← Quay lại trang sách

Chương 13

Trong thảo điện mới dựng ở đất cũ cung Quan Triều, vua Nhân Tông thiết một triều nhỏ với các quan có bài nhập nội như ông học sĩ Đinh Củng Viên, ông học sĩ Đặng Ma La… Ngoài ra nhà vua còn cho vời thêm ông phó quản viện Thái học Lê Văn Hưu.

Đến hôm nay, nhà vua thấy rất rõ cuộc chiến có những vấn đề phải làm cho minh bạch. Và sau cuộc chiến những vấn đề khác sẽ xuất hiện và làm cho chúng được minh bạch không phải dễ. Sáng hôm qua việc thượng hoàng Thánh Tông cho đốt tráp thư tín thu được ở mặt trận phía đông là một minh chứng. Thượng hoàng đã đồng ý với chủ đích của nhà vua để dẹp đi những xáo động lớn có thể xảy ra trong tông tộc nhà Trần. Việc đốt cái tráp này có lợi cho họ Trần nhiều hơn. Nhân dân vẫn còn nguyên vẹn lòng tin cậy vào họ Trần.

Sáng nay nhà vua cho gọi mấy ông học sĩ để bàn một việc mà nhà vua băn khoăn hai hôm nay. Trước mắt là chuẩnbị cho việc phong thưởng các tướng có công lớn trong cuộc chiến. Ông học sĩ Đinh Củng Viên tâu vua:

– Tâu quan gia, việc thưởng tiền, việc tiến chức đã có lệ của triều đình. Công to phong hiệu úy tướng quân, tiền thưởng mười lạng vàng: công nhỏ phong thiếu hiệu tướng quân, thưởng năm lạng vàng. Ghi công lao cho dân nước đã có các thẻ phù: đại công thưởng phù hổ, bậc dưới thưởng phù rùa, bậc dưới nữa thưởng phù ngựa.

Ông học Đặng Ma La nói:

– Những người góp lương không góp quân công thì phong trung lang tướng.

Ông sử học Lê Văn Hưu nhắc khéo:

– Tâu bệ hạ phải nhớ đến những người có công lao cực lớn. Chẳng những công lớn mà còn là những liệt sĩ hi sinh vì nước.

Nhân Tông hỏi:

– Ông học sĩ thử nói xem thí như ai?

Lê Văn Hưu xuất ban trang trọng quỳ xuống tâu:

– Như ông già bãi Màn Trò chẳng hạn. Như cụ Uẩn, cựu chiến binh từ Nguyên Phong, là giáo luyện trong đạo thủy quân Vạn Kiếp, liệt sĩ trong đại thắng Chương Dương… Hai người này ban tiền ban chức, họ cũng không còn để mà nhận nữa.

Nhân Tông nói:

– Ông học sĩ đứng dậy, ta cho phép bình thân. Sáng nay ta gọi các ông đến để bàn những điều ta băn khoăn. Ta cho phép các ông không phải giữ lễ.

Các ông học sĩ vái tạ ơn chia ngồi ở hai bên. Vua Nhân Tông sai đem các đĩa bánh và trà cho các ông ăn điểm tâm cùng với vua. Không khí vua tôi thân mật hẳn lên. Đặng Ma La nói:

– Hôm qua thượng hoàng cho đốt cái tráp tín thư bắt được ở chiến trường phía đông. Lúc bãi triều theo chân các vương hầu ra khỏi cung, tôi thấy không khí ai cũng vui vẻ, hồ hởi. Chẳng lẽ bấy nhiêu vị đều dính cả đến cái tráp tín thư đó chăng?

Đinh Củng Viên nói:

– Không có đâu. Tôi thấy nét mặt rồng của thượng hoàng còn vui hơn. Chắc là ngài thấy đốt nó đi có lợi hơn bày tỏ trắng đen của nó ra.

Lê Văn Hưu nói:

– Trước hết lòng tin của dân vào triều Trần vào tông tộc họ Trần, các vương hầu họ Trần không bị suy suyển. Điều đó tốt cho việc giữ vững ngai vàng.

Vua Nhân Tông bảo:

– Nhưng các khanhh mới chỉ nói việc thưởng tiền thưởng chức mà không thấy nói đến việc ban tước phong ấp?

