Chương 31
Họ vượt qua đường ranh giới vào hạt Grant, con đường đồi cô độc vẫn tiếp tục kéo dài không thay đổi, hết dặm này tới dặm khác. Kim đồng hồ đo tốc độ xê dịch giữa năm mươi và sáu mươi, lên rồi xuống, nhưng kim đo xăng thì chỉ dịch chuyển theo một chiều, lại nhanh nữa. Rồi một tấm biển bên vệ đường cho họ biết sân bay hạt Grant cách đó hai mươi dặm, cùng một thị trấn mang tên Petersburg.
Turner nói, “Một nơi gần sân bay nhất định phải có trạm xăng, đúng không? Và một nhà trọ. Và một nơi có sân bay, trạm xăng và nhà trọ thì phải có quán ăn”.
Reacher đáp, “Và sở cảnh sát”.
“Hãy hy vọng điều tốt đẹp nhất”.
“Tôi luôn thế”, Reacher nói.
* * *
Họ tới thị trấn trước khi tới sân bay. Gần như cả thị trấn đang chìm trong giấc ngủ. Nhưng không phải toàn bộ. Bỏ lại vùng đồi núi sau lưng, họ rẽ trái, nhập vào một xa lộ nội bang mà một trăm mét sau đó trở thành phố Chính Bắc, với hai bên là các dãy nhà xây sát vách nhau. Ở trung tâm thị trấn là ngã tư cắt với đường 220, con đường họ đã tránh không đi lúc trước. Vượt qua ngã tư, phố Chính Bắc trở thành phố Chính Nam. Sân bay nằm phía Tây, không xa mấy. Không ai ngoài đường, nhưng một số cửa sổ sáng đèn.
Turner chạy về hướng Nam, lại vượt qua dòng Potomac hẹp, rồi rẽ phải, hướng về phía sân bay. Là sân bay nhỏ, chỉ dành cho máy bay hạng nhẹ, lúc ấy còn đóng cửa tối om. Thế là cô làm một vòng, lượn từ vỉa hè bên này sang vỉa hè bên kia, rồi đi ngược lại, vượt sông một lần nữa, hướng về ngã tư trung tâm.
Reacher lên tiếng, “Rẽ luôn vào 220 đi. Tôi đoán ở đó mới có mọi thứ ta cần”.
Phía Đông của ngã tư 220 là đại lộ Virginia. Trong vòng hai trăm mét đầu tiên, dự đoán của Reacher chỉ mới gần trúng. Có một cửa hàng bán bánh mì kẹp, đóng cửa, một cửa hàng pizza, cũng đóng cửa. Có một trạm xăng Chevron đã ngừng kinh doanh, cùng hai cửa hàng đồ ăn nhanh, đều đã nghỉ đêm. Còn có một nhà trọ cũ kỹ, đóng ván, xập xệ, bãi đậu xe kín cỏ dại.
“Chưa thấy thứ ta cần đâu”. Turner nói.
“Thị trường tự do”, Reacher đáp. “Ai đó đã khiến trạm xăng Chevron phải ngừng kinh doanh. Và cả nhà nghỉ đó nữa. Tất cả những gì ta cần làm là tìm ra ai”.
Họ tiếp tục đi, qua một dãy phố, rồi một dãy phố khác, hết địa phận thị trấn, và ở khu đất giá rẻ hơn bên ngoài, họ ghi được ba bàn thắng liên tiếp. Đầu tiên là một quán ăn đồng quê, mở cửa xuyên đêm, bên trái đường, sau một bãi đỗ xe trải sỏi rộng có ba chiếc xe tải đang đậu. Rồi đến một nhà trọ nằm cách đó khoảng một trăm mét ở bên phải đường - một công trình hai tầng hiện đại nằm ngay bên rìa một khoảng đất trống. Từ nhà trọ nhìn xa hơn nữa, có thể thấy ánh đèn đỏ từ một trạm xăng Exxon.
Mọi thứ đều ổn. Trừ một điều. Giữa quán ăn và nhà trọ là đồn cảnh sát bang.
