← Quay lại trang sách

Chương 4

Trần Nhật Duật đứng trên mũi thuyền tướng nhìn về phía trước. Đoàn thuyền kéo dài trên sông Cái theo cự li hành quân vào trận đánh. Thuyền long phụng chở hai vua đi vào trong giữa đoàn. Hiệu phướn long phượng hạ xuống, cờ long phụng cũng không trương ra. Không có lọng, không có tàn, cũng không có những tiêu binh đứng cạnh bên trên sàn thuyền duy một lá cơ nheo nhỏ cắm ở đuôi thuyền chỉ ra đây là thuyền của vua. Khi đoàn thuyền đi ngang ngã ba Hoàng Giang và sông Cái thì một đoàn thuyền của dân binh ven biển ra đón. Họ từ Trường Yên tới. Rất nhiều thuyền là thuyền nan chuyên di chuyển trên đồng chiêm.

Một tướng nhỏ đi một chiếc khinh chu cặp mạn thuyền của Trần Nhật Duật thưa:

– Mạt tướng ở Hương Hoằng, mạt tướng trình đức ông là toàn bộ ven biển Trường Yên đã sẵn sàng theo lệnh của đức ông.

Nghe đến Hương Hoằng, Trần Nhật Duật chăm chú hỏi lại:

– Ngươi ở Hương Hoằng hay chỉ là quân của Hương Hoằng?

– Mạt tướng vừa là người Hương Hoằng vừa là quân của Hương Hoằng. Có người gửi cho đức ông cái này.

Anh ta tinh quái cười và đưa cho một Trần Nhật Duật một vật. Đó là một bộ xà tích bằng bạc. Trần Nhật Duật tái mét mặt. Làm cho ông biến sắc thế này chăngt phải dễ. Chỉ có một chuyện thôi!

Trần Nhật Duật hỏi:

– Người ấy đâu rồi?

– Em tôi đang chỉ huy dân quân nữ làm lương khô cho quân đội. Đức ông yên tâm, nó là em họ tôi, bây giờ thì yên rồi, mạnh khỏe và sôi nổi.

– Hiện cô ấy ở đâu?

– Hiện ở căn cứ biện lương ở Thái Vi.

Trần Nhật Duật hỏa tốc lên thuyền long phụng. Trận đánh sắp bắt đầu chỉ có việc chờ dân binh đến tăng viện thì dân binh đến rồi. Lên đến trên thuyền, thấy bày một chiếu bánh trái, có rượu nếp, những bát rượu nếp cẩm, những hạt rượu mọng tím sản phẩm của vùng Long Hưng phì nhiêu.

– Ô thế là hôm nay đã mùng năm tết Đoan Ngọ, nhanh thế.

Trần Nhân Tông đứng dậy đón mừng:

– Chú Sáu còn nhớ được ngày tết Đoan Ngọ cơ à.

– Lễ tết nước ta sao quên được. Anh Hai đâu rồi?

Là chỗ thân tinh ruột thịt, những lúc vắng người Trần Nhật Duật và thượng hoàng vẫn xưng hô với nhau như anh em.

– Cha cháu đang nghỉ ngơi.

Vừa lúc ấy, thượng hoàng Thánh Tông vén lá rèm che khoang nhỏ bước ra. Mấy hôm nay việc quân tối mắt, được một lúc nghỉ cũng tốt. Thánh Tông mời Trần Nhật Duật:

– Em Sáu ngồi đây, rượu nếp Long Hưng đây, nếp cẩm. Em nếm tí chút đi đã. Chắc em có việc quân muốn nói.

Trần Nhật Duật nâng bát rượu, đũa là hai cái que rất nhỏ, rất mảnh, vót kỹ lưỡng. Đúng là đũa ăn rượu nếp cẩm ở vùng Long Hưng. Hơi nếp cẩm thơm ngào ngạt. Trần Nhật Duật hít một hơi dài reo lên:

– Thơm như đồng lúa vùng Tinh Cương đang chín vàng… Thưa anh, có việc quân quan trọng, hiện nay quân ta đang vây chặt đám quân giặc ở động Hoa Lư. Mà ta lại có tin cấp báo rằng cánh quân Toa Đô muốn vào đồng bằng sông Cái. Vậy phải trình ngay để anh biết.