Cả ba học sĩ đều tâu:

– Tâu bệ hạ, việc này là việc của nội bộ họ Trần, Chúng thần đâu dám nói vào.

Nhân Tông gạt đi:

– Các khanh cứ nói, lời nói của các khanh ta sẽ lưu ý và lựa chọn chứ đâu phải ta theo tất cả hoặc không theo tất cả.

– Thưa bệ hạ, phong ấp thưởng tước là phần thưởng vua ban cho chư hầu. Bệ hạ ban cho Hoàng thân quốc thích chứ những người thường đâu có được. Học là được tiền, được chức, ban thưởng đúng công là được.

– Vậy như tướng quân Hoàng Đỗ, là một người công lớn vang lừng từ Đông chí Tây, lại có công cứu giá cho ta mà cũng không ban phong sao?

– Việc này chúng thần không dám nói vì không phải là việc của chúng thần.

– Không phải việc của các khanh nhưng các khanh cứ nói.

Lê Văn Hưu nói:

– Cứ như thần nghĩ thì không ban phong vì như thế không đúng với lệ thân phong để lại từ thời nhà Chu.

– Ta biết rồi, Chu Vũ vương phân phong cho các con làm vua ở các quốc gia nhỏ xung quanh vương quốc của Ngài. Đó là lệ của triều nhà Chu bên Tàu, dính gì đến ta.

Đặng Ma La tâu:

– Thưa có dính. Triều Trần là một vương triều. Việc phân phong chỉ dành cho các thân vương. Thí dụ Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang đã được phân phong đất Hoan Châu. Hưng Hiếu vương Quốc Nghiễn đã được ban phong đất Lạng Châu… Như vậy việc ban phong cho ai, phủ Tông Chính sẽ đề đạt lên thượng hoàng và quan gia.

– Vậy giả thử nếu bậc quốc sĩ Đỗ Vĩ trở về được. Các ông biết công việc của quốc sĩ Đỗ Vĩ chứ? Nếu quốc sĩ Đỗ Vĩ trở về được thì có ban phong không?

– Thần xin bạo gan tâu. Quốc sĩ Đỗ Vĩ làm việc gì bây giờ những bậc thân cận trong triều đều đã rõ. Người như Kinh Kha nhập Tần. Nhưng rõ ràng việc của người đã có nhiều kết quả lớn. Công lớn không gì sành tày. Nhưng nếu muốn được ban phong cho thuận lễ, trước tiên bệ hạ cho đổi họ của quốc sĩ về họ Trần. Sau đó sẽ có ấp phong và tước phong. Chẳng hạn tướng quân Trần Bình Trọng. Đây là người thuộc họ Lê dòng dõi của Lê Đại Hành hoàng đế. Ông này đã lập được công lớn, đã được đổi họ, tước vương Bảo Nghĩa của ông là tước vương cho hoàng thân Trần Bình Trọng.

Nhân Tông trầm ngâm nghĩ:

– Như vậy tướng quân Hoàng Đỗ có đại công chưa nên phong bây giờ chăng?

– Bẩm thế mới đúng lẽ.

– Lẽ gì mà kì cục thế?

– Tâu bệ hạ Hoàng Đỗ còn trẻ, còn ban phong nữa. Miễn là bệ hà đừng bỏ quên công của Hoàng Đỗ,

– Công của Hoàng Đỗ thì ta không quên đâu. Nhưng bây giờ hẵng cứ thưởng cho Đỗ đã.

Nhân Tông ra lệnh triệu Hoàng Đỗ vào triều.

Một trống canh sau, lính ngự lâm đưa Hoàng Đỗ tiến triều. Hoàng Đỗ làm lễ ngũ bái trước Nhân Tông rồi quay sang vái các ông hàn lâm. Vua Nhân Tông phán:

– Hôm nay, tướng quân sẽ lên đường về hành doanh phía Đông. Trên đường đi ta cho phép tướng quân tạt về thăm quê ở Xuân Đình. Ở đấy tướng quân còn ai là người thân không?

