← Quay lại trang sách

Chương 10

Đỗ Vĩ nằm dài tren giường ngắm cảnh rừng qua khe cửa sổ. Hôm nay trời mưa to. Cơn mưa giữa mùa hạ như trút nước. Tiếng nước ào ào rơi trên mái lá. Đỗ Vĩ nhẩm tính lại xem mình sai sót ở chỗ nào? Điều gì gây cho giặc sự nghi ngờ anh là gián điệp?

Điểm lại từ Lư Châu, khi cuộc sống của anh gắn chặt với An Nha, viên tư lệnh căn cứ hậu cần Lư Châu cho đạo quân chinh thảo của Thoát Hoan. Bắt đầu từ canh bạc ở sòng Lư Châu. Không thể có gì để lộ ra thân thế của Đỗ Vĩ mà chỉ có gây ấn tượng rất mạnh vào trong lòng của An Nha. Hai tiếng bạc bằng số thẻ đổi được của hai viên ngọc đỏ, Đỗ Vĩ đã làm cho An Nha phục sát đât. Sau đấy là tiệc rượu bên bờ sông Đại Giang. Hai người đã trở thành thân thiết. Từ đó những canh bạc, những bàn tiệc diễn ra đều đều giữa hai người, mặc dù mỗi canh bạc chỉ có hai tiếng, không bao giờ quá hai tiếng. Và những bàn tiệc diễn ra luôn luôn có đổi món. Đổi múa, đổi gió, trăng lên, hoa nở là chén rượu ném xuống sông mở đầu một bàn tiệc mới. Chẳng bao giờ có một sự gì trái ý đối với An Nha. Đỗ Vĩ chiều hết.

Sau đó là những buổi nghe hát thâu đêm trong các kĩ viện từ Lưu Châu đến An Châu. Viện Hồng Ngọc nổi tiếng là một viện chỉ khách hào hoa quý tộc mới dám đặt chân tới mà mỗi khi cặp An Nha, Đỗ Vĩ đến thăm là các mĩ nữ trong viện nháo nhác. Bắt đầu từ một tối, cô Phụng chúa Ly Ly đánh đàn tì bà. Phụng chúa vốn là người nổi tiếng tài hoa cả một triền song Đại Giang. Ngay cả nàng kĩ nữ đất Dương Châu Tuyết Hồng cũng phải phục. Ngón đàn của Ly Ly mỗi khi cất lên là làm cho tất cả người nghe nao lòng. Chẳng có thế mà Ly Ly được coi là Phụng Chúa, được tất cả chim phụng của toàn vùng đồng thanh suy tôn.

Hôm ấy, Đỗ Vĩ sau khi nghe Ly Ly đàn bản Tứ Thời thì vốc một nắm hồng ngọc tặng người đẹp. Sự kiện này làm cả kĩ viện có không khí trầm trọng nghẹt thở. Sau đó Đỗ Vĩ nói:

– Tứ thời là bốn mùa, đây là bản nhạc dành cho các tiểu thư. Còn chúng tôi và tướng quân đây phải thích một bản nhạc khác.

Sau đó Đỗ Vĩ mượn cây đàn tì bà của Ly Ly. Anh so dây và đàn bản Tây Giang Nguyệt. Tiếng đàn hào hoa của anh ca ngợi cảnh đêm trăng trên sông Tây Giang làm cả khách sảnh của kĩ viện từng bừng, ai nấy đều thấy lòng phơi phới. Anh biết hôm ấy An Nha thích lắm. Được liệt vào khách hào hoa cùng với Đỗ Vĩ chẳng phải chuyện thường.

Từ đấy Đỗ Vĩ và An Nha là khách đặc biệt của viện Hồng Ngọc. Chẳng những chỉ là của viện Hồng Ngọc mà còn tất cả các viện ca kĩ hai bên triền sông Đại Giang. Hai người đến kĩ viện nào cũng được các cô kĩ nữ hết sức chiều chuộng. Các kĩ nữ còn ghen ghét nhau, tranh nhau được chiều khách.