Thánh Tông trầm ngâm giờ lâu mới chậm rãi:

– Vậy phải chặn không cho chúng đi từ hướng Hoa Lư lên. Tốt nhất là tung quân tiêu diệt chúng ở chúng quanh đèo Tam Điệp và chặn ở Kẽm Trống, buộc chúng phải lên bằng sông Cái. Ta đánh tiêu diệt chúng ở dọc sông, một trận chưa hết thì hai trận, hai trận chưa hết thì ba, đến lúc nào chúng không còn tên nào nữa thì thôi.

– Nếu vậy ta nên không nên tiến sâu xuống nữa. Quân ta chia tản ra mai phục theo dọc sông. Một cánh tiến rất nhanh xuống sát Hương Hoằng, đánh một trận tan cánh quân địch bám ở cái đất này đẩy chúng ra biển. Chúng sẽ phải kéo nhay ra biển vào sông Cái bằng cửa Thần Phủ. Chúng đi theo theo dọc sông để về Thăng Long, đường đi này của chúng là trận địa mai phục của ta. Em tính em đem quân xuống hạ lưu sông đánh tiêu diệt bọn chúng ở cửa biển, Anh và cháu cầm quân tinh nhuệ rải ven sông làm mấy điểm chờ chúng nó lên, ngược nước, mệt nhọc. Còn ta, quân đã nghỉ dưỡng sức chờ chúng như một cái bẫy giương lên sẵn, chắc phải thắng lớn.

Sau đó, Trần Nhật Duật lĩnh một đội thuyền nhẹ tiến rất sâu về phía nam, rất nhanh cướp đường mà đi.

Trong khi đó đại quân dưới quyền chỉ huy của hai vua rải làm ba điểm mai phục dọc theo sông Cái. Nhưng trước khi Trần Nhật Duật ra đi, thượng hoàng nhìn kĩ em và nói:

– Lần nay qua Hương Hoằng, em làm cho xong việc riêng của em đi. Việc ấy ta chuẩn y cho em rồi.

Trận đánh ở hạ lưu sông diễn ra chớp nhoáng. Thực ra quân đội của Trần Nhật Duật không có bao nhiêu nhưng dân binh của Hương Hoằng và Hoa Lư rất đông. Họ lại rất thuộc đường. Họ cùng với quân triều đình tiến như bão táp vào hàng trận giặc, những đồn lẻ của chúng bị quét rất nhanh. Chỉ trong một ngày tiến quân, quân giặc đã bị tiêu diệt.

Trần Nhật Duật gặp cô Mơ khi trận đánh kết thúc. Vốn tính quả quyết đức ông ra lệnh cho quân lính mở tiệc mừng.

Sẩm tối hôm ấy, đội quân của Trần Nhật Duật quần áo bảnh báo như đi dự tiệc. Mà dự tiệc thật chứ có đùa đầu, tiệc cưới. Lễ cưới của ông, quân ông được lệnh mặc đẹp. Đấy là quân nhà trai, họ nhà trai. Lễ vật thì không có, chỉ có những hũ rượu dán giấy đỏ lên nắp. Và những chiếc đèn lồng lợp lụa có viết chữ hỉ, chữ đen lụa đỏ. Nhà gái là dân quân Hương Hoằng đóng trong một ngôi đình. Chú rể là Trần Nhật Duật. Chủ hôn là ông tham quân Trần Lễ, ông này đứng về thế thứ là chú của Trần Nhật Duật, ông ta coi việc sổ sách giấy tờ. Cô dâu là cô Mơ, phù dâu là nữ binh hương Hoằng. Đường từ chỗ đóng quân của Trần Nhật Duật đến ngôi đình nhà gái cách nhau hai dặm mà là hai dặm của một con đầm sen. Thuyền nhà trai đi qua đầm sen mùa này đang nở rộ, hương sen ngào ngạt. Đêm nay lại là đêm mùng mười trăng vằng vặc, họ chỉ đốt một cây đuốc ở đầu đoàn thuyền và chẳng cần phải thuyền nào cũng có đuốc. Từ đằng xa họ đã nhìn thấy sân đình đông kín người. Đèn nến thắp sáng đó đây, tiếng đàn, tiếng hát vang lên. Họ đang hò những điệu hò sông Mã lâng lâng, vời vợi, khoáng đạt và hạnh phúc như người sông Mã.

