Chương 5
Lê Văn Hưu dẫn đầu đoàn người tiến vào lăng Trần Thái Tông. Vùng lăng mộ hiện nay lưu giữ mộ tổ của dòng họ Trần, kể cả mộ của Thái Tổ, Thái Tông, gần chung quanh là mộ của những cột trụ triều đình như Trần Thủ Độ, Trần Thị Dung.
Sau lưng Lê Văn Hưu là hai vua, sau nữa là Trần Quang Khải dẫn đầu văn võ tùy tùng tiến vào làm lễ dâng hương. Trước tiên là dâng hương trước ban thơ bản cảnh thô thần. Quang cảnh thực cực kỳ trang trọng. Theo như nghi lễ của ta, đây là việc trình diện của tất cả con cháu cảm ơn bản cảnh thô thần đã trông nom cho tổ tiên được an nghỉ bình yên. Thượng Hoàng nhìn ra đằng sau thấy bô lão của Thái Đường đứng từ đằng xa chưa dám vào. Ngài ra lệnh:
– Xin mời lại đây, hoàng tộc xin cảm ơn các vị đã trông nom mộ tổ được chu đáo. Mời cụ đứng lên đây.
Quân sĩ lập nghiêm đàn rẽ ra mở đường để các bô lão đi vào. Thượng Hoàng cho mời các bô lão Thái Đường đứng ngay sau lưng hai vua. Ông chủ tế là Lê Văn Hưu cho làm lễ dâng hương trước mộ Thái Tổ, Thái Tông. Nhân Tông chăm chú nhìn các bô lão Thái Đường. Nhà vua trẻ thấy rằng các cụ hẳn sẵn sàng hi sinh tất cả để giữ cho lăng mộ dong họ an toàn.
Vị vua trẻ phán:
– Cảm ơn các cụ, ta ban thưởng cho mỗi cụ một bộ quần áo lụa đỏ và mười lạng bạc. Ta ban cho các người canh lăng mỗi người mười lạng bạc. Ai có mẹ già được tặng chày cối giã trầu, áo nâu non, khăn lụa thâm. Ta ra lệnh cho giết trâu khao thưởng hương Thái Đường.
Trần Nhân Tông nhìn Lê Văn Hư và trang trọng nói:
– Ông sử gia, ông cho ghi điều này vào chính sử.
Sau đấy là cả một buổi chiều tiệc khao thưởng diễn ra trong đình làng Thái Đường. Còn các nhà cũng chuẩn bị thiết đãi đàn bà trẻ con để bù cho họ không được dự tiệc ở đình làng.
Trần Quang Khải nhanh chóng phái quân sang bên hữu ngạn sông mai phục trong những vùng lau sậy. Tất cả đều chuẩn bị những mũi tên buộc giẻ, tẩm dầu sẵn. Họ cũng chuẩn bị những chiếc bè gỗ, bè tre nhỏ trên để những chất dễ bắt cháy. Hôm nay là mười bốn, nếu nhanh, giặc có thể ngay đêm nay. Nhưng chắc tinh thần của chúng đang hoảng loạn rụt rè, sợ hãi thì có khi bốn ngày nữa chúng mới có thể tới được. Trước khi Trần Quang Khải đem quân đi, thượng hoàng còn dặn một câu:
– Nếu chúng đến sơm tức là chúng còn chút tinh thần chiến đấu, như vậy không cần đánh rát. Nếu chúng đến muộn hơn tức là chúng mất tinh thần thì đừng có đánh rá để chúng sợ không dám vào sâu nữa.
Như thế có nghĩa là nếu chúng đến sớm thì đánh vừa phải tiêu diệt một bộ phận nhỏ quân chúng. Còn nếu chúng đến muộn thì còn phải đánh nhẹ hơn nữa để chúng đỡ sợ mà tiến vào sâu.