Đầu mùa hạ, mưa rào đầu mùa không đi chơi xa được hoặc đi chơi gặp mưa lưu lại, Đỗ Vĩ bày ra đánh cờ tướng. Cờ tướng là một môn chơi tài hoa trí tuệ nên không dung những đầu óc ngu dốt. Đỗ Vĩ biết An Nha cũng là một tay chơi cờ giỏi và An Nha đánh giá rất cao kì lực của mỗi người. An Nha có lối xuất quân từ lối đánh pháo đầu cổ điển nhưng biến hóa rất nhiều. Đỗ Vĩ đã dùng lối đánh bình phong mã làm cho đối phương không biết anh tiến quân bên phải hay bên trái. Đỗ Vĩ đã làm cho An Nha phải bái phục nhưng những ván cờ thường diễn ra chỉ chênh một chút, có thể một phần tốt nhưng giữa bàn hoặc cuối bàn, Đỗ Vĩ cố ý để sảy một chút thất thố, đủ làm mất sự chênh giữa đôi bên, dẫn đến ván cờ hóa, vui vẻ cho cả đôi bên. Anh nhớ đã có lần nói với An Nha ở bên nước Đại Việt anh biết có một cô gái trẻ rất tài hoa đánh cờ rất cao, có nước pháo song tiên đánh mạnh còn hơn xe. An Nha đã hỏi anh:

– Đấy có phải là cô gái mà anh hứa hẹn không?

– Không, tại hạ làm sao với được cô ta.

Khi trả lời câu nói đó, anh nhớ đến công chúa An Tư, nhớ đến lời khen của Trần Quốc Tảng về cô gái có sắc đẹp thiên hương quốc sắc, nhớ đên cô gái tài hoa, cây đàn độc huyền, tài thơ lừng tiếng kinh thành.

Một buổi đi chơi bằng ngựa vào sâu trong đất liền, Đỗ Vĩ và An Nha gặp một khung cảnh hoang sơ. Đây là một vùng bán sơn địa, dân cư cực kỳ thưa thớt, chỉ loáng thoáng một vài chòm nhà ở tít mãi chân núi phía xa. An đã rủ An Nha vào sâu nữa, một ý nghĩ đã nảy ra trong đầu anh: đập cho hắn một gậy chết tốt rồi thoát về nước. Nhưng sau rồi anh không làm như vậy. Thực ra có ai nghĩ anh đâu, mà tên này gan ruột của hắn có gì bày ra hết trước mặt anh rồi. Anh ở đây có lợi hơn, bảo vệ cho tên này sông càng có lợi hơn nữa. Và từ hôm ấy mở đầu những cuộc săn kì thú ở vùng bán sơn địa này. Nếu đánh bạc thì hai người tương đương; uống rượu cũng tương đương, nghe đàn hát cũng tương đương, đúng là hai người ngang vai phải lứa nhưng đến săn bắn thì khác. Đỗ Vĩ là thầy của An Nha trong săn bắn. Trước tiên là cây cung không phải ai giương lên cũng nổi; phải từ cung nhẹ bắn gần, lên cung nặng bắn xa. Rồi từ bắn gần trúng đích đến bắn xa trúng đích. Rồi từ bắn trúng đích tĩnh lại đến bắn trúng đích di động. Đỗ Vĩ dẫn dắt An Nha từ biết bắn đến đam mê, từ săn chim đến săn thú, từ bắn phục đến việc dẫn cả một đạo quân mang lưới mang cồng xua muông thú cả một cánh rừng chạy ra ruộng lầy cho hai người đón bắn.

Từ những cuộc săn bắn này địa vị của hai người dần dần có thay đổi, từ đôi bạn, An Nha dần dần coi Đỗ Vĩ là bậc thầy của mình.