Chỉ lúc chiều thôi, Trần Nhật Duật đã gặp cô Mơ. Ý kiến hai người rất khác nhau. Trần Nhật Duật muốn làm đám cưới ngay. Cô Mơ muốn hoãn lại vì nhiều lý do: thứ nhất là lễ cưới phải có chuẩn bị chứ đâu mà làm gấp được quần áo của cô dâu, của các phù dâu. Đâu phải mỗi lúc làm xong được ngay. Thứ hai, đây là đám cưới của thân vương phải có lệnh của vua, phải có phép tăc triều đình, phải có phép tắc của dòng họ, phải có người thay mặt đứng ra làm chủ hôn. Thứ ba, hoãn một tuần trăng, hoãn một tháng cũng chẳng sợ gì có điều chi ngăn cản đám cưới. Nhưng Trần Nhật Duật nói: Cưới người chứ có phải quần áo đâu mà sợ quần áo cô dâu với cả quần áo phù dâu không được chuẩn bị kịp. Thứ hai thân vương cũng là người, vậy thị không phải làm cho rườm rà lễ. Thượng hoàng đã chuẩn tấu của ta rồi. Có ông tham quân Trần Lễ thay mặt triều đình và dòng họ là đủ. Thứ ba ta không muốn chờ cái gì nữa. Quyết là làm thế thôi.

Có giời mà ngăn nổi ông lúc này.

Và lễ cưới diễn ra từng bừng đêm nay, cô dâu chú rể là chiến binh, mặc áo chiến làm lễ gia tiên. Chén rượu hợp cần là cái bát vại, rượu là rượu nếp hương Hoằng bằng nếp cải hoa vàng. Tiệc cưới của hai người cũng là tiệc khao quân cho trận chiến thắng vừa qua.

Trần Nhật Duật từ dưới thuyền bước lên bờ, bồi hồi nghĩ đến đám cưới năm trước của Hoàng Mãnh với nàng Hai ở trên Châu Mai. Lần ấy cô Mơ đưa trầu xin dâu. Trần Nhật Duật thay mặt họ nhà trai đến nhà Trịnh Giốc Mật cướp dâu cho ngơpì em đồng tuế. Khi Trần Nhật Duật đi sau lưng cô Mơ, ông ngắm cái gắy trắng ngần của Mơ và cứ lạ lùng làm sao người con gái ven biển không có nước da trắng lắm mà sao cái gáy trắng thế kia. Và ông đã nảy ra cái ý thèm muốn một lễ cưới của ông với Mơ không trịnh trọng và giàu sang như đám cưới của Hoàng Mãnh và nàng Hai mà chỉ là lễ cưới bình thường của dân lành.

Và bây giờ lễ cưới của ông diễn ra không chỉ là lễ cưới bình thường của dân lành mà còn là lễ cưới của hai chiến binh trong đó phù dâu phù rể còn gác vũ khí ở đầu điếm để vào tiệc rượu. Rượu không uống bằng chén mà bằng những cái đọi lớn, ánh đèn còn thua ánh đuốc và lửa đuốc đêm rất ấm làm hồng má của những cô gái đi dự lễ cưới. Các cụ bô lão của Hương Hoằng rất sung sường. Cụ già nhất nói:

– Hương Hoằng mời đức ông về coi đất này khi đã xong chiến tranh.

Trần Nhật Duật nói:

– Đây bây giờ là quê tôi mà.