Trấn đánh đầu tiên diễn ra mé trên cửa sông Luộc. Trần Quang Khải chở cho thuyền giặc lọt hẳn vào sâu trong trận địa mai phục của ông mới cho quân tiến ra đánh vào khúc đuôi. Quân lính không được lệnh tiến vào sát thuyền địch mà chỉ từ xa bắn tên lửa vào đoàn thuyền. Thuyền của chúng ngược sông Cái nhưng lại thuận gió nồm nam. Tuy thuyền ngược nước nhưng cứ thuận gió nên chúng tiến cũng khá nhanh. Nhưng vì ngược nước nên phải đi chữ chi trên sông Cái. Thuyền giương hết buôm. Đây là những đoàn thuyền chúng tịch thu ở Hoan Diễn và Chiêm Thành, có đủ cả thuyền Hoan Châu to nặng, thuyền Chiêm Thành vỏ dưa chuyên dùng đi biển, buồm của chúng là buồm nâu. Tên bắn trúng buồm bắt dính vào bốc cháy đùng đùng. Đứng từ xa trông những con thuyền đang cháy buồm trôi chuệnh choạng như anh say thuốc lào lảo đảo, mất sức rướn và tụt lại. Đoàn thuyền chưa trúng tên bỏ mặc những chiếc thuyền bị cháy cứ ù chạy, bỏ lại những chiếc thuyền không còn sức di chuyển tạt xuống theo chiều gió vào bờ tây. Lúc bấy giờ mới là lúc quân của Trần Quang Khải áp sát bắt tù binh. Hơn hai mươi chiếc thuyền giặc bị cháy buồm và bị bắt. Hơn năm trăm giặc bị trói thành xâu dẫn lên bộ và bị đưa đến lều trận của Trần Quang Khải. Ông đang đứng trước cửa lều trận, hai bên ông là đoàn dũng thủ hộ vệ kiếm tuốt trần. Sau lưng ông là lá mộc cỏ sơn biểu trưng của Chiêu Minh Vương.
Đoàn hộ vệ đưa đức ông đến trước bọn giặc. Một tùy tướng ra lệnh cho chúng:
– Đây là đức ông Chiêu Minh Vương. Bọn mày muốn sống thì làm lễ bái tạ xin tha mạng đi.
Lũ tù dây lạy như tế sao. Chiêu Minh Vương bật cười. Ông tò mò nhìn chúng. Quần áo của chúng khác nhau. Có thể trong số bọn chúng có tướng chỉ huy, như thằng kia chẳng hạn ra trận mà mặc áo gấm, mũ thì lại còn nạm ngọc. Ông vẫy nó và hỏi:
– Trong đám binh khí kia, cái nào là của mày?
Ông chỉ vào đám binh khí thu được của chúng xếp đống ở cửa lều trận. Tên giặc rụt rè chỉ vào một cây kiếm vỏ nạm vàng chuôi nạm ngọc cây kiếm cong loại kiếm của người Duy Ngô Nhĩ.
Trần Quang Khải cầm thanh kiếm lên xem rồi đưa cho tên tướng giặc, tên này sợ quá xua tay gạt đi. Trần Quang Khải gặng hỏi:
– Đúng là cây kiếm của mày chứ? Mày làm chức gì, tên mày là gì?
Tên giặc run rẩy trả lời:
– Thưa đúng. Tên tôi là Trương Hiền, tổng quản đô úy. Tôi xin hàng, xin tướng quân tha cho tôi.
Các tướng hộ vệ của Trần Quang Khải trừng mắt nhìn. Trương Hiền biết mình thất thố, lắp bắp:
– Xin đức ông tha chôi tội, tôi quên mất.
Trần Quang Khải bật cười. Ông cho Trương Hiền vào lều trận, cho ghế hắn ngồi, cho rượu hắn uống vài chén cho đỡ sợ. giờ lâu ông mới hỏi:
– Trong đạo quân của ngươi có những tướng nào, có bao nhiêu quân, tinh thần thế nào?