Dạo này chính là lúc tâm trạng Đỗ Vĩ rất mông lung. Anh rất nhớ những hòn đảo xanh rờn ngoài biển Đông. Từ cửa Lục nhìn ra vịnh Hạ Long, những hòn đảo đẹp như vẽ. Anh nhớ đến những cảnh đẹp ven sông Đà từ thác Bờ đến ngã ba sông, cảnh sông hùng vĩ hung dữ đẹp một vẻ man dại. Anh nhớ đến những đồi thấp Phong Châu có đền Hùng và những chuyện kể lại về Sơn Tinh, Thủy Tinh thật hùng tráng và tình tứ. Anh nhớ đến Thăng Long với Hồ Tây rợp bóng chim sầm cầm mỗi độ đông về. Chính vì tâm trạng mông ung chẳng biết làm gì cho khuây khỏa, anh liền vẽ tranh.

Loạt tranh đầu tiên anh vẽ tranh sơn thủy. Anh chỉ dựa trên kí ức vẽ cảnh Tây Bắc, cảnh sông Đà, cảnh sông Mã, cảnh vùng đảo Hạ Long. Những tranh phong cảnh anh vẽ, An Nha là người khen trước tiên, kính phục hoàn toàn ngọn bút tài hoa của. Những bậc tài danh trong vùng được biết An Nha kính trọng ngòi bút Đỗ Vĩ, đã tìm đến anh, xin được xem anh vẽ tranh, được xin những chỉ giáo về việc vẽ tranh, bình phẩm. Đỗ Vĩ rất khéo léo, không tỏ ra mình là người giỏi hơn mà anh chỉ nói ý kiến của mình về việc vẽ tranh, về đánh giá một trnah đẹp. Nhưng vô hình trung anh trở thành bậc thầy của tất cả những người tài danh ấy. Khi mối quan hệ đã thân mật, Đỗ Vĩ vẽ tặng cho mỗi người một bức. Nếu là một ông già có tuổi, Đỗ Vĩ tặng tranh tùng lộc, thường là một con hay một đàn hươu dưới gốc thông gốc tùng. Nếu là một nàng kĩ nữ tài hoa xin tranh, loại này không phải là ít, họ xin tranh và yêu cầu Đỗ Vĩ kí tên vào đấy và nũng nũi đòi Đỗ Vĩ đề tặng cho mình; Đỗ Vĩ chiều tất cả và với các cô này anh tặng tranh hoa điểu vẽ một con chim sơn ca đanh hót trong bụi đỗ quyên hoặc một con chim bách thanh đậu trên bụi trúc. Anh rất nhớ bức tranh anh tặng cho An Nha. Anh biết đây là một tên ơhải thần nhà Tống, một tên Hán gian, một tên thất tiết. Đã là phản thần, là Hán gian, là thất tiết thì lại rất thích cái gì thẳng thắn, là trung thực. Anh tặng y bức tranh một cây cô tùng cheo leo bên vách núi. Dáng cây cô tùng thật hiên ngang hùng vĩ, vách núi thật hiểm trở cheo leo. An Nha thích bức tranh vô cùng, hắn yêu cầu Đỗ Vĩ kí tên và đề tặng cho y. Bức tranh ấy hắn treo tại trung doanh đại sảnh Lư Châu.

Vào lúc cuối xuân đầu hạ, chiến tranh có những biến chuyển mới, trước hết là căn cứ lương thảo chiến cụ Lư Châu có nghiêm lệnh chuẩn bị cung cấp cho mặt trận gấp nhiều lần tháng trước. Thế là chiến tranh diễn ra căng thẳng hơn. Một sự không có lựoi chắc chắn đã xảy ra với đội quân Nguyên xâm lược. Sau đó có nhiều tù binh, hàng binh Đại Việt và gia đình của họ chạy sang đất Nguyên. Họ được lệnh đến kho lương Lư Châu để nhận lương thảo cho cả đội người. Họ đến đem theo cả những tin tức về chiến tranh ở bên Đại Việt.

