← Quay lại trang sách

Chương 12

Một tin đồn trong giới phấn son ven bờ Đại Giang làm cho nhiều người kinh ngạc. Phụng chúa Ly Ly vào đầu tháng Năm đột nhiên có một quyết định có thể gọi là quái đản: nàng ca kĩ nổi tiếng tuyên bố bỏ cầm, bỏ ca, hoàn lương đi lấy chồng. Cô lấy một người trẻ hơn cô bốn tuổi không biết hát, biết đàn, chữ đủ biết viết, chứ không đủ làm thơ nhưng lại khôi ngô kì vĩ, múa kiếm rất giỏi. Đó là võ sĩ Giao Chỉ nổi tiếng Lê Huy, gia tướng của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Đỗ Vĩ nghe tin chỉ cười nhạt nghĩ thầm: ca kĩ mà lấy phản thần thì đúng quá đi rồi, có gì mà lạ.

Nhưng một buổi sáng tháng Năm gần đến rằm đột nhiên Đỗ Vĩ có khách. Khách đến ngựa xe dập dìu. Nam cưỡi ngựa, ngựa đẹp. Nữ ngồi kiệu, kiệu phủ nệm gấm. Đó là vợ chồng Lê Huy và phụng chúa Ly Ly.

Đỗ Vĩ nhớ mãi buổi sáng hôm gặp mặt hai vợ chồng Ly Ly. Đây là một cuộc gặp mặt thân mật giữa những người bạn tài hoa với nhau, riêng Lê Huy thì có thể kém một tí về tài hoa nhưng mặt thành thật thì lại đáng chú ý. Như thường lệ Đỗ Vĩ bày tiệc thết đãi vợ chồng Ly Ly. Anh chúc mừng vợ chồng trẻ. Khi tiệc đã đến la đà, Ly Ly chợt nhìn Đỗ Vĩ và nói:

– Chúng tôi lấy nhau chính là vì tiên sinh đấy.

– Tại sao lại vì tôi?

Lần này thì Lê Huy lên tiếng:

– Trước đây mười hôm tôi được Chiêu Quốc vương sai đi tìm Phùng Thất. Ông này đột nhiên thất tung, không ai biết đi đâu. Tôi được sai đi tìm cùng tìm câu âu. Trước hết là các cao lâu tửu điếm, hỏi dò các tửu bảo nhung không thu được cái gì. Sau nữa là hỏi các sòng bạc, cho tiền mấy hồ lì cũng không tin gì đáng lưu tâm. Cuối cùng tìm tại các kỹ viện, ở viện Hồng Ngọc họ chỉ cho tôi phụng chúa. Tôi hỏi phụng chúa thì phụng chúa chỉ cho tôi đến tìm tướng trấn thủ An Nha. Nhưng lại dặn là nói cho An Nha rõ tôi là người được phụng chúa sai đến.

Đỗ Vĩ ngạc nhiện nhìn phụng chúa. Ly Ly cất tiếng thánh thót nói:

– Thiếp được An Nha cho biết một tin quan trọng cho nên hôm nay phải đến đây. Phùng Thất đã nhận ra thơ đề trong tranh mĩ nữ là thơ của ai. Ông ta muốn báo tin này cho quan tướng triều đình Mông Cổ. Ông ta biết An Nha vốn là tiến sĩ cũ triều Tống, thơ văn sành sỏi chắc sẽ giúp được ông ta. Vậy muốn tìn tung tích của Phùng Thất thì phải đến tướng quân An Nha. Nhưng để không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra thì phải nói người đến là do tôi sai đến. Quả thật tìm được tung tích Phùng Thất và cũng may cho Lê Huy là An Nha cũng biết nể mặt tôi phần nào mà tha mạng sống cho Lê Huy.

– Như vậy An Nha đã xử lí ra sao với Phùng Thất?

Ly Ly cười khanh khách tiếng cười giòn tan như tiếng ngọc reo trên đĩa sứ:

– Sao tiên sinh không hỏi sao An Nha biết gì về nguyên cớ dò la của Phùng Thất?

