.

“Họ muốn tôi chạy trốn”, Reacher đáp. “Lẽ ra tôi phải biến mất và suốt phần đời còn lại không bao giờ lai vãng gần quân đội nữa. Kế hoạch là như thế. Mục đích chỉ có vậy. Họ thậm chí còn tới cả nhà trọ để đảm bảo tôi hiểu được điều đó. Và Chó Bự là lựa chọn hoàn hảo cho kế hoạch ấy. Hắn đã chết, và họ có bản tuyên thệ. Không thực sự có cách nào chống lại vụ đó. Chạy trốn là lựa chọn hoàn toàn hợp lý. Trung sĩ Leach còn nghĩ nếu cô ấy có cách báo trước cho tôi biết, thì tôi đã co giò chạy rồi”.

“Tại sao anh không bỏ chạy?”

“Tôi muốn mời cô đi ăn tối”.

“Không, tôi hỏi thật đấy?”

“Bỏ chạy không phải là kiểu của tôi. Tôi đã hiểu ra điều đó từ hồi năm tuổi. Người ta hoặc chạy trốn hoặc chiến đấu. Lựa chọn nhị phân, và tôi là một chiến binh. Hơn nữa, họ còn có một quân bài khác”.

“Là gì?”

“Một thứ khác được thiết kế để buộc tôi phải bỏ chạy, nhưng cũng không thành công”.

“Là gì?”

Samantha Dayton.

Sam.

Mười bốn tuổi.

Rồi tôi sẽ làm.

“Tôi sẽ kể Cô nghe sau”, Reacher đáp. “Chuyện phức tạp lắm”.

* * *

Xe buýt tiếp tục đi, động cơ diesel cài số thấp, đi qua dãy phố buôn bán quen thuộc của Reacher, nơi có cửa hàng đồ gia dụng, hiệu thuốc, cửa hàng khung ảnh, hiệu súng, phòng nha khoa và nhà hàng Hy Lạp. Rồi nó tiếp tục chạy tới khu vực anh chưa bao giờ đặt chân tới. Cứ thế đi tiếp, xa dần.

Anh nói, “Hãy nhìn vào mặt tích cực. Chuyện của cô không phải vấn đề gì khó hiểu. Con thỏ cô đang rượt đuổi ở Afghanistan chính là kẻ đứng đằng sau mọi chuyện. Nên ta phải lần ngược từ hắn. Chúng ta phải tìm hiểu xem bạn bè hắn là ai, phải tìm hiểu xem ai làm việc gì, lúc nào, bằng cách nào, tại sao, rồi chúng ta sẽ cho chúng biết tay”.

Turner nói, “Có vấn đề với kế hoạch đó đấy”.

Reacher gật đầu.

“Tôi biết”, anh đáp. “Sẽ không dễ. Không dễ khi là người ngoài. Giống như bị trói tay sau lưng. Nhưng ta sẽ cố hết sức”.

“Rất tiếc, đó không phải là rắc rối tôi đang nói đến”.

“Thế thì cái gì?”

“Ai đó cho rằng tôi biết một điều mà thực tế tôi không hề biết. Rắc rối ở chỗ đó”.

“Cô không biết cái gì?”

“Tôi không biết con thỏ đó là ai”, Turner đáp. “Cũng chẳng biết hắn đang làm trò gì, ở đâu, tại sao. Hoặc bằng cách nào. Trên thực tế, tôi hoàn toàn không biết chuyện gì đang xảy ra ở Afghanistan”.

“Nhưng cô cử hai người sang đó mà”.

“Từ lâu rồi. Vì một lý do hoàn toàn khác. Tới Kandahar. Chỉ là thủ tục bình thường. Hoàn toàn không liên quan gì. Nhưng khi ở đó, họ thu được thông tin từ một chỉ điểm viên người Pashtun, nói rằng có thấy một sĩ quan Mỹ đi về phía Bắc để gặp một tộc trưởng. Không ai biết danh tính người Mỹ đó lẫn mục đích của anh ta, nhưng có cảm giác không phải điều gì tốt đẹp. Chúng ta đang rút quân. Chúng ta dự định di chuyển về phía Nam, không phải phía Bắc, tới Bagram và Kabul, trước khi rút hẳn. Chúng ta không có kế hoạch lên phía Bắc, bí mật gặp gỡ với những kẻ trùm đầu. Vì thế, tôi cử người của mình lần theo dấu vết tin đồn. Chỉ có vậy thôi”.

“Khi nào?”

“Trước hôm tôi bị bắt. Nên tôi thậm chí sẽ không có một cái tên nào, cho tới khi họ báo cáo lại. Mà họ lại không thể báo cáo, khi tôi còn chưa được trở lại vị trí của mình”.

Reacher không nói gì.

Turner hỏi, “Sao vậy?”

“Còn tệ hơn thế”.

“Tệ hơn thế nào được nữa?”

“Họ sẽ không bao giờ báo cáo được nữa”, Reacher đáp. “Vì họ đã chết”.