Kể từ tối đến giờ, đúng ra là từ lúc bước từ thuyền lên đến sân đình Trần Nhật Duật thấy tất cả như là một đám mây mù ngũ sắc vây trong xung quanh. Ông không nhận ra ai, cũng không phân biệt được ai với ai cười, Ông như một người đang ngủ một giấc mơ đẹp. Người ta dắ ông đến trước mặt ông Trương và bà Trương, và người ta đưa đến một cô gái mặc áo tứ thân thắt lưng thiên lí. Trần Nhật Duật nhìn cô, nhìn kĩ, định thần nhìn kĩ và nhận ra đó là Mơ giữa một đám binh nữ phù dâu, áo của Mơ là màu áo lụa nâu non, bên trong là áo dài bằng là không nhuộm. Đây là quần áo của những cô gái không phải đi lấy chồng mà là đi trẩy hội. Trong lúc cấp thời người ta không kịp chuẩn bị quần áo cho cô dâu, người ta lấy luôn quần áo hội năm trước cho cô dâu mặc. Mơ che mặt sau một lá quạt, đây là một lá quạt Hới. Đó cũng không phải là quạt dùng cho cô dâu trong đám cưới, nó chỉ có tác dụng nụ cười cho đỡ thẹn. Cô đang nhìn Trần Nhật Duật, ánh mắt của cô là ánh mắt của một người đang cười. Cô rất tinh quái khi thấy Trần Nhật Duật đang cuống. Chính vì cái cười của cô vừa có vẻ chế giễu, vừa có vẻ khuyến khích làm cho Trần Nhật Duật định thần nhận ra mọi điều chung quanh, ông trở lại sự bình tĩnh thường nhật mà ông vốn có và ông làm chủ ngay tình thế. Ông nhận ra bà mẹ nuôi rất thân thương của mình đứng trước mặt mình. Và bên cạnh bà là ông bà Trương, bố mẹ của Mơ.

– Đến bây giờ con mới nhận ra mẹ.

Bà Trương cười:

– Bây giờ cô dâu chú rể làm lễ gia tiên đi.

Trần Nhật Duật và Mơ song song bước vào chiếu. Chiếc chiếu cạp điếu, trải ngay ngắn, Mơ ngồi xếp thẻ, Trần Nhật Duật đứng ngay sau lưng. Cặp trai gái nghiêm trang lễ gia tiên bốn lễ hai vai. Trong khi đó, đội dũng thủ của Trần Nhật Duật làm vai phù rể và đội nữ binh Hương Hoằng của Mơ trong vai phù dâu đứng vây chung quanh.

Bấy giờ ông Tham quân họ Trần thay mặt triều đình tuyến chỉ của thượng hoàng tứ hôn cho Trương Thị Mơ và hoàng tử Trần Nhật Duật thành đôi vợ chồng. Lễ nghi này rất quan trọng với gia đình họ Trương bởi xưa nay người bách tính lê dân không được kết hôn với người hoàng tộc. Nếu không là phạm pháp.

Sau đấy là tiệc vui diễn ra ồn ào, rượu chảy như suối, đồng thời cũng là để khao quân chiến thắng vùng Trường Yên. Rượu mới được nửa chừng thì có một đoàn khinh thuyền đuốc sáng trưng tiến vào bến. Hoàng Mãnh là người ngảy lên bộ đầu tiên. Mãnh chạy đến trước Trần Nhật Duật hô to:

– Bây giờ đức ông là em tôi đấy nhá.

Tốp quân đi theo Hoàng Mạnh cũng chạy vào vòi rượu:

– Rượu mừng là phải uống.

Trần Nhật Duật hô lớn:

– Được uống và uống thật nhiều. Và còn rượu thưởng nữa – Ông đưa tay chỉ ra xung quanh – Đây là nữ binh của Hương Hoằng, có người là chị em, có người là bạn bè của vợ ta. Nhiều cô chưa có chồng. Nếu có cặp nào nên vợ nên chồng, sau hôm nay thì ta sẽ thưởng.

Nữ binh dân làng và chiến binh cùng reo hò cười râm ran.

– Làm sao ngươi lại đến đây được?

– Tôi vừa ở mặt trận sông Thiên Đức về đây. Trên ấy chúng ta thắng lớn, đạo binh sơn chiến của sông Đà đánh phục kích trên bờ Bắc của sông, chém hơn bốn trăm đầu giặc. Nhưng ở bờ nam chúng ra có một tổn thất mất một tướng oai hùng. Đó là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Tôi mang tin chiến thắng về Long Hưng thì gặp đoàn tùy tùng của Thượng Hoàng và quan gia lên Thái Đường thăm mộ. Thượng Hoàng ra lệnh cho tôi về đây triệu đức ông đem quân về chặn suốt ngã ba Vường về cửa Hới. Thượng Hoàng dặn không bức cho địch phải chó cùng dứt dậu, nhưng cũng không thả lỏng cho chúng đi dễ dàng. Còn tôi thì đám cưới của em tôi, làm sao tôi lại không có mặt.

– Còn ta thì bao giờ phải lên đường?

– Mai sớm nhổ sào. Tôi đã ra lệnh cho thủy đoàn sẵn sàng. Còn bây giờ cho tôi đi uống rượu với anh em.

