← Quay lại trang sách

Chương 11

Đoàn thuyền đưa Trần Nhật Duật và vợ từ cửa Hàm Tử về Thăng Long. Sau khi tham gia vào các trận đánh quét sạch quân của Toa Đô. Trần Nhật Duật phải chỉ huy việc tuần tiễu ở mé hạ lưu sông Nhị, bắt tàn binh. Thực tế không phải là bắt mà che chở cho chúng khỏi bị dân chúng và dân binh giết. Việc làm này cũng chẳng phải dễ dàng gì vì bọn chúng là những kẻ mới đây còn gây bao tội ác với nhân dân ta hai bên bờ sông Nhị. Cho nên khi bắt được chúng, chẳng những chúng bị ăn đòn nặng mà không chừng mất mạng như chơi. Những hành vi đánh đập, thậm chí còn hơn nữa đối với tù binh không bị dân các làng phản đối, có khi còn tán thành hùa vào. Cho nên can được dân làng không xuống tay với tù binh là một việc cực kỳ khó, phải nài nỉ, phải xin nhủ lòng thương, thậm chí Trần Nhật Duật phải nhừo uy vũ của mình để che chở cho một tên tù binh nào đấy mà dân làng biết rất rõ tội ác của y. Vợ chồng Trần Nhật Duật ngược sông Nhị đổ bộ lên một bến nhỏ mé nam Thăng Long. Vợ chồng ông và đoàn tùy tùng lên ngựa, cờ quạt mở đường, đường về kinh là đường chiến thắng.

Con Bão Đêm nay đã thành một con ngựa chiến đẹp tuyệt vời. Cô Mơ cưỡi một con ngựa trắng muốt duyên dáng như chủ của nó. Con Bão Đêm thì nhún nhẩy theo tiếng trống dẫn lộ. Nó là một con ngự chiến nhưng thanh mảnh, bốn vó viền lông trắng làm cho bộ mã lông đen của nó càng thêm sắc sảo. Nó là một con ngựa chiến nhưng đẹp quý tộc như một cô công chúa trẻ trung hào hoa ra trận.

Đoàn tùy tùng đưa Trần Nhật Duật qua cửa ô Kẻ Mơ. Đường này về Thăng Long sẽ qua phủ Chiêu Văn. Cả phủ Chiêu Quốc cũng ở ngay bên cạnh.

Phủ Chiêu Văn đã bị đố trụi cả đại sảnh lẫn liên đình, chẳng còn gì. Bao nhiêu tranh đẹp, bao nhiêu đồ gỗ quý giá đều bị quân giặc lấy đi hết. Chỉ còn lại ngoài vườn những cây hoa quý mà Trần Nhật Duật đã sưu tầm hàng chục năm nay sum suê ngát hương. Vợ chồng Trần Nhật Duật nhìn hồ hoa sen hoa rất nhiều. Kể cả sen trắng lẫn sen hồng. Riêng ngôi đình xây giữa gò giữa hồ bị đốt trụi. Chỉ còn ại cây cầu nhỏ bằng gỗ từ bờ bắc qua gò là còn. Vợ chồng Trần Nhật Duật qua cầu sang gò. Ông nói với vợ: “Ta chẳng tiếc gì, chỉ tiếc bức tranh Lưu Linh say ngủ.”

Mơ đã được xem bức tranh này. Đây là một bức trnah tài hoa vẽ một ông tiên say rượu, thơ hay nổi tiếng, nhất là khi thờ làm trong chiếu rượu la đà.

Bức tranh vẽ ông ta đang gối đầu lên gáo rượu ngủ say. Trong cơn say chắc đã làm mấy vần thơ trác tuyệt cho nên ông ta cười khi ngủ.

Vương phủ Chiêu Quốc thì còn nguyên vì một thời gian dài trong chiến tranh Chiêu Quốc vương Ích Tắc ở lại ngay phủ của mình. Quân Nguyên được nghiêm lệnh không được đụng đến nhà riêng của Chiêu Quốc vương Ích Tắc. Tùy tùng mời vợ chồng Trần Nhật Duật sang ở tạm bên phủ Chiêu Quốc nhưng ông không chịu. Ông nói:

– Vợ chồng ta sẽ ở tạm một nơi nào đó trong Thăng Long. Còn phủ riêng của ta sẽ làm lại tại nơi này.