– Tâu bệ hạ, thần mồ côi mẹ từ nhỏ. Chan thần thì tử trận ở Màn Trò tháng Ba năm nay, hiện thần vẫn mang đại tang. Người thân thích của thần không còn ai ở Xuân Đình nữa.

– Ta ban cho khanh chức hiệu úy vệ Thần Sách. Ta thưởng cho khanh một trăm lạng vàng. Người về hành doanh phía đông trình với quốc công Hưng Đạo rằng cái tráp tín thư cực kỳ quan trọng đã được giải quyết như thế nào. Sau đó, ngươi trở về đây chỉ huy vệ Thần Sách hầu cận bên cạnh ta. Đạo quân cũ của ngươi sẽ được ta ban thưởng một trăm lạng bạc, người sẽ cầm theo cho anh em và đây là một lạng vàng chi cho cuộc rượu từ biệt của người anh em.

Hoàng Đỗ rập đầu lạy. Chú ta không thể tưởng tượng được mình lại được trọng thưởng như thế.

Hoàng Đỗ từ tạ ra khỏi hoàng cung. Anh thấy lính Thần Sách đã tụ tập ở đấy khá đông. Họ đều là người của đô tả. Họ có phiên trực hôm qua, như vậy còn ban hôm nữa họ mới lại có phiên mới. Tin tức trong cung cũng rất nhanh, ai nấy đều biết chỉ trong một tuần trăng nữa vệ Thần Sách sẽ có tướng chỉ huy mới – đó là chính là ông tướng thấp nhỏ này. Đó là người đã lập công lớn trong việc đưa một mệnh lệnh vào cho Chiêu Minh vương Trần Quang Khải ở Nghệ An và cũng chính là người đã dẫn đường cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đánh trận phục kích lẫy lừng ở cửa Hàm Tử. Còn trước đây ông tướng thấp nhỏ này là người chỉ huy đội viễn thám tại hành trung doanh của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Cho nên lính vệ tả của quân Thần Sách dùng luôn ba ngày nghỉ phiên của mình để theo phò ông tướng chỉ huy tương lai sang mặt đông.

Đường từ Thăng Long xuống bãi lầy Màn Trò có hai đường đi trên hai bờ sông của con sông Nhị. Hoàng Đỗ chọn tả ngạn. Tả ngạn sông Nhị suốt nửa năm qua là vùng đất tranh chấp giữa quân đội đôi bên. Dâu tích chiến tranh còn đầy râyc trong ruộng đồng làng mạc. Những vết tích cháy dở dang, đáng chú ý là những chùa chiền đền miếu đình làng bị đốt cháy. Bãi cháy dở to rộng, những cây cột cháy dở để lại những khúc to hơn vòng tay ôm. Hoàng Đỗ chọn những đường tả ngạn chính là muốn chứng kiến kĩ lưỡng vụ tổn hại vùng quê chôn rau cắt rốn của mình sau chiến tranh. Mấy hôm vừa qua trời mưa rất to, nước mưa rất to, nước mưa xóa đi biết bao dấu tích chiến tranh và cũng thức đẩy nảy sinh biết bao mầm sống mới. Dọc đường đi ven bờ đê sông Nhị là không biết bao nhiêu đầm sen, đầm súng hoa nở đỏ rực ngát hương, lá sen chưa vào thu chưa bị xé rách, là tròn mơn mởn, cuống vươn hẳn lên trên mặt nước bằng cây đòn cán. Hoàng Đỗ cùng đội quân nhỏ về tới làng Xuân Đỉnh lúc trưa. Đình làng Xuân Đỉnh không bị đốt nhưng ván ốp và bán lát đã được người dân Xuân Đỉnh vận chuyển đi cất giấu trong bãi lầy Màn Trò cùng với đồ thờ tự từ đầu hè. Trong đình bô lão trong làng đang tụ họp để bàn bạc những công việc trước mắt của làng, của xã. Dân làng cũng đang vận chuuyện về đồ thờ tự và ván ốp, ván lát. Việc ai nấy làm, các cụ bàn việc thờ tự, việc lớn của xã. Cỏn việc của trai đinh nam nữ là vận chuyển đồ thờ tự về ốp lại ván tường, lát lại ván sàn. Một số trai đinh được giao việc cọ rửa lại bài vị thành hoàng. Khi Hoàng Đỗ vào sân, đám lính theo anh rất có trật tự. Hoàng Đỗ mặc áo chiến bằng vóc hồng, một thanh đơn kiếm giắt ngang lưng, đi đứng đàng hoàng. Anh vòng hai tay vái các cụ:

– Xin kính chào các cụ, con trên đường về hành trung doanh qua quê cha xin vào lạy các cụ.