Những trận quân Việt đánh thắng đầu tiên đã diễn ra ở đồng bằng sông Nhị và cả ở ven biển. Ở mặt Hoan Diễn chiến sự cũng chẳng hơn gì. Đạo quân Nguyên từ Chiêm Thành tiến ra trầy trật, khó khăn, tử sĩ nhiều, thương binh cũng lắm. Một số đạo hàng binh của quân Việt lại bỏ chạy quay trở về với quân Việt. Một số vương hầu tướng lĩnh Trần đã xin nội phụ chẳng còn được quân Nguyên coi trọng. Chúng sợ họ lại quay trở về với hàng ngĩ của quân Đại Việt. Nguyên soái Thoát Hoan sau khi nghe lời khuyên của A Lý Hải Nha đã ra lệnh đưa một số gia đình vương hầu tướng tá Việt đầu hàng về đất Nguyên để cắt đường hồi hương của bọn này. Nhưng kèm vào đấy là một số tin không hay. Chẳng hạn vua Trần cho nội thị dâng công chúa An Tư cho Thoát Hoan làm vợ.

Đỗ Vĩ nghe những tin này rồi bình thản tính toán. Anh biết tin tức đưa đi, loan đi là do nó thích hợp với tâm trạng của người đưa tin. Do đó phải lọc và xác minh lại. Có hai tin đáng chú ý: các vương hầu xin hàng trong đó có Trần Kiện, thứ hai là tin công chúa An Tư được dâng cho Thoát Hoan.

Trần Kiện là một nhân vật đặc biệt: y vừa là người của ngành trưởng, vừa là ngành thứ của họ Trần. Y có thể là nhân vật được Mông Cổ chọn để quy tụ cả vương hầu của cả ngành trưởng lẫn ngành thứ.

Công chúa An Tư là em gái út của Trần Thánh Tông. Vị thế của nàng trong họ Trần rất cao. Đưa An Tư dâng cho Thoát Hoan là một việc không còn riêng của chi ngành nào. Vậy khi đưa dâng An Tư phải là một lúc tình thế cực kỳ quẫn bách của vương triều Trần.

Trong khi những suy nghĩ mông lung đến với Đỗ Vĩ thì anh nảy ra ý nghĩ che giấu sự suy nghĩ của mình bằng vẽ tranh.

Và thế là loạt tranh vẽ mĩ nữ của anh kế tiếp nhau. Trước hết à những cô ca kĩ của các viện quanh Lư Châu và hai bên bờ Đại Giang. Và khi anh vẽ thì tất cả kính trọng công việc sáng tạo của anh, không ai dám làm ồn. Và anh vừa mải miết vẽ vừa mải miết suy nghĩ về những vấn đề đang bận tâm.

Và que chuyền thứ ba của anh được gửi về nước: Trần Kiện đã bị dân binh miền núi phía Bắc bắn chết.

Như thế này ở bên nhà có thể đoán ra tên giặc đầu sỏ có khả năng làm chiêu bài tụ họp đám vương hầu đầu hàng đã bị trừng trị, xóa sổ.

Nhưng những tranh anh vẽ trong giai đoạn này được đón mừng nhiệt liệt, khen ngợi nhiệt liệt, kể từ tranh thiếu nữ vận cung trang đến những cô gái Mường, giá Thái, những cô gái mặc áo tứ thân vùng đồng bằng sông Nhị; từ những cô giá người Việt đến những cô gái người Ui Gua, những cô gái Hán, những cô gái Kim. Cô nào cô nấy mặc áo của dân tộc mình, tươi cười phô diễn tâm hồn phong phú thông minh của dân tộc mình. Cho nên tranh của Đỗ Vĩ càng nổi tiếng. Mặc dù anh không bán, có nhiều bức tranh anh tặng cho những người thân quen nhưng bây giờ người ta cứ vác vàng đến biếu anh mong được đổi lấy một bức tranh có thể là tranh treo ở đại sảnh, tranh treo phòng khách, tranh treo nhà sách… Ngôi nhà của anh ở Lư Châu treo nhiều tranh, trong đó có một bức mua anh không bán mà cũng không tặng cho ai. Đó là một bức tranh mĩ nữ người Việt, quần áo quý tộc Việt, tuổi chừng đôi tám. Người trong tranh thật đẹp, thật duyên dáng, lịch sự, thông minh nhưng anh nói với người thân quen là người thật còn duyên dáng lịch sự hơn trong tranh. Tranh vẽ mực màu trên lụa Hàng Châu theo kiểu nhất thi nhất họa, đề hai câu thơ:

Thái cô dĩ lai vô thốn thảo

Tá vấn xuân tòng hà xứ quy.

Hai câu thơ không đề là thơ của ai, nhưng tranh thì Đỗ Vĩ kí tên.

Ngôi nhà Đỗ Vĩ là nơi qua lại của nhiều người Việt đến lĩnh lương thảo ở Lư Châu. Tha hương ngộ cố nhân (ở nơi đất khách gặp người quen) thật là một chuyện rất thú vị với Đỗ Vĩ vì anh biết thêm nhiều tin tức, được nghe tiếng Việt, được nói tiếng Việt. Đỗ Vĩ và An Nha nhiều lần cũng tiếp khách bên Việt sang. Đỗ Vĩ còn mở tiệc mời An Nha và những vị khách người Việt đến dự. An Nha còn giới thiệu với họ rằng: Đỗ Vĩ là một người đã từng kết nghĩa với một hoàng thân Hãn Lều Vàng và đã được hoàng thân này tặng một que trúc Thiên Sơn có khắc biểu hiệu hoàng thân Hãn Lều Vàng.

Thế rồi đột nhiên An Nha bị gọi về triều. Khi đi rất cấp bách không kịp sửa soạn. Còn Đỗ Vĩ có lệnh phải trình diện ở hậu doanh của đạo quân chinh thảo và sau đó Đỗ Vĩ phải trình que trúc Thiên Sơn. Và ở hậu doanh người ta vẫn đối xử với Đỗ Vĩ rất trịnh trọng như đối xử với một hoàng thân Mông Cổ.

Mặc dù được đối xử tử tế nhưng Đỗ Vĩ thành tù giam lỏng của Bạt đô A Rích.

Mọi sự đi lại của Đỗ Vĩ ở chung quanh nơi ở được tự do thoải mái. A Rích chỉ nói cho Đỗ Vĩ rõ anh không được đi đâu khỏi nơi ở năm mươi dặm. Mọi việc buôn bán của Đỗ Vĩ, A Rích không can thiệp vào, thậm chí còn giúp được gì thì giúp.Trong nhà của Đỗ Vĩ vẫn trang hoàng bình thường, không thay đổi. Những tranh anh vẽ vẫn treo đầy trên tường, những bậc tài danh hâm mộ tài anh vẫn thường đem lễ vật đến thăm, mua tranh hoặc đổi bằng giá cao. Cho đến một hôm có những người mới từ đẩt Việt đến. Họ là nhưng người nhà của những vương hầu nội phủ Mông Cổ. Đấy là theo cách nói của Mông Cổ, còn theo tâm tư của Đỗ Vĩ họ đều là những phản thần, những bầy tôi cũ của nước Việt bỏ theo giặc vì sợ chết, vì danh, vì lợi. Đỗ Vĩ bảo thầm trong dạ: “Bọn bay rồi sẽ vì hổ thẹn mà chết thôi.” Tuy vậy anh cũng vẫn tiếp họ như những lần trước khi An Nha chưa bị đổi đi. Thậm chí anh còn mở tiệc mời họ.

Trong một bữa tiệc anh tiếp mấy tả hữu của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc.