Đồn cảnh sát là một tòa nhà xám xịt, dài và thấp, xây bằng gạch nâu nhạt, trên nóc nhà là đủ thứ đĩa vệ tinh và antenna. Phía trước có hai chiếc xe tuần tra, ánh đèn phát ra từ hai ô cửa sổ tòa nhà. Một nhân viên điều vận và một trung sĩ trực ban, Reacher đoán, đang trực đêm trong ấm áp và thoải mái.
Turner hỏi, “Họ đã biết vụ chiếc xe này chưa nhỉ?”
Reacher nhìn vào nhà trọ. “Hoặc họ có biết trước khi ta kịp ngủ dậy vào sáng mai không?”
“Ít nhất thì ta cũng phải mua xăng”.
“Được, thế thì đi mua xăng. Ta thử ngó nghiêng nơi này một chút”.
Thế là Turner cho xe chầm chậm lăn bánh trên đường, cố gắng kín đáo hết sức có thể với một chiếc xe mui trần đỏ chót sáu trăm sức ngựa, rồi rẽ vào trạm xăng Exxon. Có hai trụ bơm xăng, cả thảy bốn bơm, trạm thu tiền bằng các tấm ván gỗ trắng đẹp đẽ. Nhìn giống một căn nhà nhỏ. Trừ một điều, trên nóc cũng có antenna.
Turner dừng xe bên một máy bơm. Reacher đọc hướng dẫn: nếu không dùng thẻ tín dụng thì phải vào trả trước trong trạm. Anh hỏi, “Bao nhiêu ga lông?”
Turner đáp, “Tôi không biết thùng xăng chứa được bao nhiêu”.
“Chắc cũng kha khá”.
“Thế thì mười lăm đi”.
Nghĩa là sẽ tốn năm mươi chín dollars và tám mươi lăm xu, theo bảng giá. Reacher rút ba tờ hai mươi đô ra khỏi cọc tiền của Billy Bob, vào trạm. Bên trong, một phụ nữ cỡ tuổi bốn mươi ngồi sau lớp kính chống đạn có khoét một hình bán nguyệt ở ngay trên quầy để trao nhận tiền. Những giai điệu nghèn nghẹt ngọt ngào phát ra từ chiếc radio đang mở một bài nhạc đồng quê, cùng tiếng người trao đổi và tiếng loạt xoạt từ một chiếc máy điện đàm cảnh sát được bật ở tần số khẩn cấp.
Reacher tuồn tiền vào, người phụ nữ làm gì đó mà anh đoán là cho phép chiếc bơm ngoài kia bơm sáu mươi dollars tiền xăng, không hơn một giọt. Bài hát đồng quê kết thúc và một bài khác bắt đầu, chỉ cách nhau bởi một đợt tạp âm rồ lên từ điện đàm. Reacher liếc mắt nhìn, cố làm vẻ mặt mệt mỏi của một khách du lịch đường xa rồi hỏi, “Có chuyện gì xảy ra đêm nay không?”
“Đến giờ vẫn im ắng”, người phụ nữ đáp.
Reacher lại liếc sang bên kia, tới chỗ chiếc radio AM, “Chỉ nghe nhạc đồng quê thôi thì không đủ với cô sao?”
“Anh trai tôi có một chiếc xe kéo. Công việc ấy phụ thuộc hoàn toàn vào việc có mặt đầu tiên ở hiện trường. Anh ấy trả tôi mười đô cho mỗi vụ tai nạn được tôi báo tin”.
“Thế tối nay không có vụ nào à?”
“Không một vụ”.
“Không có gì hay ho sao?”
Người phụ nữ đáp, “Xe anh đi đẹp thế”.
“Tại sao cô nói vậy?”
“Vì tôi luôn muốn có một chiếc Corvette”.
“Cô có nghe tin gì về bọn tôi trên máy điện đàm không?”
“Nãy giờ anh toàn chạy quá tốc độ hả?”
“Khó lòng không làm thế”.
“Thế thì anh may đấy. Không ai nói gì”.