Ông không nói đến cái ý nằm sâu trong tâm thức của ông: liên đình này, hồ sen này là nơi lưu giữ hồn ông. Thăng Long nhiều cảnh đẹp nhưng hồ sen này mới là nơi nghỉ chân của lòng ông.

Ông hạ lệnh cho đoàn tùy tùng vào Thăng Long. Giảng Võ đường đã bị giặc đốt trụi. Rải rác trên bãi trống rộng lớn, những cây giáo cán cháy một nửa, những lươi đao mẻ, những cây cung mất dây. Giấy tờ, sách, vở vất ngổn ngang. Ông cúi nhặt một cuốn. Đây là bộ võ kinh Tôn Tử, có thể đây là sách học của các tướng. Bên ngoài bãi trống là một cái chợ họp tạm của dân chúng phía nam Thăng Long. Người các làng chung quanh mang cỏ gà vịt ra bán cho dân thị thành. Mấy hôm nay, dân Thăng Long đi di tản ra các làng chung quanh tránh giặc đã trở về nhiều. Người mua kẻ bán ở trong chợ hồn nhiên, vui vẻ, họ không mặc cả, không nói thách. Giá bao nhiêu nói bấy nhiêu, nói bao nhiêu, mua bấy nhiêu. Hình như chỉ mấy tháng chiến tranh, chạy giặc, tránh giặc, đánh giặc làm cho người ta thuần tính lại, đối với nhau còn hơn anh em ruột. Vợ chồng Trần Nhật Duật bỏ ngựa đi vào chợ. Dân chúng nhận ra ông hồ hởi chào hỏi. Vợ chồng ông hồ hởi đáp lễ. Ở giữa chợ dưới một gốc đa có một đám đông đang xúm quanh. Có tiếng đàn bầu và một giọng hát cất lên:

Mưa thì rào mưa thì rào…

Ruộng đồng sau cơn mưa hạn hán đến cơn mưa thì rào…

Nhà nông được mưa trời cho quý giá…

Chứ mưa thì rào, mưa thì rào…

Trần Nhật Duật ngắm nhìn cha con ông xẩm ngờ ngợ. Ông xẩm có vẻ mặt quen quen, nhưng nhìn cô gái chừng mười ba tuổi con của ông xẩm thì ông sực nhớ ra ngay ông đã gặp cha con của ông xẩm này trong một lần tuần thú ngoài vùng đảo vịnh Hạ Long. Lần ấy Đỗ Vĩ đã dẫn ông sang đảo Cái đảo Cột nghe hát xẩm và được chính ông già này hát cho nghe. Ông lại gần hỏi ông lão:

– Lão trượng về Thăng Long từ bao giờ?

Ông già tươi nét mặt cười hề hề:

– Tôi mới từ phía Bắc về đây hôm qua. Tôi từ bên kia biên giới về. Chả là vì chiến tranh là chuyện ngoại cuộc đối với những người hát xẩm rong. Tôi về đây là muốn tìm đức ông Quốc Tảng.

– Vì sao vậy? Tôi có thể thay đức ông Hưng Nhượng được không?

– Được, nhưng ở đây không tiện. Hẹn đức ông đến tối tôi sẽ gặp đức ông ở đền Đồng Cô. Chuyện quan trọng có liên quan tới một người bạn của đức ông và đức ông Hưng Nhượng.

Rời người hát xẩm ở ngôi chợ tạm, vợ chồng Trần Nhật Duật đi về phía cửa đông thành Thăng Long. Có một đoàn người ngựa đi dọc sông Nhị từ mé nam Thăng Long tiến về. Viên tướng đi đầu nhỏ thó, lá cờ lệnh của Hành trung doanh báo hiệu hỏa tốc phe phẩy. Trần Nhật Duật nhận ra đây là Hoàng Đỗ, tướng tùy tùng ở Hành trung doanh. Vì đang bận lệnh hỏa tốc Hoàng Đỗ chỉ kịp giơ hai tay lên vái vợ chồng Trần Nhật Duật miệng hô lớn:

– Lát nữa khi xong việc quân, mạt tướng xin đến hầu tướng quân.