Ông hỏi dần dà Trương Hiền trả lời lần lượt. Quân riêng của hắn có hai nghìn. Chết một nửa còn bị bắt một nửa. Còn tướng chỉ huy cả đạo là tả thừa Toa Đô. Hai tướng nữa Tổng quản Ui Ma và Ô Mã Nhi. Cả ba tên đều là Vạn hộ hầu ba hạt châu. Nhưng trong ba tên, Ô Mã Nhi là tướng giỏi nhất. Còn Toa Đô là quyền to nhất, mục đích đạo quân này tiến về Thăng Long là hợp quân với nguyên soái Thoát Hoan. Là để dựa vào nhau may ra rút thoát về nước nhưng chẳng ai có ý chiến đấu nữa.
Những tin tức về địch được Trần Quang Khải chi dùng hiệu lửa truyền ngay về đạo quân do Thượng Hoàng Thánh Tông chỉ huy. Cho nên có thể nói tàn quân địch chưa chạy được xa mười dặm sông thì ta đã chuyển xong tin tức về chúng.
Trần Quang Khải ngoài việc truyền tin tức ông còn đưa một đề nghị thay đổi kế hoạch diệt đạo quân Toa Đô, bởi đó là một đạo quân bạc nhược rồi. Thượng Hoàng không cần thiết phải xung trận. Chỉ cần người xua quân, cho các bè cháy xông vào hàng trận giặc cũng đủ khiến chúng ta vỡ. Như vật nhiệm vụ tiêu diệt đạo quân Toa Đô, bắt tướng là giao cho Trần Nhật Duật. Ngay bây giờ đạo quân của Trần Quang Khải cũng ra trận ngay.
Trần Quang Khải như cái nút vò không cho giặc lùi xuống hạ lưu. Sau khi truyền tin xong, đức ông cũng ra lệnh toàn đội nhổ neo. Buồm kéo lên, thuận gió nam, đoàn thuyền phơi phới tiến về phía Thăng Long.
Từ vũng lầy sau bãi Màn Trò, Trần Nhật Duật đưa quân ra sông Cái. Chỗ này chỉ mới tháng trước ông đã đánh trận Hàm Tử lẫm liệt buộc quân địch ở Thăng Long phải bỏ chạy. Hôm nay ông sẽ đánh một trận lừng lẫy nữa. Hiệu cờ của quân ta từ các đồn bên hữu ngạn sông Cái đưa về: đoàn thuyền giặc đang cố sống cố chết chạy về phía Thăng Long. Chúng đi tìm một chỗ dựa cho đạo quân hết sức chiến đấu. Nhưng chỗ dựa đó không còn nữa. Triệu Trung, viên hồ tướng, được lệnh đi một con thuyền nhẹ xuôi xuống đón đầu đạo quân Toa Đô, mang theo một lá thư của Trần Nhật Duật gửi chô Toa Đô khuyến cáo gã đầu hàng, hạ khí giới cho khỏi tốn sinh linh vô ích. Trần Nhật Duật tính là thư này sẽ gieo sự hoảng loạn vào quân Toa Đô. Nếu y chấp nhận đầu hàng thì đây là việc may cho y, còn nếu y không chấp nhận đầu hàng thì tin Thoát Hoan đã bỏ chạy là cho quân giặc không có lòng dạ chiến đấu nữa.
Quả nhiên khi thuyền của Triệu Trung nhập vào đạo quân của Toa Đô chưa tới một khắc thì trạng thái thế trận quân Nguyên thay đổi hẳn. Chúng ngừng lại không tiến nữa, sau đó quay thuyền đi xuôi. Thuyền của Triệu Trung thấy rời hàng trận giặc tạt sang bờ hữu ngạn sông Cái. Thế là sứ giả quay về! Thấy vậy, Trần Nhật Duật sai đánh trống trận ra hiệu tiến quân. Từ các khe lạch ven sông Cái, thuyền mai phục tiến ra, các bè chất chất cháy được lệnh đốt lên đẩy lên trước cho trôi vào hàng trận giặc. Cùng lúc đó từ hạ lưu sông đạo quân của Thượng Hoàng của vua Nhân Tông và đạo quân của Trần Quang Khải cũng nhập một bọc đạo quân của Toa Đô bên ngoài bến Tây Kết. Trên sông lửa cháy ở các bè và các thuyền, khói bốc nghi ngút. Tiếng reo hò dậy sông. Các thuyền quân ta không áp sát quân giặc mà chỉ đứng ở tầm tên bắn tên lửa vào. Từ các thuyền quân đội dùng câu liêm sắt vớt những tên giặc rơi xuống nước đang nổi bập bềnh. Chúng là người thuộc vùng phương bắc hoang mạc chẳng biết bơi nên khi vớt lên chúng van lạy như tế sao cảm ơn.