Reacher đáp, “Hy vọng còn gặp may lâu nữa”. Rồi anh nở một nụ cười mà anh hy vọng là ra vẻ đồng lõa, sau đó quay ra xe. Turner đã bắt đầu bơm. Vòi bơm đã cắm vào miệng thùng xăng. Cô đang đứng xoay ba phần tư người ra đối diện anh, một bên đùi tựa vào thành xe, chân bên kia đặt trên bệ trạm bơm. Hai tay cô đặt sau lưng, lưng cô hơi cong, như đang cố làm dịu một cơn đau. Mặt cô hướng lên bầu trời đêm. Reacher tưởng tượng thân hình cô như một chữ S mảnh mai bên trong chiếc áo cỡ lớn.
Hoàn toàn bõ công.
Anh nói, “Nhân viên trực đang nghe tin trên điện đàm. Tới giờ ta vẫn ngon lành”.
“Anh hỏi à? Thế thì cô ta sẽ nhớ mình cho mà xem”.
“Đằng nào cô ta chẳng nhớ. Cô ta luôn muốn có một chiếc Corvette mà”.
“Ta nên đổi xe với cô ta. Lấy bất cứ xe nào cô ta hiện có”.
“Thế thì cô ta sẽ nhớ mình đến cuối đời”.
“Có lẽ mấy anh chàng kia sẽ không gọi điện báo cảnh sát. Biết đâu xe của họ cũng là đồ ăn cắp. Biết đâu họ cứ thế biến mất vào trong rừng”.
“Rất có thể”. Reacher đáp. “Tôi không thấy có lý do gì khiến họ phải chờ lâu đến thế”.
“Ta có thể đậu xe phía sau nhà trọ. Sẽ khuất tầm mắt. Tôi nghĩ ta nên mạo hiểm. Chúng ta thực sự cần được ăn và được ngủ”.
Máy bơm đóng lại đánh tách sau khi bơm gần mười hai ga lông. Hoặc bình xăng nhỏ hơn họ tưởng, hoặc đồng hồ xăng của họ đã quá lo xa.
Turner nói, “Giờ thì cô ta biết rõ không phải xe của ta. Ta không biết bình xăng chứa được bao nhiêu”.
“Không biết cô ta có trả lại tiền thừa không nhỉ?”
“Có lẽ ta nên bỏ luôn”.
“Mười hai đô đấy. Đây là Tây Virginia. Nếu bỏ luôn thì ta sẽ nổi bần bật cho xem”.
“Bảo cô ta là mình sẽ theo đường 220 đi về phía Nam. Bảo cô ta là mình còn một quãng đường dài phải đi, trước khi trời sáng. Để khi nghe được tin về chúng ta trên máy điện đàm, Cô ta sẽ gọi điện báo tin sai”.
* * *
Reacher lấy lại mười hai dollars và năm mươi hai xu tiền thừa rồi nói với người phụ nữ về việc sẽ cố đến được xa lộ liên bang I-64 trước khi trời sáng. Chiếc đài AM tiếp tục i ỉ hát, còn chiếc điện đàm cảnh sát thì im lặng. Người phụ nữ đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, khẽ cười buồn, như đang nghĩ bụng chắc phải còn lâu nữa mình mới lại được ngắm một chiếc Corvette khác.
Turner đón Reacher ngay trước cửa trạm thu tiền. Họ lái xe trở lại thị trấn và sau ba trăm mét thì rẽ vào nhà trọ.
Turner hỏi, “Lấy phòng trước rồi sang quán ăn?”
Reacher đáp, “Được thôi”.
Turner suy nghĩ một hồi rồi nhìn thẳng vào Reacher.
Cô hỏi, “Ta lấy mấy phòng?”
Anh cũng suy nghĩ hồi lâu rồi nói, “Đi ăn trước. Rồi thuê phòng sau”.
“Tại sao?”
“Có chuyện này tôi muốn nói với cô”.
“Chuyện gì?”
Samantha Dayton.
Sam.
Mười bốn tuổi.
“Đợi đến khi gọi xong thức ăn đã”, anh đáp. “Chuyện dài lắm”.