Trần Nhật Duật cũng hô lớn:

– Hẹn lát nữa. Ta cũng trên đường vào cung đây.

Đoàn tùy tùng của Trần Nhật Duật dạt sang bên đường nhường đường tiến cho đội quân của Hoàng Đỗ.

Ở cửa đông thành, viên tướng giữ cửa nhận ra Trần Nhật Duật, cung kính vái chào chúc phúc:

– Kính chào đức ông, tôi xin thông báo ngay để đức ông tiến triều.

Vợ chồng Trần Nhật Duật đi vào cung. Phần lớn các cung điện đều bị đốt cháy rụi hoặc cháy một nửa, khắp nơi là cảnh hoang tàn. Đối với cô Mơ đây là lần đầu tiên được thấy hoang cung nên cảm xúc không dữ dội còn với Trần Nhật Duật thì khác. Sinh trưởng ở đây, được phong vương ở đây, được biết hoàng cung Thăng Long thời huy hoàng, Trần Nhật Duật không thể tưởng tượng nổi điện Càn Nguyên nay chỉ là một bãi trống dù đã dọn sạch hết những gì cháy dở dang nhưng nền gạch lát trơ ra vết lửa, trông thật hoang tàn. Trần Nhật Duật bồi hồi đi giữa cảnh hoang tàn ấy, lòng dội lên niềm căm thù. Trần Thánh Tông đang ngồi trong gian thảo điện của cung cũ Thánh Tử. Chính cung này cũng bị đốt cháy rụi, lính Thần Sách đã dựng tạm ngôi thảo điện vách nứa mái tranh này để thượng hoàng làm việc tạm. Nhưng không khí anh em gặp nhau thật hồ hởi vui mừng. Bao nhiêu kỷ niệm hào hùng lẫn cay đăng hai anh em trải qua làm cho họ thân thiết biết bao nhiêu. Thượng hoàng bảo:

– Em Sáu ngày mai em đi với ta làm lễ tế thành hoàng quốc đô. Em Ba là chủ tế, em là người Tây xưởng.

Vợ chồng Mơ quỳ xuống làm lễ:

– Vợ chồng em tạ ơn thượng hoàng đã tứ hôn cho. Nay em đưa vợ em ra mắt và xin phép cho nhà em dâng lễ gia tiên.

Thánh Tông cười cho phép vợ chồng Trần Nhật Duật đứng dậy. Ông ngắm cô em dâu và hài lòng:

– Ta đã hỏi ông học sĩ Đinh Củng Viên về việc của em. Ta đã chọn mĩ tự để phong tước cho em. Cũng sáng mai vợ chồng em sẽ làm lễ tiến triều. Tờ chiếu lập phi và ban tước sẽ mang mĩ tự à Trinh Túc.

Khi nghe thấy tước ban Trinh Túc, vợ chồng Trần Nhật Duật lại quỳ xuống tạ ơn:

– Tạ ơn thượng hoàng đã ban thưởng. Đây là mệnh ban phong đặc biệt xưa nay chưa từng có. Vợ chồng em xin đội ơn anh cả.

Trần Thánh Tông cười khà khà:

– Ta từng nghĩ đến việc này từ lâu rồi. Em dâu ta trong thời kỳ chinh chiến vừa qua đã chứng tỏ mình xứng đáng với hiệu ban phong ấy. Kìa nhìn xem, em dâu ta xinh đẹp đường bệ làm sao, xứng đáng là vương phi của một thân vương triều ta, một triều chiến thắng lừng lẫy. Em Sáu yên tâm, vương phi của em xứng đáng với danh hiệu Trinh Túc.

Sau đó Trần Thánh Tông sai ban đôn cho vợ chồng Trần Nhật Duật ngồi, sai tả hữu mang bánh trái và trà thơm cho họ ăn cùng mình. Từ đây chẳng còn không khí cung đình, mà là không khí gia đình đầm ấm. Trần Thánh Tông bảo em:

– Vừa qua Quốc công Tiết chế cho tướng hỏa tốc mang về một tráp về cho ta.