Đỗ Vĩ cùng cười, cố trấn tĩnh và hỏi:

– Vậy vì nguyên cớ gì?

– Trước khi đi gặp An Nha, Phùng Thất đã đến nghe hát ở viện Hồng Ngọc và đã hở cho chị em chúng tôi biết tác giả thơ đề trong tranh là thơ của ai. Không phải đợi đến khi Phùng Thất nói thì tôi mới biết đó là thơ của Lục Du. Tôi đã thuộc nhiều bài hát do Lục tiên sinh làm ra. Tranh mĩ nữ vẽ Vương Chiêu Quân, thơ đề cũng nói về việc cống Hồ Vương Chiêu Quân. Như vậy, về tác giả, vẽ tranh và chọn thơ đề, hẳn là đã rõ phải không tiên sinh?

Đỗ Vĩ tái mặt, anh không ngờ một sơ suất lớn như thế đã xảy ra, khôn ngờ anh có thể coi thướng kẻ địch như thế? Bức tranh treo hàng tháng trời, nhiều người đã được coi qua. Đỗ Vĩ nghĩ rất nhanh: vậy đôi này đến đây hôm nay có chuyện gì?

Lê Huy nói ngay:

– Tiên sinh không phải băn khoăn, chúng tôi hôm nay đến đây là bạn. Hôm ấy sự việc nó xảy như thế này. Tôi đến nơi đóng quân mới của bạt đô An Nha, ông tướng này tôi đã biết không có tài võ. Nếu có chuyện gì xảy ra tôi có thể bỏ chạy ngay. Toàn lính canh chắc không đủ bản lĩnh để giữ tôi lại. Tôi nói với ông ấy là lệnh trên giao cho tôi đi tìm Phùng Thất. Tôi nói liều rằng Phùng Thất có bảo tôi sẽ tìm đế bạt đô An Nha để hỏi một chuyện bí mật. Sau khi nghe tôi nói xong, An Nha chỉ cười mà khen tôi biết tìm bạn. Rồi cho bày tiệc rượu thết tôi. Không ngờ tôi bị trúng phải thuốc mê ngay trong bàn tiệc ấy.

Phụng chúa Ly Ly cười lớn:

– Sau khi Lê Huy đi khỏi thì tôi cũng lên kiệu đến đó ngay. Lúc ấy bàn tiệc còn nguyên, Lê Huy đã trúng thuốc mê và bị trói gô lại. Tôi phải cam đoan với An Nha rằng Lê Huy là bạn thì An Nha mới chịu tha Lê Huy, bằng không Lê Huy sẽ phải chịu số phận như Phùng Thất.

Lê Huy tiếp lời:

– Sau đó Ly Ly có hỏi An Nha: “Tôi muốn biết tướng quân có phải là bạn của Đỗ Vĩ không?” thì An Nha hỏi lại: “Nếu không là bạn thì sao, nếu là bạn thì sao? ”

Đỗ Vĩ im lặng suy nghĩ. Phụng chúa Ly Ly cười khanh khách, nàng kĩ nữ nổi tiếng sắc tài Lư Châu nói:

– Tiên sinh Đỗ Vĩ bạt đô An Nha không phải tay vừa, ông ta nói với tôi: “Phụng chúa nên nhớ tôi đã từng đỗ tiến sĩ, làm sao tôi không biết đấy là thơ của Lục Du. Lục Phóng Ông người Đất Việt Châu là một nhà thơ nổi tiếng.” Tôi thấy ông ta nói như vậy liền hỏi lại: “Vậy bây giờ ông có thể trả lời câu là bạn hoặc không phải là bạn cả Đỗ Vĩ tiên sinh.” Ông ta cũng cười: “Là bạn.”

Đỗ Vĩ hỏi phụng chúa Ly Ly:

– Thế còn phụng chúa thì sao?

– Là bạn. Tôi cũng là bạn của Đỗ Vĩ.