Trần Nhật Duật nhìn thấy một đội thuyền giặc xúm xít quanh một con thuyền có lầu. Ông đoán đấy là thuyền tướng. Ông chỉ cờ và ra lệnh áp sát gói hàng. Con thuyền này cố chọc một hướng đi xuôi xuống mạn hạ lưu. Nhưng bên dưới đã có một đạo tinh binh dựng cờ long phụng ra chặn. Trời đã về chiều. Hơn hai chục dặm sông thuyền bè tan nát, lửa cháy, khói đen bốc nghi ngút. Mặt trời hoàng hôn nhuộm vàng quang cảnh trên sông. Thuyền chiến giặc chợt đỏ như màu đỏ của máu. Đạo quân của thượng hoàng đánh rẽ vào đám thuyền giặc chia chúng làm hai. Đuổi những chiếc thuyền không có lầu ra bên tả cho chúng đi xuôi. Còn vây đánh chiếc thuyền có lầu, đó chính là thuyền của Toa Đô. Các chiến binh của đạo quân Thần Sách reo hò hươi câu liêm ra. Toa Đô bị tới sáu câu liêm giật ngã. Gã bị chém đầu. Tên giặc xâm lược vào loại đầu sỏ đã phải đền tội.
Khi viên tùy tùng của đạo quân Thần Sách dâng đầu của Toa Đô lê thượng Hoàng trên một chiếc mâm. Bấy giờ thuyền tướng của ta có đủ mặt các tướng đã tham gia cuộc đánh diệt này. Thượng Hoàng nhìn các tướng và nói:
– Làm bầy tôi như thế là đáng khen. Đây là một tướng trung dũng. Ông ta xứng đáng được chôn cất tử tế.
Thượng hoàng sai lấy lụa đỏ phủ lên đầu Toa Đô và ra lệnh làm lễ chôn cất. Trần Quang Khải nói trong đạo quân giặc còn những tên tướng giặc rất nhiều tội ác cần phải truy đuổi nhưng thượng hoàng cản lại. Thượng Hoàng chỉ ra lệnh đem quân đuổi nhưng không đuổi rát. Ngài nói:
– Đừng làm chó cùng dứt dậu.
Tàn quân giặc chạy được ra biển rút thẳng về nước, trong đó có dũng tướng Ô Mã Nhi.
Đoàn quân chiến thắng trở về Thăng Long giải phóng. Trung Thành vương đã đem quân bản bộ vào Thăng Long giữ trật tự, chữa chạy, cứu dân.