Trần Nhật Duật hỏi:

– Mới tới đây em thấy tùy tướng Hoàng Đỗ cầm cờ hỏa tốc mang vào cung. Chắc là chuyện đó.

– Đúng thế, ta mới đọc thử một hai lá. Đây là một tráp toàn thư giao dịch giữa hành doanh của quân địch với vương hầu Đại Việt. Ta đọc một hai lá, toàn thư xin hàng. Lòng ta rung động. Có thể những người đưa thư xin hàng này nay còn nghẽn lại ở trong nước. Chứng cớ đầu hàng này là chứng cớ phản bội. Nếu trừng trị thì biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu gia đình phải thụ hình, ta còn đắn đo chưa biết ra sao. Ý em thế nào?

– Đây là một việc lớn mà nah cả hỏi đột ngột, em chưa suy nghĩ thấu đáo nên không dám trả lời.

Sáng hôm sau, vào cuối giờ Tí, triều đình làm lễ tế thành haòng quốc đô tại đền Bạch Mã. Ông chủ tế là Chiêu Minh vương. Lễ tế có sự hiện diện của hai vua. Bài văn tế được làm trịnh trọng, vì vừa qua Thăng Long bị giặc chiếm, nay quân ta đã giải phóng kinh thành, phải rước đức thành hoàng về an vị tại đền cho nên phải làm lại văn tế. Bài văn tế soạn lại do Lê Văn Hưu khởi thảo và đức ông Chiêu Minh duyệt lại. Vị Đông xướng là Trung Thành vương, vị vương trấn thủ Thăng Long.Vị Tây xướng là Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Đông xướng, Tây xướng đều là những vị thế rất quan trọng, có thể gọi là trịnh trọng nữa. Nhưng Trần Nhật Duật không thích làm nhiệm vụ Tây xướng bởi vì Tây xướng chuyên môn chỉ xướng mỗi lệnh bài trong khi Đông xướng toàn xướng lệnh hưng. Toàn bộ triều thần có mặt lúc bấy giờ tại kinh thành Thăng Long đều đứng vây xung quanh. Hai vua đứng lên đầu. Trần Nhân Tông biết lễ này là rất quan trọng. Lễ tế thành hoàng quốc đô sau khi giải phóng Thăng Long có nghĩa về mặt tâm linh từ nay quốc đô lại có chủ.

Trong bài văn tế, Lê Văn Hưu có nhắc lại toàn bộ sự kính trọng của nhân dân kinh thành và cả nước với thân Tô Lịch và nêu gương thần cho nhân dân Thăng Long và nhân dân cả nước noi theo là lòng hiếu đễ đối với cha mẹ tổ tông, là lòng nhân từ với đồng loại, là sự cần mẫn lao động làm ra lúa gạo và vật phẩm cho đời. Thành hoàng Tô Lịch đã bao đời nay nêu gương tốt đức độ một con người mẫu mực của mảnh đất Thăng Long. Trần Quang Khải đọc to bản văn tế. Ông cho dâng ba tuần rượu, dâng ba tuần hương. Ông cho tất cả quan viên trong lễ tế dâng năm lạy lên đức thành hoàng. Bài văn tế được hóa rất trịnh trọng. Pháo được nổ lên ba tràng. Không khí trang trọng đến nghẹt thở. Trung Thành vương được lệnh phò hai vua về cung. Dân Thăng Long về lúc này đã đông, họ bày hương án hai bên vệ đường chúc mừng hai vua. Cờ quạt và trống chiêng đầy nghẹt đường từ đền Bạch Mã về cửa Đông thành. Các vương hầu và các quan đi trong đám rước, tâm sự mỗi người mỗi khác bởi vì có một tin đồn từ đâu ra chẳng biết rằng hôm qua đã có một tướng tùy sai của đức ông Hưng Đạo dân vua một số văn thư mới bắt được ở mặt trận phía Đông…

Vì cuộc họp này là cuộc họp quan trong cho nên Trần Thánh Tông đích thân đứng ra trông nom. Mặc dù điện Càn Nguyên đã bị đốt, cuộc triều hội diễn ra trong thảo điện vẫn hết sức trang trọng. Các vương hầu và các quan mặc triều phục. Các vệ ngự lâm cắp kiếm tuốt trần đứng canh từ cửa Đông vào. Trần Thánh Tông ra lệnh cho nội thị ban cho tất cả mọi người ba tuần rượu.

