← Quay lại trang sách

Chương 9

Từ sườn mé phải rặng núi đá ngã ba sông Công, Trần Quốc Tảng dẫn đoàn người ngựa tùy tùng tiến về phía Bắc. Ông đã bỏ lại đằng sau chiến tuyến sôi động của đôi bên. Từ đây trở đi lên tới biên giới phía Bắc là đẩt hoạt động của dân binh áo chàm người Tày, người Nùng, người Dao, người Hmông. Dẫn đường cho ông là một dân binh người Tày rấy thông thạo chiến trường vùng này. Anh ta có thể nhận biết tất cả những dấu tích gần như bí mật vô hình ở khắp nơi. Nơi này có một cành lá héo rũ chưa bị bẻ gãy lìa ra khỏi cây báo hiệu có quân canh. Lập tức anh ta tháo khăn chít đầu ra khoa lên ba vòng, bên vệ đường liền có người bước ra làm dâu hiệu nhận biết nhau và mở đường cho đoàn ngựa tiếp tục tiến về phía trước. Một giẻ lụa khô từ mùa chiệm cài ở vệ cỏ ven đường, đó là dấu hiệu của nơi có thể kiếm lương ăn. Nếu đoàn người ngựa cần có người địa phương chỉ lối thì người hướng đạo Tày hú lên ba tiếng, lập tức có tiếng hú đáp lại và người chủ địa phương bước ra đón.

Lần này người ra đón là một cô gái sơn cước người Nùng áo chàm, vòng bạc, một lưỡi dao lá mía cài chéo ngang lưng. Cô gái sơn cước trao đổi mật hiệu với người hướng đạo Tày. Rồi cô làm hiệu cho đoàn người theo mình. Trần Quốc Tảng ra hiệu cho đoàn tùy tùng xuống ngựa dắt theo cô gái đi vào rừng sâu. Họ đi ba thôi đường, leo ba quả đồi, lội chín khúc suối, tới một bản Nùng chừng bốn mươi nóc nhà. Những căn nhà sàn xinh xắn dựng trên bờ con suối mà họ vừa lội vào. Một tiếng chó sủa báo hiệu một cuộc sống êm đềm đang diễn ra nơi đây: những căn nhà sàn ẩn sau vùng cây lá rậm rạp của những búi mai xanh tốt. Trần Quốc Tảng rất biết những cây mai, một loại tre rất thẳng, thân to tới một chét tay, rất dài, dóng rất thẳng. Đồng bào người Nùng thường hạ những cây mai xuống, băm vỡ các đốt, banh ra thành những mảnh chiếu dùng để lát sàn. Đoàn người ngựa vào sân, những con ngựa được buộc chung quanh những búi mai, ông trưởng bản mời tất cả lên nhà. Căn nhà sàn rất dài rất rộng, dài rộng còn hơn một ngôi đình ở dưới xuôi. Khi biết Trần Quốc Tảng là ai, cả bản reo cười.

– Ồ đức ông Hưng Nhượng. Ngày xưa vùng này có nhiều người làm lính trong đạo binh của ông. Nay ông đem quân qua đây, bản phải mở tiệc mừng mới được.

Ngay lập tức rượu mừng được bưng ra. Dân bản hôm nay mới săn được một con hoẵng. Thịt hoẵng xào ngày ở bếp trên nhà sàn, rượu ngô men lá rót ra bát lớn. Ông trưởng bản nói:

– Bây giờ sắp tối rồi, uống rượu xong đi ngủ. Mai sớm lại lên đường. Chúng tôi cho người dẫn đường xuyên qua núi Hồng lên triền

– Xin chăm cho đàn ngựa của chúng tôi, chúng tôi còn phải lên biên giới cũng xa.

– Xin đức ông yên tâm.