Tiến quân vào đầu tiên là quân Thần Sách. Từ kinh thành đạo quân của Trung Thành vương đã ra đón. Hoàng Thành đã được dập tắt các đám cháy từ ba hôm trước. Các phường phố đã có dân về. Loáng thoáng ở cửa sông Tô mấy quán bán rượu đã thấy bán hàng. Vị vương lưu thủ kinh thành là Trung Thành vương đã ra sức khôi phục trật tự từ mấy ngày nay, chô chôn cất những xác giặc chết dấp dúi ở những chỗ khuất nẻo nhưng mùi xú uế vẫn xông lên nồng nặc. Tuy thế không khí chiến thắng phấn chấn vẫn tràn lan. Quân đội được phái ra canh phòng tứ phía, vừa đi vừa hát vừa reo hò. Trần Quang Khải đưa quân qua ngõ chỗ rẽ vào phủ Hưng Đạo. Phủ đã bị đốt trụi, chỉ còn một bãi trống với một vài cây cột cháy dở. Trần Quang Khải cùng Lê Văn Hưu đi thăm kinh thành. Nhớ thuở ông đươc phong vương, hoàng tộc cử ông bảng nhãn Lê Văn Hưu làm phó quan cho Chiêu Minh vương. Phó quan là một chức quan vừa dạy học cho vương tử sao cho vương tử giỏi giang, đồng thời cũng là người coi sóc hành vi và thái độ đối với vương triều. Vương tử ấy phải trở thành một vương tử trung thành với hoàng triều và giỏi giang có thể đảm đương được những chức vụ quan trọng. Việc thành đạt của vương tử là công của hai người: bản thân vương tử và ông phó quan. Cũng vì thế khi Chiêu Minh vương giữ những chức vụ quan trọn thì ông phó quan cũng lần lượt giữ những trách nhiệm cực kì long trọng. Ông đã trải qua ngự sử đài, rồi sử quan, đôi lúc còn vào cung hoàng tử học. Quan hệ giữa hai người cực kỳ mật thiết. Đó là lẽ tại sao Chiêu Minh vương đi thăm Thăng Long mới giải phóng. Thoạt tiên ông đi về phía phường Yên Hoa, không dùng kiệu dềnh dàng, cũng không dùng ngựa ồn ào mà ông đi bộ. Cổng phủ Chiêu Minh đã mở toang. Lính gia đồng của Trung Thành vương đứng canh phòng. Trong thời kỳ bị chiếm đóng, phủ Chiêu Minh là nơi Thoát Hoan dùng làm nơi nghỉ ngơi cho nên vương phủ không bị đôt phá. Khi Thoát Hoan rút quân, nguyên soái quân xâm lược cũng không kịp đốt phá. Trung Thành vương đã vào Thăng Long trước đây hai ngày. Ông đã ra lệnh cho tả hữu coi sóc kỹ lưỡng những nơi chưa bị đốt phá. Nghiêm lệnh cho binh lính cái gì ở đâu vẫn để nguyên như cũ. Trần Quang Khải bồi hồi đi vào phủ của mình, ông thấy như vừa gần gũi vừa xa lạ. Phòng khách, phòng sách có thêm những đồ vật mới, chứng tỏ có người khác đã đến ở. Vó những vật dùng trong việc quân như thẻ bài, cung tên. Và có những vật là của phụ nữ dùng, ví dụ như đệm ghế ngồi bọc lụa, những ấm chén trà, đồ gốm của nước Đại Lý. Còn phòng ngủ thì ngày xưa là phòng ngủ của chính ông treo nhiều tranh của những người vẽ tranh nổi tiếng tài hoa của nước ta. Nhưng bây giờ cũng là phòng ngủ của phụ nữ. Trước hết là hương bưởi, hương trầm còn ướp ở chăn gối bỏ lại. Chỗ ngày xưa ông đặt một cái văn án thì bây giờ là một tấm gương đồng to và trên bàn là phấn son là bàn chải là lược. Ông nhìn lên trên các bức tường và nhận ra rằng có thiếu một bức tranh mà ông thích nhất, đó là bức đánh cá trên sông Nhị, đây là bến cá từ phủ Chiêu Minh nhìn ngay ra sông. Đây là tranh của một người ông rất quý, rất trọng mặc dù anh ta không làm quan trong triều đình, cũng không làm khách trong vương phủ của ông. Đấy là một người ông kính trọng về tài năng, văn võ toàn tài, đàn hay vẽ giỏi, tính khí ngang tàng. Đó là một người mà Hưng Ninh vương Trần Tung đã giới thiệu cho ông để vẽ cho ông một bức tranh cảnh sông trước cổng Chiêu Minh. Đó chính là Đỗ Vĩ. Anh ấy bây giờ ở đâu? Có còn trên thế gian này hay không? Mới đây, ông đã được Hưng Đạo Vương cho biết đã dùng Đỗ Vĩ ở bên kia chiến trường. Một dòng chữ đề bên cạnh tường nơi treo bức tranh: “Nguyên soái Thoát Hoan lấy tranh đi!”