Nhưng tất cả chưa yên lòng, kể cả hai vua. Đêm hômqua Trần Thánh Tông đã thức đọc tất cả số văn thư thu được. Cũng chỉ có vài mươi bức nhưng có liên quan đến vài chục gia đình các vương hầu, tướng tá của cả chi trưởng lẫn chi thứ. Trần Thánh Tông cực kì giận dữ. Ngài không thể nào tưởng tượng được những con người như thế lại có thể hàng giặc, mặc dù những lời lẽ trong thư viết là xin được “nội phụ”, có nghĩa là xin hàng dưới danh nghĩa là được thờ cúng tổ tiên ở quê nhà. Họ xin hứa nếu Đại Hãn cho gọi, họ sẽ đem quân theo tòng chinh dù đi đánh ở bất kỳ nơi nào. Có kẻ hứa sẽ chỉ đường cho quân Nguyên đánh bắt hai vua, có kẻ hứa chỉ đường đánh chặn Hưng Đạo Vương và Chiêu Minh vương, có kẻ hứa sẽ tận trung để là cho đất Giao Chỉ thành đất trung thành với Đại Hãn. Và gần như tất cả đều cin là người đươc hương khói cho dòng họ Trần của Đại Việt. Nhưng tất cả những lá thư đó đều đả động tới chi trưởng, chi thứ của dòng họ Trần, họ hứa sẽ dùng huyết thống, ảnh hưởng để thuyết phục người nọ người kia sẽ theo họ đi theo con đường “nội phủ”. Chính ý kiến này làm Trần Thánh Tông suy nghĩ. Ông cảm thấy nếu nó bị lộ ra, họ Trần sẽ nghiêng ngả trước nhân dân cả nước. Uy tín của họ Trần sẽ bị chao đảo. Thượng hoàng Thánh Tông suy nghĩ rất lung. Như việc đưa công chúa An Tư làm vợ của Thoát Hoan chẳng hạn. Đó là lúc tình hình rất gay go. Giặc đã vào thành Thăng Long. Quân ta bị đánh từ phía bắc cuống, từ Chiêm Thành ra. Các đạo quan thiện chiến dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuân phải lẩn tránh vào rừng sâu, những đạo quân của Trần Quang Khải cũng dạt lên thượng lộ của châu Hoan. Họ phải dựa vào núi rừng để tồn tại. Đấy là lúc có ý kiến dâng công chúa An Tư cho nguyên soái giặc. Chung quanh thượng hoàng lúc bấy giờ không có mấy ý kiến phản đối và mặc dù trong lòng ngượng và hổ thẹn, thượng hoàng cũng phải bằng lòng. Cho nên có thể nói khi thế nước chông chênh không thể ai nói mạnh được. Cái tráp văn thư này nếu giao cho bộ Hinh và Phủ Tông chính truy cứu tội trạng phản quốc của vương hầu và tướng tá muốn xin nội phụ thì thật là tổn hại đến uy tín của họ Trần trong dân gian.

Bấy giờ cái tráp ấy nó kia. Nó được đặt trên văn án giữa triều đường. Ông học sĩ Đinh Củng Viên theo lệnh của thượng hoàng nói rõ cho mọi người biết nó đựng cái gì. Và ông cũng nói rõ là hiện này chưa một ai được đọc một chút gì trong đó. Và ông theo lệnh của thượng hoàng hỏi mọi người có ý kiến ra sao thì tâu cho rõ.

Tất cả mọi người đều xin được trình bày ý kiến. Trước hết họ hỏi phép nước có dung tha vương hầu xin hàng hay không? Sau đó họ hỏi gia đình có bị liên quan không?

Ý kiến của Chiêu Minh vương là không phân biệt vương hầu hay thứ dân, ai hàng là có tội. Thứ hai người chủ gia đình có tội thì toàn gia đình cũng có tội theo. Đứng về mặt luật pháp, Chiêu Minh vương là người là chịu trách nhiệm của triều đình. Ông không thể nói khác được. Sau khi nghe Chiêu Minh vương nói ý kiến, vương hầu và triều đình ngơ ngác. Chỉ nhìn qua nét mặt cũng đủ biết tâm trạng hoang mang và thất vọng.