Trần Ích Tắc là một nhân vật mà Đỗ Vĩ biết tiếng và kính trọng khi còn ở trong nước, một vị vương học rộng tài cao, văn võ song toàn, tạp nghệ cực giỏi, cờ cao vẽ đẹp, đàn hay, luyện ngựa nức tiếng kinh thành. Hồi ở Thăng Long đã có lần Đỗ Vĩ được xem một trận đánh phết mà Trần Ích Tắc là tướng chỉ huy một đội. Đỗ Vĩ rất phục cách cưỡi ngựa, cách đánh phết hào hoa của Ích Tắc. Đỗ Vĩ còn biết Ích Tắc có mở một trướng riêng dạy học. Nhà vị vương này là nơi lui tới của những bậc danh sĩ Thăng Long. Cho nên mấy người tả hữu hầu cận của Trần Ích Tắc đến nơi chắc phải giỏi lắm. Hai người hầu cận của Trần Ích Tắc hôm ấy là một người là vễ sĩ, một người là thư nhi. Tướng võ là Lê Huy, người này ở trong nước, Đỗ Vĩ được biết qua một người bạn hát xẩm quen thuộc, anh nhớ lúc bấy giờ người bạn hát xẩm khen Lê Huy là người thẳng thắn, có lòng. Thư nhi là Phùng Thất, anh này vốn là bạn của Trương Hán Siêu trong phủ của Hưng Đạo Vương. Đây là một nhân vật tài năng, đọc rộng, thông minh và tự kiêu ngầm rất cáo.

Bữa tiệc có cả ca kĩ đến hát giúp vui. A Rích không dự, viên bạt đo này không có thói quen dự những bữa tiệc với Đỗ Vĩ như An Nha. Bữa tiệc diễn ra sôi nổi. Những người Việt xa xứ gặp nhau, họ có những kỉ niệm chung về sông Nhị, về hồ Tây, về đất Ái Châu, Hoan châu và về kinh đô Thăng Long. Tất nhiên không thể tránh được việc làm thơ trên chiếu rượu. Mặc dù trong bụng không thích nhưng Đỗ Vĩ bề ngoài vẫn tham gia nhiệt tình. Ngoài làm thơ xướng họa với nhau, Đỗ Vĩ còn hạ cây đàn bầu treo trên tường xuống và anh vừa gảy đàn bầu vừa hát một bài hát xẩm quen thuộc vùng ven biển. Lê Huy nói: “Tiệc vui tôi xin góp vui. Tôi là tướng võ không làm thơ được, tôi xin đi một bài quyền để góp phần mình vào.” Và Lê Huy đi bài quyền ba mười hai thế của dòng võ họ Trần. Đỗ Vĩ đã từng được xem bài võ này do Trần Quốc Tảng múa cho anh coi. Bài võ có ba mươi sáu thế, vậy Lê Huy còn thiếu bốn thế. Đỗ Vĩ đứng dậy nói: “Võ phải múa có đôi, bây giờ tôi xin góp vui. Không múa quyền mà hai chúng tôi múa bài kiếm Vạn Kiếp. Không dùng kiếm mà dùng hai lá quạt để thay.” Đỗ Vĩ lấy ra một đôi quạt Hới anh đem từ nhà sang trước đây, là những chiếc quạt thước các cụ già vùng sông Luộc thường dùng, nắng thì xòe ra chư đầu, nóng thì phe phẩy quạt cho mát, khi cần thiếy trở ngược cán để đánh chó. Đỗ Vĩ và Lê Huy múa bài kiếm Vạn Kiếp bằng đối quạt như thế. Lê Huy cũng là một tay giỏi kiếm, hai người xoắn lấy nhau, hai cây quạt bay lượn tung hoành, rõ ràng là những đường kiếm tinh thâm tuyệt vời. Lê Huy nói: “Túc hạ thức là một tay kiếm giỏi.” Mấy người cần chén đi trong đại sảnh vừa uống vừa xem tranh. Họ bình luận những tranh của Đỗ Vĩ và cả những tranh của các bậc tài danh từ Yên Kinh trở xuống đã đem đến đổi cho Đỗ Vĩ. Đến một bức châm, Phùng Thất trầm ngâm đọc. Văn nhân này lẩm bẩm nói một mình:

Phong đá tòng quân nguyệt triều đình

Tâm kì phong cảnh thê thanh

Cá trung tư vị vô nhân thức

Phò giữ sơn tăng thưởng đáo minh

(Thơ Lục Du)

– Đây chả phải là một bài châm. Mà đây là một bài thơ. Một bài thơ nhuốm thi vị của đạo Thiền.

Đỗ Vĩ cười nói:

– Đúng thế, tôi đã tạm dịch:

Cửa thông gió đập mạnh trăng lồng

Một vẻ trong êm cảnh hẹn lòng

Thú vị ở đây ai kẻ biết

Thâu đêm vui thưởng mặc sư ông.

– Lê Huy tôi kính phục bài thơ này. Tôi không phải là người tu thiền nhưng tôi biết những cảnh chùa đẹp như thế này. Ngày còn ở trong nước, tôi đã theo đức Chiêu Quốc đi vãn cảnh núi Yên Tử. Chùa nơi đây nằm trên cao lưng chừng núi. Các sư ông đêm ngủ, cửa sổ mở, ánh trăng thanh, sư ông nằm chung với khói mây. Đây chính là cảnh mấy câu thơ kia.

Đỗ Vĩ cười:

– Đúng vậy, có đi tu cũng là để đạt sự thanh tĩnh của tâm hồn. Cứ gì phải có cà sa, có chuông, có mõ mới là thiền. Ngủ ở gốc tùng Yên Tử không tu cũng đạt thiền.

Mấy người đi xem những tranh gần đây Đỗ Vĩ vẽ. Anh vẽ cảnh thôn quê xơ xác tiêu điều ở mé nam sông Đại Giang. Lê Huy cười nói: “Cảnh trong tranh như thơ Đỗ Phủ.” Y liếc nhìn Đỗ Vĩ và bắt gặp ánh mắt của Đỗ Vĩ nhìn lại.

– Chiến tranh là thế. Bên đánh, bên bị đánh, dân đều khổ cả. Đây là chưa nói đến những gia đình cha anh ra trận, da ngựa bọc thây, một đi không trở lại. Chiến tranh là thế.

Đến loạt tranh mĩ nữ, loạt này thông thường Đỗ Vĩ vẽ các cô kĩ nữ và tặng các kĩ nữ, chỉ còn mười bức mà anh thích anh giữ lại, có cả tranh vẽ thiếu nữ Mông Cổ, thiếu nữ Ui Gua, thiếu nữ Mèo, thiếu nữ Mán bên nước Đại Việt, cả những cô thôn nữ đồng bằng sông Nhị áo mớ ba mớ bảy như sắp đi hội chèo và ở một chỗ trang trọng là bức tranh nhất thi nhất họa vẽ một mĩ nữ người Việt mặc cung trang và có hai câu thơ đề bên cạnh. Lê Huy lẩm nhẩm đọc:

Thái cổ dĩ lai vô thổn thảo

Tá vần xuân tòng hà xứ quy (1).

– Thơ sao thê thảm vậy. Ai làm hai câu thơ này? – Lê Huy vừa hỏi vừa ngước nhìn Đỗ Vĩ. Anh không đáp lại ngay chăm chú sửa lại bức tranh cho ngay ngắn rồi chậm rãi đáp:

– Đây là một vần thơ của nhà thơ Nam Tống đã qua đời lâu rồi.

Chú thích:

(1) Bài Minh Phi khúc thơ Lục Du.

Dịch nghĩa:

Cô lai không hề này được ngọn cỏ

Thì hỏi xuân còn từ đâu về.