Các cụ hoan hỉ đáp lễ. Cụ tiên chỉ nói:

– Chúng tôi xin kính chào tướng quân. May mắn quá, chúng tôi đang muốn được gặp tướng quân. Có một việc cần hỏi mà có lẽ chỉ tướng quân mới trả lời được cho chúng tôi,

– Thưa các cụ việc gì vậy, các cụ có điều gì cần hỏi. Hoàng Đỗ này xin hết sức đáp ứng.

– Thôi được, thôi được, mời tướng quân hay vào trong đình ngồi chơi, hôm nay tướng quân và anh em tùy tùng phải được dân Xuân Đỉnh mời uống rượu mừng mùa cá bắt đầu thắng lợi. Tướng quân là người ở đây chắc còn nhớ rõ những kỷ niệm mừng vui mùa cá chép ghép đôi. Mùa này người ta không đánh cá mà rước cá từ đầm ra sông và từ sông về đầm. Hội hè cả một vùng rộng lớn quanh đây tưng bừng cho đến giữa thu.

Các cụ mời Hoàng Đỗ và đòan tùy tùng vào trong đình chia ngồi thành tám chiếu. Hoàng Đỗ băn khoăn nói:

– Các cụ có điều gì muốn hỏi xin nói cho biết.

Các cụ gạt đi cười xòa:

– Bây giờ mời tướng quân và anh em uống một tuần trà ướp sen mới hái để giải nhiệt đã. Chuyện đâu có đó.

Hoàng Đỗ cũng cười xòa:

– Vậy thì tôi cũng có ý kiến muốn nói ngay đỡ phải lưu lại trong lòng áy náy sợ quên. Đó là tôi mới được quan gia ban thưởng một trăm lạng vàng. Tôi xin biếu xã năm mươi lạng để mua đồ thờ tự và sửa lại đình miếu cho thật khang trang. Đây là lòng thành của tôi, xin các cụ nhận cho.

Cụ tiên chỉ đột nhiên trang trọng:

– Tướng quân đã nói rõ ý định của mình với quê cha đất tổ. Tướng quân đã dùng tiền thưởng của quan gia biếu xã sửa đình sửa miếu. Xã vui lòng nhận. Những xã phải nói luôn ý định hiện nay của bô lão toàn xã vừa rồi ngập ngừng chưa nói cùng tướng quân. Xuân Đỉnh ta tôn đức Chử Đồng Tử làm thành hoàng từ hai trăm năm nay. Nhưng từ hôm nay xã ta sẽ thờ ba vị thành hoàng. Vị thứ nhất vẫn là đức Chử Đồng Tử. Vị thứ hai mới được tôn là Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng. Vị thứ ba đồng tử với Bảo Nghĩa vương cùng trong một ngày là một vị họ Hoàng nhưng dân làng không nhớ được tên của người. Lúc sinh thời người chỉ được gọi là ông già Màn Trò hoặc ông trưởng Sấu vì chuỗi răng cá sấu luôn luôn đeo trên cổ. Nay xin hỏi tướng quân, húy của cụ là gì? Xin cho dân làng biết để đề vào bài vị thành hoàng thứ ba của làng.

Hoàng Đỗ chảy nước mắt. Anh không biết trả lời các cụ thế nào. Ngay cả chính anh cũng không biết tên húy của bố mình là gì. Từ xưa anh chỉ xưng với bố là cha và con. Mọi người gọi ông là ông già Sấu hoặc giả là ông già Màn Trò. Có lẽ cứ gọi là ông già Màn Trò cho thích hợp với người và sông nước cửa Hàm Tử.