Buổi sáng trước khi ra đền Bạch Mã làm lễ tế thành hoàng, thượng hoàng Thánh Tông cũng đã hỏi ý vua Nhân Tông. Ông vua trẻ này ngẫm nghĩ cũng khá lâu rồi hỏi lại cha:

– Tâu phụ hoàng, phải chăng trong thời gian sắp tới, con sẽ là người chịu trách nhiệm chính?

– Ngay từ bây giờ con vẫn là người chịu trách nhiệm chính. Chẳng qua việc quan trọng ta phải tạm nhúng tay vào đó thôi.

– Con là người chịu trách nhiệm chính, con cũng phải đối phó với tình hình của toàn dòng họ của triều đình và đất nước.

– Dĩ nhiên là vậy.

– Nếu vậy con không muốn phải đối phó với tình trạng hỗn loạn trong dòng họ và triều đình.

– Ý con là không muốn đem ra công khai mơ thư từ kia?

– Thưa phụ vương, đúng vậy.

Bây giờ đây, Thánh Tông nhìn tất cả các vương hầu và các quan. Thượng hoàng Thánh Tông nghiêm trang phán:

– Vừa qua đất nước ta chịu nhiều chao đảo. Giờ đây đất nước đã thanh bình, ta không muốn có sự đảo lộn trong lòng mọi người. Ta truyền đem cái tráp này nổi lửa thiêu tàn ngay trước mặt mọi người. Quan Trấn điện tướng quân, ngươi sai lính đem cái tráp này đốt ngay trước mặt ta và mọi người.

Lệnh của vua được Trấn Điện tướng quân thi hành ngay. Người trước tiên thấy nhẹ nhõm là vua Nhân Tông, ngài không muốn trong thời gian sắp tới phải gánh chịu mớ hỗn loạn bỏ lại sau chiến tranh. Tất nhiên sau đó cả triều đình thở phào làm cho người yên tâm vui vẻ nhất là Thượng hoàng Thánh Tông.

Trong buổi chầu chiều, vua Nhân Tông diện kiến với bà phu nhân của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Đây là bà thím mới của vua. Ông cho vời bà phu nhân đến gần ngai vàng. Ông hỏi han, ban vàng, ban lụa và chủ yếu là ban tặng tước phong cho cô Mơ. Phủ Tông chính sau khi được ý kiến của thượng hoàng đã làm chiếu phong tước phu nhân Trịnh Túc cho cô Mơ. Vợ chồng Trần Nhật Duật nhận chiếu ban phong tước, lạy tạ hai vua. Vua Nhân Tông sai cung Quan Triều làm lại phủ cho Chiêu Văn Vương. Trần Nhật Duật lại lạy ta cảm ơn. Nhưng sau đó ông xin hai vua cho ông được hỏa tốc lên biên giới:

– Tối hôm qua đã có tin về những mũi quân tìm cách cứu tướng quân Đỗ Vĩ. Mới đây đã biết được tin vì sao ông già Dao đỏ vì sao bị bắn chết. Tối hôm qua ông già hát xẩm ở chợ tạm Giảng Võ đã dẫn một ông già hát xẩm tới. Ông này mới ở bên kia biên giới về cho biết ông già Dao đỏ bị hạ sát vì thù riêng giữa hai dòng họ chứ không có liên quan gì đến quân đội và chính quyền. Vậy con đường trên rẻo cao vẫn có thể dùng được. Anh cả cho phép em lên ngay biên giới. Còn nước còn tát, biết đâu ta vẫn cứu được tướng quân Đỗ Vĩ.

– Vậy em không nhớ là mình mới lấy vợ à? Một mình em đi hay cả vợ cũng đi theo?

– Việc chinh chiến là trọng, một mình em đi thôi. Còn vợ em sẽ về quê ngoại thu xếp cho bà bác lên kinh.

– Đó là bà nhũ mẫu của em phải không?

– Dạ phải.

– Đón được bà lên là phải giữ bà ở lại Thăng Long – thượng hoàng chợt cười – có khi bà phải chăm trẻ con nữa đấy.