Tiếp đó, Ly Ly kể cho Đỗ Vĩ nghe câu chuyện về Phùng Thất. Phùng Thất đã đến tìm gặp An Nha để nói rằng Đỗ Vĩ là người của Đại Việt qua, bằng chứng về tranh và thơ của ông ta. An Nha thất kinh, nhưng làm thinh, một mặt dặn Phùng Thất bí mật này không được lộ ra sẽ có thưởng, một mặt thường tiền cho y. một mặt bày tiệc thết đãi rồi rủ đi chơi chung quanh khu đóng quân, dẫn đến kĩ viện cho nghe hát, dẫn đến sòng bạc cho đánh bạc, dẫn đến vùng bán sơn địa cho đi săn.

Và cũng chính trong một lần đi săn, lựa lúc Phùng Thất đứng trên mỏm vực, An Nha đã bắn một phát tên trúng họng y. Phùng Thất ngã nhào xuống vực.

Nghe Ly Ly kể, Đỗ Vĩ đã đoán sự tình. Anh cũng biết cả khu vực ấy bởi anh và An Nha đã từng đi săn ở đó. Nó quả là một nơi lý tưởng cho việc thủ tiêu - khi bạn nhân rơi xuống vực, hàng đàn chó sói đói mồi sẽ làm nốt việc phi tang dấu vết.

Đỗ Vĩ hỏi:

– Còn Lê Huy?

Nhưng câu này thì Lê Huy trả lời:

– Một là giết đi bịt miệng.

– Hai là, - Ly Ly cướp lời - kết bạn. Tôi chọn kết bạn. Con người của tiên sinh đã cảm hóa được tôi, đã cảm hóa được An Nha, vậy thì cũng có thể cảm hóa được Lê Huy.

– Trước hết tôi xin cảm tạ tình bạn của hai vị. Mặc dù An Nha hiện không có mặt, tôi cũng xin cảm tạ lòng chân thành của An Nha, mặc dù xét cho cùng tôi chưa xứng đáng được sự đối xử như thế. Hai là hai bức tranh có đề thơ, tôi phải đốt ngay...

Phụng Chúa Ly Ly cướp lời:

– Không được! Bức châm, An Nha xin bằng được. Tôi đã hứa là phải đem đến cho An Nha. Còn bức Chiêu Quân cõng Hổ là của tôi. Anh không cho tôi, không được.

Phụng Chúa quay sang bảo Lê Huy:

– Bây giờ chúng ta thu xếp đi về. Ahh thu hai bức trang. Một bức châm của ông An Nha. Còn một bức nhất thi nhất họa vẽ mĩ nữ của tôi.

Lê Huy mau chóng thu hai bức tranh cuộn lại cẩn thận, lấy lụa trắng bọc cả hai bức lại. Lê Huy dad chuẩn bị lụa trắng, chứng tỏ việc lấy đi hai bức tranh cho kín đáo đã được bàn từ trước. Chỗ trống ở hai bức tranh lấy đi được thay vào bằng hai bức khác vẽ hoa điều. Đỗ Vĩ thấy vậy cứ để yên, anh tò mò nhìn Lê Huy và Phụng Chúa. Nàng danh kĩ bảo Lê Huy:

– Bây giờ anh đến chỗ lấy ngựa, đóng yên cương cẩn thận, rồi đem đến đây.

Lê Huy đi ngay. Nhà của Đỗ Vĩ không có gia đình. Anh ăn cơm hoặc mời tiệc đều do cao lâu Anh Hùng quán coi sóc. Còn các việc khác trong nhà, anh làm lấy tất. Việc buôn bán ngoài bến lúc nào cần anh sẽ ra, người làm không được phép vào đây. Bây giờ anh tò mò nhìn Phụng Chúa. Cô ta cũng nhìn lại. Một đôi mắt to, đen láy, mênh mang ngó sững. Một cái mũi dương tị, trái mật treo. Một đôi mooi không tô son mà đỏ. Hôm nay cô ta bới tóc kiểu phương Bắc của người Nữ Chân. Đỗ Vĩ nhận ra cô ta không phải là người Hán. Anh mỉm cười hỏi:

– Cô làm thế là vì cái gì?