Mặc dù lễ mùa cá không dùng cá chép những người ta dùng cá trắm, cá quả để mở tiệc. Linh Thần Sách được uống một bữa rượu cau với chả cá nướng bằng cá lăng tuyệt vời ở vùng bãi lầy Màn Trò. Họ nói tướng quân của họ là Thần cá vùng bãi lầy. Ông bố của tướng quân của họ được dân bãi lầy tôn làm thành hoàng.

Đấy là ông Thần cá sấu. Họ tên không ai biết. Người ta nói đấy là ông thần của vùng bãi lầy Màn Trò. Họ cũng không ngờ rằng chính con ông cũng không biết tên thật của ông là gì. Người ta gọi ông Tư vì chắc ông là con thứ tư. Nhưng trong cuộc đời chìm nổi ông Tư vẫn là ông Tư, ông vẫn sống cuộc đời lăn lội trong vùng đầm lầy Màn Trò. Ông có một bầy cá chăn nuôi kỳ quặc, đấy là một đàn cá sấu con to bằng cái thuyền, con nhỏ như cái cán dao. Mặc dù ông có nhiều cá sấu như vậy, những con sâu không phải do chăn nuôi mà ra nhưng thực ra ông muốn bắt lúc nào cũng được. Tuy thế ông rất ít bắt sấu trừ lúc bất đắc dĩ, cho nên lúc nào ông cũng nghèo rớt mồng tơi. Ông lập gia đình bao giờ không ai biết. Ông có con bao giờ người ta cũng chẳng hay. Năm con ông lên ba thì ông góa vợ. Năm con ông lên chín ông không thể nuôi nổi nó. Ông đem bán con là nô. Không phải vì ông quá thiếu tiền. Mà vì ông mong cho nó như hạt mưa được rơi vào bờ xôi ruộng mật. Thế mà nó lại không rơi vào những thửa ruộng phì nhiêu. Nó lại rơi vào một đơn vị quân đội trong chiến tranh. Chiến tranh dun dủi nó vào một đơn bị quân đội thiện chiến. Và cái này không phải là lỗi tại chiến tranh mà nó phải chiến đấu. Nó đã chiến đấu, đã lập công và số phận công bằng đã trả lại cho nó vị trí làm người, một người có chiến công sáng giá. Trời cao đã không phụ công lao của nó, cho nó một đất đứng vinh quang trong xã hội, cho nó ánh hào quang của chiến thắng, của chiến công.

Trên đường trở về hành trung doanh, Hoàng Đỗ và đơn vị nhỏ của anh phi ngựa như bay. Đây là một vùng đất vừa qua chiến tranh. Mặt trận lan đi rất nhanh, toán giặc bỏ chạy không phải là một đơn vị lẻ mà là cả một đạo đại quân cả kị, cả thủy, cả bộ, từ nguyên súy cho tới những Vạn hộ hầu nổi tiếng thiện chiến. Số quân giặc này chạy qua đâu thì như lửa cháy ở vùng lau sậy chỉ bỏ lại những đám cháy nham nhở. Quân giặc bỏ chạy không thể nói là có tổ chức rút lui trật tự mà là những đám giặc chạy nhanh giữa những đám giặc chạy chậm. Có những đám quân vừa chạy vừa ăn. Chúng ăn những thứ gì chúng cướp được dọc đường, nhuyững nải chuối, những củ khoai lang có luộc và không luộc chín. Có những đám đỗ hẳn lại nổi lửa làm cơm, chấp nhận nếu bị đuổi kịp thì đánh mở đường máu. Không đánh được thì hàng, miễn là được ăn cơm no bụng. Cho nên giữa một đám nhốn nháo như vậy sau khi mặt trận qua đi, sự an toàn không có, sự bình yên cũng không có. Hoàng Đỗ dẫn quân qua một vùng như thế. Dọc đường anh gặp không biết bao nhiêu những đám dân binh đang ùa đi truy lùng tàn quân giặc lẩn quất ở các bờ bụi, cù lao giữa sông. Vùng lộ Khoái và lộ Hồng là một vùng nhiều sông con chằng chịt. Chỉ mấy tháng chiến tranh, lau sậy đã đâm um tùm khắp nơi. Có những tên giặc còn lẩn khuất ở trong đó, cứ ban đêm chúng bò đi ra kiếm ăn, còn ban ngày lại về với lau sậy. Chúng vẫn hy vọng chúng trốn thoát được qua tuyến lửa mặt trận về với quân của chúng. Do đó việc an ninh ở vùng này là cực kỳ bấp bênh. Người ta không dám đi một hai người. Mà phải là một ngũ một thập và có vũ khí đầy đủ. Nhưng những vụ tàn binh giặc tấn công dân thường không ít, nhất là các bà gánh gạo về nhà. Gạo đem từ nơi sơ tán dễ dàng làm mồi cho bạn đói ăn, nhất là trong gánh gạo đôi khi các bà con gánh theo nồi khoai đã luộc chín là thứ có thể bỏ vào mồm ăn ngay.