Lê Văn Hưu và Trần Quang Khải rời khỏi phủ Chiêu Minh tiến về phía hoàng thành Thăng Long. Đây là nơi bị đốt phá nặng nề, điện Càn Nguyên cũng không còn, binh lính dọn dẹp những vật cháy còn bỏ lại, chỉ còn vài nến cung và những bậc thềm rồng. Hậu cung cũng không còn nhà ở, một vài dãy nhà trơ trụi, ngày xưa là nơi ở của các cung nữ. Trung Thành vương đã ra lệnh cho quân đội cho tu sửa lại mấy dãy còn lại, làm thêm mấy dãy nhà nữa cho thượng hoàng và quan gia ở tạm. Lê Văn Hưu nhắc ông đi thị sát đền Bạch Mã:
– Đây là nơi thờ Quốc đô Thăng Long thành hoàng đại vương. Ta phải cử hành lễ tế thật long trọng. Ngài là thành hoàng Thăng Long, thành hoàng Quốc đô là thành hoàng của đất nước.
Hai thầy trò ra cửa đông thành đi về phía phố phường mọi khi buôn bán tấp nập, đến bây giờ mới có một số dân về nhà. Trăm họ đã biết vua hoàng thành cho nên việc đầu tiên họ làm là bày hương án dọc mấy phố phường chào đón.
Nhưng tất cả những cảnh tàn phá đó không làm mất đi tinh thần chiến thắng phấn khởi. Tại đền Bạch Mã bên bờ sông Tô, binh lính của Trung Thành Vương đã dọn dẹp sạch sẽ. Ông từ giữ đền đã cho bày lại đồ thờ quét dọn trong ngoài tinh tươm, nhà tiến tế đã được trang hoàng lỗng lẫy. Hậu cung trên ban thờ thành hoàng khói hương đã nghi ngút. Trần Quang Khải hỏi Lê Văn Hưu: “Ai sẽ là chủ tế ngày mai?”
– Đây không phải là lễ thề của dònghọ như ở đền thờ trống đồng. Đây cũng không phải là lễ dâng hương ở lăng các tiên đế mà đây là lễ tệ long trọng của cả nước. Vậy thì người đứng đầu triều đình sẽ làm chủ tế. Đại Vương sẽ là người chủ tế ngày mai. Vinh dự này không thể chia sẽ cho ai được mà phải đảm đương lấy.
Trần Quang Khải gặng hỏi:
– Nếu như Quốc công Tiết chế có mặt ở Thăng Long thì ngài có thể là chủ tế ngày mai không?
– Không được. Quốc công là người chỉ huy cao nhất của quân đội. Mặc dù Đại Vương là tướng dưới quyền của ngài nhưng đại vương là tể tướng coi cả triều đình và tướng tá. Vinh dự này thuộc về Đại Vương. Tôi đã từng nói “Vinh lợi sĩ tử thị vị tứ thủ,” đây là bốn điều phải giữ trong toàn bộ cuộc đời. Nếu cái vinh, cái lợi mà đòi quá mức được hưởng là người tham đáng chê trách. Cái hổ thẹn và cái chết không biết giữ cho mình trong sạch thì sẽ là điều ô danh muôn thuở.
Trên đường về phủ Chiêu Minh, Trần Quang Khải thấy mình lòng phơi phới, ông tự thấy mình xứng đáng được hưởng niềm vinh quang làm chủ tế thành hoàng Bạch Mã ngày mai. Đêm ở phủ Chiêu Minh yên tĩnh, Trần Quang Khải làm mấy vần thơ phù vua về Thăng Long:
Đoạt sáo Chương Dương Độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cồ cựu giang sơn (1)
Chú thích:
(1)Dịch:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước cũ nghìn thu.