– Làm thế là làm thế nào? Vì là vì cái gì?

Cô cười giòn khanh khách, lúc này hai hàm răng trắng nõn như ngô nếp non mới lộ ra làm sáng rực cả bộ mặt. Đỗ Vĩ đã quen Ly Ly từ lâu nhưng chỉ đến hôm nay anh mới nhận thấy cô gái này có lúc xinh tươi hạnh phúc như thế.

– Cô cho tôi đường đột hỏi một câu có được không?

– Sao hôm nay anh khách khí thế? Anh cứ tự nhiên hỏi đi.

– Cô không phải là người Hán. Cũng không phải người gốc Lưỡng Quảng. Cô cũng không phải người ven sông Đại Giang. Vậy cô là người ở đâu.

– Tiên sinh tinh mắt gớm. Tôi là dõng dõi một nòi thiểu số ở nước Đại Lý.

– Đấy là một nước rất đẹp, tôi đã từng được qua. Núi cao trùng trùng điệp điệp. Sông dài hiểm trở. Đấy là xứ của hoa đào.

– Tiên sinh biết rộng thật. Tôi là người Đại Lý nhưng không được trông thấy nước tôi. Nó ra sao tôi cũng không biết.

– Sao cơ?

– Tôi là người Padi, người Đại Lý mất nước cách đây bốn mươi năm. Bố mẹ tôi bỏ Đại Lý chạy vào nước Tống. Trong khi lưu lạc ở đây đẻ ra tôi, vẻ mặt là người Padi, hiểu biết là người Hán.

– Còn tâm hồn?

– Tâm hồn thì bây giờ lại là tâm hồn Padi. Một tâm hồn nhỏ nhoi của người dân thiểu số nước Đại Lý. Khi tôi lớn lên thì nhà Tống cũng mất nước. Quyền hành cả Trung Quốc rộng lớn về ray đại hãn Hốt Tất Liệt. Nhưng tôi không đau nỗi đau của người Tống mất nước mà tôi đau nỗi đau của người Đại Lý lưu lạc nên khi tôi thấy bài thơ nói về Vương Chiêu Quân cống Hồ tôi lại nghĩ đến thân phận của chị em chúng tôi, những cô gái bên bờ sông Kim Sa.

– Cô nhận ra bài thơ ấy từ khi nào?

– Ngay từ làn đầu tiên gặp tiên sinh tôi đã linh cảm thấy tôi đã gặp một người đồng điệu. Nhưng sau tôi nghĩ lại, việc mất nước lưu lạc đã đẩy tôi xuống vũng bùn, tôi không còn có thể tương xứng với người như tiên sinh.

– Sao tiểu thư lại nói vậy. Chiến tranh và cuộc đời đã xô đẩy cô đến bức đó chứ có phải cô muốn vậy đâu. Tôi còn không xứng với cô. Tôi chẳng qua chỉ là người lưu lạc giang hồ sống nay biết mai. Có gì là cao quý?

– Không phải, tiên sinh đừng nói vậy, tiên sinh không giấu được tôi đâu. Ngay lần gặp đầu tiên tôi nhận ra tiên sinh ngay. Tiên sinh là người coi mọi thứ trên đời đều là những cái bên ngoài thân. Thân ngoại chi vật, mọi sự đều bị tiên sinh coi thường. Vậy thì cái tiên sinh coi trọng là cái gì, có phải là vì đất nước của mình. Có phải là vì tiên sinh chiến đấu cho Tổ Quốc mình? Điều đó rõ như ban ngày. Trong tay của tiên sinh, bạt đô An Nha chỉ như một con bài, như một cục bột mà tiên sinh nặn ra sao cũng được.

– Đâu có, An Nha ngày xưa cũng đã từng đỗ tiến sĩ cùng khoa với Văn Thiên Tường.