Hoàng Đỗ nhận thấy ngay hiện tượng này. Anh thấy cần chấm dứt ngay tình trạng mất an ninh nơi tuyến lửa mặt trận vừa tràn qua. Anh thấy cần đem lại sự an bằng cho hậu phương. Hoàng Đỗ cho gọi những ngũ trưởng dân binh lại và nói cho họ rõ: lũ giặc vẫn còn hy vọng chạy về sông Bạch Đằng đã cho thấy trước hết cho bọn giặc lẩn trốn biết rằng ta th mạng cho chúng, cho chúng ăn. Hơn nữa, bọn giặc này nhiều trên không phải là Mông Cổ mà là người Hán, người Đại Lý, người Miêu Cương, người Thiện Xiền... sẽ dề dãng quay trở lại với ta, hàng để được sống, để được ăn no...

Theo lệnh của Hoàng Đỗ nhiều bếp ăn được nhóm lên, tiếng mõ rao bằng cả tiếng Hán gọi ra đầu hàng, gọi cho ăn... Đạo quân của Hoàng Đỗ đi qua đâu tiệng gọi ăn, gọi cho hàng vang lên. Đến gần trưa rất nhiều tên giặc ra hàng, nhiều tên từ trong những đám lau sậy giữa sông phất cờ làm bằng những quần áo buộc trên đầu những gậy tre đi ra. Chúng vác vũ khí chúc mũi xuống đất chứng tỏ đầu hàng.

Trong đám hàng binh có một tên mang rất nhiều đồ đạc lỉnh kỉnh các bồ sọt bằng tre làm cho anh em thu nhặt tàn binh e ngại. Họ hỏi y:

– Bồ sọt gì vậy?

– Dạ bồ thuốc.

Tên này chắc đã sang ta nên biết tiếng Việt. Anh em dẫn có đến trước Hoàng Đỗ. Đây là một tên đã già, người Hán, trông người gầy gò hiền lành.

– Mi làm gì trong quân đội Nguyên.

– Thưa tướng quân, tôi là ông lang. Những bồ sọt này đựng thuốc, toàn thuốc quý dành cho các tướng.

Hoàng Đỗ nghĩ ngay đến những thương binh của ta. Anh tức tốc cho áp giải ngay tên này về hành trung doanh theo anh. Đến chiều, anh đã tới hành trung doanh vào ra mắt Quốc công tiết chế và vắn tắt trình bày cuộc sống cán về triều đình và những việc làm trên đường trở về.

Trần Quốc Tuấn trầm ngâm khi nghe những tin tức của Hoàng Đỗ.

Hành trung doanh bận rất nhiều việc. Phạm Ngũ Lão bận tối mắt từ sáng tinh mơ đến tối mịt. Trương Hán Siêu cũng như vậy. Trần Quốc Tuấn đã ra mệnh lệnh cho tất cả toàn quân ra sức lùng bắt tù binh, lập ra những đơn vị tuy nhỏ nhưng khá nhiều quyền nhằm lọc ra, chi loại tù binh. Trong đám tù binh có rất nhiều nghề ngỗng tưởng như chẳng dính líu gì đến việc quân. Các ông lang trong quân ngũ là lẽ đương nhiên, có ông về nội khoa, có ông về ngoại khoa. Nhưng trong đạo quân xâm lược bỏ lại có cả những tên rất giỏi về bói toán, về phong thủy, về thiên văn. Có những tên có nghề thủ công rất giỏi, bồi tranh, dán tranh, đúc đồng rèn sắt, đóng, móng ngựa, đan dệt lông đuôi ngựam đặc biệt có những tên làm bếp, rất giỏi các món thịt cừu, thịt dê, cá quả, cua đồng... Tất cả những tên này đều được lọc ra, thẩm định tài nghệ của chúng rồi đem dùng vào các việc mà ta đang rất cần.