– Đi đi, uống cho từng bừng. Bây giờ thì không ai ngăn cản được ta làm lễ cưới.

Trần Nhật Duật nhe răng cười:

– Nếu ta không quyết tâm thì hôm nay em Mơ cũng định hoãn lại. Mai sớm ra trận rồi cũng chẳng sao.

Mờ sáng cả đám cưới lên đường ra trận, phù dâu thành nữ binh, phù rể thành dũng thú. Toán nữ binh tiến về vùng chung quanh ngã ba Vường để làm bổn phận nuôi quân. Đạo binh của Trần Nhật Duật tiền trên thuyền lớn nhanh chóng tiến qua cùng cửa sông về phía Long Hưng. Ngay chiều hôm đó, Trần Nhật Duật đã được diện kiến Thượng Hoàng. Đêm hôm đó, Trần Quang Khải mang quân từ Chương Dương về hội sự.

Một cuộc họp bàn quan trọng diễn ra trên thuyền lớn của Thượng Hoàng. Thượng Hoàng rất đăm chiêu:

– Đạo quân địch lần này tiến vào đất ra chính là đạo quân từ Thanh Hóa tránh đường Hương Hoằng và Trường Yên, tiến vào Thiên Trường Đô không phải là một đạo quân mạnh, mặc dù chúng còn rất đông. Tường giặc Toa Đô đã bị mòn mỏi mấy năm trời ở Chiêm Hóa và Hoan Diễn. Bây giờ chúng tìm về Thăng Long để hội quân với Thoát Hoan mà chúng không biết tên này đã bỏ Thăng Long chạy trốn. Chúng định hội sự nhưng sự đâu mà hội. Người mệt lương thiếu, khí giới cùn gẫy, ta đánh là chắc thắng lớn, tuy nhiên không thể coi thường chúng được. Không được dồn nó vào đất chểt để chó cùng dứt dậu, ta tính từ đây về Thăng Long mấy trăm dặm ta bố trí đánh nhiều trận phục kích nhỏ và vừa, không đánh rát mà cũng không cho chúng kịp thở mà bỏ chạy. Trận đầu chú Ba đánh trước. Hãy đem tinh thần chiến thắng Chương Dương mà áp đảo nó. Trận thứ hai ta và quan gia sẽ ngự giá thân chinh trương cờ Long Phụng để làm cho chúng mất hết nhuệ khí. Trận thứ ba, chú Sáu sẽ đem binh sắc nhọn lấy tinh thần Hàm Tử đánh tiêu diệt trận cuối. Trận này may ra ta chém được tướng giặc. Ta dặn lại trận lại không được đánh rát cho nó chó cùng dứt dậu.

Thánh Tông ngừng nói mặt có vẻ buồn:

– Cũng vì bị dồn chó cùng dứt dậu mà bọn địch đánh quặt lại một trận làm ta mất đi một chiến tướng anh hùng.

Tất cả các tướng im lặng, một không khí buồn bã không ai nói ra nhưng tất cả đều nghĩ đến Trần Quốc Toản với khí thế hào hùng tuổi trẻ nuốt trâu. Có thể đây cũng không phải là vì đánh rát và chó cùng dứt dậu. Có khi trong chiến trận chỉ may và không may một chút mà xảy ra chuyện lớn. Trong chiến tranh có tướng nào là không có mũi tên bắn sạt mang tai. “Vinh, lợi sỉ, tử, thị vị tứ thủ” có nghĩa là cái vinh cái lợi cái hổ thẹn và cái chết chóc là bốn điều mọi người phải hết sức chú ý trong chiến tranh. Vinh phải là cái vinh trong quang minh. Lợi phải là cái lợi trong chính đáng. Sỉ là đừng có làm cái gì hổ thẹn cho lương tâm. Chết là phải cái chết lưu tên muôn thuở. Như cái chết của Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản vậy.

Mờ sáng các tướng chia nhau về nắm quân. Họ đã có khu vực chiến đây vạch sẵn rồi. Trần Nhật Duật đem thuyền nhẹ vào trong vùng lầy để tiến về Màn Trò. Ông truyền lệnh cho quân ta đóng quanh Thăng Long giữ vững trận địa và giữ trật tự trong ven thành đã sạch bóng giặc.