Mọi việc diễn ra như đã nói. Đàn ngựa được chăm thật tốt. Trần Quốc Tảng và đoàn tùy tùng được uống một bữa rượu men lá rất vui. Dân binh của thôn cả nam lẫn nữ bồi tiếp quân triều đình rượu đã ngà ngà say, họ vác đàn tính ra, những cây sáo tre bảy lỗ và một buổi ca nhạc tưng bừng diễn ra trong sàn. Lính đồng bằng mắt sáng lên long lanh trước các điệu múa giản dị nhưng không kém phần duyên dáng của các cô gái nữ binh sơn cước. Họ vừa có duyên, vừa thành thực, vừa bạo dạn, họ mời rượu nhau, họ nói những câu chúc tụng thực lòng, có khi lại còn hơi lộ liệu.

Hai ngày sau, Trần Quốc Tảng và đoàn tùy tùng tới biên giới. Họ đã phải vượt qua một vùng rừng núi đèo cao suối khá vất vả. Đúng như lời ông trưởng bản nói họ đã vượt qua những người đi đường chính ít nhất bốn ngày. Nhưng mệt ơi là mệt.

– Ngươi đi tìm cho ta chỗ đóng quân của tướng bản địa.

Tướng bản địa chính là một tùy tướng của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn. Hưng Vũ vương là anh cả của ông. Viên tùy tướng bản địa là bạn chiến đấu của Nguyễn Địa Lô ở đạo quân thuyền độc mộc phía Bắc. Đấy là là Phạm Vũ người Kinh nhưng lấy vợ vùng rừng sinh sống ở đây là đã trở thành người ở đây. Phạm Vũ nói:

– Thưa đức ông, cả một dải biên giới này nằm trong tay anh em chúng tôi. Tên nào đi qua lọt đây là giỏi lắm. Tháng trước quân của chúng tôi đã chặn đường đánh tan đoàn tùy tùng của Trần Kiện, hắn trúng một mũi tên vài lưng chạy thoát. Nhưng mạt tướng tin rằng hắn khó lòng sống được. Mũi tên hắn trúng là mũi tên mai rất thẳng, không có ngạnh nhưng chỉ làm một vết xước để thành ngạnh ở gần mũi. Mà mũi tên có tẩm nhựa sui trắng thì chắc chắn không thể qua được một ngày.

Củ sui trắng thì Quốc Tảng biết rồi. Đây là một cây cho nhựa rất độc. Thường người ta lấy nhựa sui ở thân cây làm nhựa độc nhúng tên thuốc. Lọai này hổ trúng cũng không sống được ba ngày, trừ phi có rễ tầm gửi hoa báo để làm thuốc giải. Còn củ sui thì độc không có thuốc giải. Người ta còn nói trúng độc củ sui đi ba bước là chân tay tê liệt, nằm đấy một ngày chờ chết.

– Các người có cho người lọt qua bên kia biên giới không?

Phạm Vũ vốn là người thông thuộc thông thổ vùng này. Dân vùng hai bên vẫn đi lại với nhau. Khi chưa có chiến tranh, họ còn lấy vợ gả chông cho nhau, thành họ thành hàng với nhau. Phạm Vũ nói:

– Tiểu tướng chưa sang nhưng người đôi bên vẫn có đi lại với nhau thường xuyên. Họ còn đi vào sâu trong đất của nhau hàng ngày đường. Tình hình ra sao đã làm tướng trình rất rõ với đức ông Hưng Hiếu.

– Ta sẽ xem các bản tường trình. Nhưng ta hỏi liệu có ai dẫn ta qua bên kia biên giới không?

– Nếu đức ông ra lệnh sẽ có người đảm nhận.