Tên làm nghề lang thuốc hôm qua tự xưng danh là Trâu Tôn, được thẩm tra kĩ về tài nghệ. Hắn cũng giỏi về ngoại khoa nhưng cái chính là hắn chuyên môn về nội khoa. Phạm Ngũ Lão được lệnh Trần Quốc Tuấn áp giải Trâu Tôn về Phủ Ủng thăm bệnh cho Tầm. Tầm bị thương những việc bình phục không nhanh như mọi người mong đợi. Trâu Tôn thăm bệnh cho Tầm, tìm ngay ra nguyên nhân sâu xa của việc chậm bình phục của cô gái là tâm bệnh. Ông ta kê đơn cho cô gái. Ông ta nói riêng với Phạm Ngũ Lão rằng cô gái đang có điều buồn bực trong lòng.

Việc hồi phục sức khỏe của Tầm không chỉ phụ thuộc vào đơn thuốc bổ. Ông bố nuôi của cô nghe tin cô gái có tâm bệnh liền cho gọi Nguyễn Chế Nghĩa từ mặt trện về coi sóc việc quân, việc dân của Lộ Khoái...

Bữa tiệc từ biệt của Hoàng Đỗ với đội quân viễn thám ở hành trung doanh, Hoa Xuân Hùng và cô chỉ huy nữ dân binh làng Ngọ diễn ra một chiều đầu tháng Bảy rất vui. Hoa Xuân Hùng thay Hoàng Đỗ chỉ huy quân viễn thám. Ông tướng của họ lại sắp lấy vợ. Má vợ của ông tướng cũng biết cầm quân. Làng Ngọ có đình làng bị đốt cháy một nửa. Hoàng Đỗ đã lấy hai mươi lạng vàng đưa biếu làng Ngọ để làm lại đình. Bô lão làng Ngọ sai chép vào hương khoán lệ làng kết chạ giữua ba hương là hương Ngọ, hương Màn Trò, hướng Vĩnh Bảo. Kể từ nay ba hương này kết chạ mỗi năm mở hội tại một hương. Trai gái các làng ngày hội sẽ làm lễ đocọ văn tế và ghép đối theo lệ tắt đèn tắt nến. Các bô lão làng Ngọ cử hai phái đoàn về Vĩnh Bảo và Màn Trò để thông báo những điều đã quy định.

Hoa Xuân Hùng tiễn Hoàng Đỗ ra tận đầu làng. Bấy giờ đã chập tối. Cô Hồng cũng theo ra. Cuộc chia tay thật bịn rịn. Đám lính quân Thần Sách còn một ngày nghỉ nữa đã vào phiên trực mới nên họ phải hành quân đêm về kinh. Phóng ngựa trong đêm tại một vùng mới hồi sinh, cảnh thôn quê như có một hơi thở mới. Trời bắt đầu vào thu mát lạnh. Hoàng Đỗ nhớ tới những người bạn mới và những người bạn cũ. Chỉ mới mấy tháng thôi (năm tháng chứ mấy – nguyên văn của tác giả ) mà cuộc đời Hoàng Đỗ như thay đổi đổi. Bây giờ cậu có thể ngẩng cao đầu mạnh dạn đi vào cuộc đời không chút e ngại. Tảng sáng, họ đã đến tả ngạn sông Phú Lương. Nhìn sang bên kia sông, lâu đài, đền các của Thăng Long thấp thoáng trong màn cây che phủ.

Các bến đò ngang đã làm việc trở lại đưa dân chúng và những người làm việc công qua sông.

Kinh thành chứng kiến những biến thiên của lịch sử nhưng không biết kinh thành có hiểu đến chỗ sâu cùng những làn sóng lòng của quân và dân Thăng Long hay không.