– Mà Văn Thiên Tường đỗ trạng nguyên chứ ngay An Nha có đỗ trạng nguyên cũng vận thế thôi. Tôi cứ nghĩ không biết tại sao An Nha lại có thể bỏ lơ đi chuyện vẽ tranh của tiên sinh. Hay hắn coi tiên sinh là bạn của hắn?

– Nếu là bạn thật hắn có phản tôi không?

– Có phản, vẫn phản. Có điều tôi nghĩ tiên sinh đã làm cho y nghĩ lại cái thân khuyển mã của y. Y cũng nghĩ là không có ai tìm được ra. Nhưng khi Phùng Thất đến nói về hai bức tranh thì An Nha buộc phải tìm kế thoát thân, gọn gàng nhất là để cho sự việc không xảy ra trắng đen rõ ràng. Tốt nhất là thủ tiêu Phùng Thất. Y đã dẫn Phùng Thất đi săn. Cả hai người đều là văn nhân nhưng riêng có An Nha là văn nhân bắn cung giỏi. Và tiên sinh là thầy dạy của An Nha về bắn cung. Và về nhiều cái khác nữa. Minh sự thì dẫn đến cao đồ.

– Có phải điểm hắn bắn Phùng Thất là mỏm núi vùng bán sơn địa Quy Tĩnh.

– Đúng đó.

– Vậy thì chỗ đó tôi đã dẫn An Nha đến một lần.

– Và lần ấy tiên sinh đã có ý định dùng một mũi tên.

– Cô nương đừng nói quá. An Nha với Phùng Thất phải dùng cung tên. Còn tôi với An Nha đâu phải dùng đến cung tên. Chỉ bằng cái tay này không võ khí cũng đủ. Nhưng tôi đã không làm vậy. Tôi nhận ra con người này còn một điểm lương tri le lói, tôi đã không hành động.

– Và tiên sinh đã làm đúng. An Nha đã hứa với tôi sẽ đem bức châm của tiên sinh về Qúy Châu quê y, chọn một ngôi chùa, sống quãng đời cuối cùng của một vị chân tu không màng tới bịu đời.

– Thế còn tiểu thư?

– Bầy chim phụng đã tôn tôi làm chúa. Tôi đã nhìn thấy biết bao văn nhân tướng võ, người giàu, người tài quỳ mọp dưới chân tôi. Nhưng khi tôi gặp tiên sinh tôi cảm thấy tôi mới là người phải quỳ mọp dưới chân tiên sinh. Nhưng sau đó tôi lại nghĩ cuộc đời đã xô tôi xuống bùn cứ để tiên sinh trắng trong như cây bạch ngọc. An Nha đã yên phận, tôi cũng dứt một nỗi lòng, nhưng còn việc tiên sinh đang dang dở mà có người biết, đó là Lê Huy. Để bịt miệng anh ra không gì bằng vợ anh ta bịt miệng. Cho nên tôi tình nguyện làm vợ anh ta. Tuần trăng sau chúng tôi lấy nhau. Tôi đã chuộc thân ra khỏi kỹ viện bằng số vàng và đá đỏ mà tiên sinh đã tặng cho tôi. Hai chúng tôi sau lễ cưới sẽ lên đường về Đại Lý. Chúng tôi sẽ về bên dòng Kim Sa, làm một ngôi nhà sàn, sinh con đẻ cái ở đấy, như những người Padi lưu lạc về lại quê nhà. Chắc Lê Huy cũng yên lòng ở với tôi.

Đôi mắt to đen mênh mông lại chăm chú nhìn Đỗ Vĩ. Cái múi trái mật treo, đôi môi không tô son má đỏ, hé cười hai hàm răng hạt bắp non trắng nõn. Phụng Chúa Ly Ly quỳ xuống làm đại lễ làm cho Đỗ Vĩ lúng túng cũng quỳ xuống theo.

Có tiếng vó ngựa ngoài cửa. Lê Huy đã đem ngựa về đến nơi. Đỗ Vĩ tiến hai người ra cửa, vái chào thân mật:

– Lễ cưới của hai người tôi sẽ có mặt.