Nhưng tình hình đột nhiên trở nên khó khăn. Ở các xã ven biên giới quân canh phòng được lệnh tra soát tất cả những người không phải là dân ở bản địa. Nhiều đồi tuần phòng vào từng nhà để xem xét. Hình như có một nghiệm lệnh từ trên, cho nên ở các thôn xã, các viên quan chỉ huy các thôn các xã phải đảm bảo rằng không được có một người lạ lưu lại. Họ được thông báo rằng họ hàng đôi bên không được qua lại thăm nhau và ngủ đêm. Ba hôm liền người của Phạm Vũ phái đi đều phải quay trở lại. Những đường quen thuộc sử dụng mọi khi đều tắc nghẽn. Về sau Phạm Vũ phải tìm lên đồng bào người Dao Đỏ. Đồng bào Dao Đỏ ở trên độ cao lừng chừng núi. Họ đến với nhau bằng những con đường cũng ở lưng chừng núi. Một ông già Dao Đỏ nói với Phạm Vũ:

– Chắc là được thôi, đường chúng tôi đi chẳng bao giờ gặp lính, gặp quan. Nhưng mà phải đi chậm. Mà phải chuẩn bị lương thực ăn đường. Từ đây đi ba ngày đến đường rẽ đi Tĩnh Tây. Cách Tĩnh Tây ba dặm đường có đường xuyên xuống Trì thôn cộng ra bảy ngày. Nhưng bây giờ ông tướng đi không được. Chỉ tôi hoặc người già thì các quan nó mới không ngờ.

Trần Quốc Tảng nài mãi nhưng ông già không chịu. Ông già tỏ ra thông thuộc đường bên kia biên giới. Trần Quốc Tảng đành để ông ta đi thử để mở đường mới. Mười lăm ngày chờ tin từ bên kia biên giới, Trần Quốc Tảng như ngồi trên than hồng,

Phạm Vũ theo lệnh của Trần Quốc Tảng tiến sát xuống sông Kỳ Cùng. Nhiều toán giặc cả lũ bị thương cùng kéo nhau lếch thếch qua biên giới. Quân Nguyên quả là đạo quân thiện chiến. Chúng đã thua cùng mạt mà vẫn cảnh giới canh phòng cho hậu quân rất tốt. Cũng không quan sát được tướng giặc đã vượt biên giới chưa. Trần Quốc Nghiễn nóng nảy ép quân đánh nhiều trận chặn đường. Chúng liều chết cự lại đâm cả hai bên đều có tổn thương. Bấy giờ mới có lệnh của Trung doanh là sáng suốt: đánh giặc cùng đường đừng có dồn chúng vào đất chết. Mùa này là mùa mưa. Mưa rất to. Các suối sông no nước làm cho giặc chạy không được nhanh. Chúng nghẽ đường chống cự liều lĩnh. Trần Quốc Nghiễn nghe lời Trần Quốc Tảng khuyên, không đánh ép sát các toán tàn quân. Mười ngày liền là mười ngày vác cơm nắm đi gọi hàng binh cho ăn. Cứ như vậy tính ra còn hơn là đánh áp sát.

Ông già người Dao Đỏ mới mười ngày đã quay trở lại: nghiêm lệnh ở Trì thôn là trong năm dặm không được người lạ nào trú ngụ.

– Như vậy tôi là người gần như bản địa mà cũng không vào được Trì thôn. Nhưng nếu lần này không thì từ hướng Tĩnh Tây về mà tôi sẽ vượt vào sâu nữa rồi mới vòng xuống thì có thể vào được Trì thôn.

Như thế sẽ phải mất thêm mười ngày nữa. Trần Quốc Tảng sốt ruột, bụng như có lửa đốt nhưng không làm thế nào được, đành phải nghe lời ông già. Ông cụ người Dao Đỏ nói:

– Tôi có con gái lấy chồng ở Trì Thôn. Tôi sẽ tìm cách gặp được người mà tướng quân muốn tìm. Đây phải là một người anh hùng, tôi có phải bổn phận phải cứu người anh hùng ấy.

Mờ sáng ông già lại ra đi. Nhưng ông không đi đến nơi. Mới khỏi biên giới một ngày đường đã bị bắn chết. Thậm chí ông chưa đi đến ngã ba Tĩnh Tây. Lúc ông già bị bắn chết không một ai biết. Mãi ba ngày sai khi ông ta bị chết, tin mới về đến trong nước. Tất cả mọi tia hy vọng tắt ngấm trong lòng Trần Quốc Tảng.