Chương 14
Thăng Long giải phóng chưa được nửa tuần trăng. Các quan từ vùng sơ tán đến nay đã tập trung về kinh gần đầy đủ. Không khí chiến tranh đã như tan biến. Không khí hòa bình an lạc đã tràn về kinh thành. Những buổi chầu đã tập hợp đầu đủ các quan đứng đầu từng bộ, từng khoa. Lễ phục đại triều đã có đầy đủ hết. Từ ngoài hoàng cung, bên ngoài cửa ngọ môn tuy chưa tới giờ nhập triều nhưng các quan đã tề tựu chờ sẵn. Mọi việc bắt đầu dềnh dàng đúng giờ đúng việc. Mọi chỗ đứng đã tự nhiên dành riêng cho các quan to đứng trên, các quan nhỏ đứng dưới. Các quan võ tự nhiên dang ra xa nhường chỗ cho các quan văn đứng hàng trước.
Hôm nay là phiên cung Quan Triều hành lễ. Vua Nhân Tông sẽ ngự triều. Cung Quan Triều cũng đã bị đốt trụi. Lính Thần Sách đã làm gấp chín gian cung bằng tre lợp cỏ gianh để triều thần làm việc tạm.
Mấy tháng vừa qua, bên ngoài các ngành văn ít thấy thêm quan mới. Vau Nhân Tông nhận thấy việc của ngành văn vị dồn ứ lại, cần phải thêm người làm gấp. Trong số người được chọn thêm có Đỗ Khắc Chung. Hồi đầu năm, quân ra đang phải lui, nhường đất cho quân giặc chiếm đóng. Chúng chiếm cả Thăng Long. Bấy giờ tư tưởng chiến và hòa xung đột nhau dữ tợn từ trên xuống dưới. Thậm chí có cả việc gả con gái của thượng hoàng cho tướng giặc, ý là muốn chúng thư thư trong việc tiến quân. Để thương lượng, triều đình phải cử một phái đòan đến để xin giặc ngừng tiến binh. Khi chọn người đứng đầu phái đoàn thì nhiều người từ chối. Tất nhiên về lí lẽ rất hợp tình. Có người nói rằng miệng lưỡi không linh hoạt, không thích hợp với việc nghị hòa. Có người nói rằng vốn là người nóng tính sợ làm hỏng việc của triều đình… Nói chung là nhiều lí lẽ nhưng cái lí thâm sâu ở bên trong thì ít ai dám nói ra: đó là đem thân vào miệng cọp, chửa biết cọp nóng giận hay cọp hiền từ, chỉ biết nếu nó muốn đớp là nó đớp được, nếu nó muốn ngoạm là nó ngoạm được. Cái việc cầm đầu phái đoàn này nên nhường cho người khác. Nhưng có một người dám nhận, đó là Đỗ Khắc Chung – một tùy sai cấp thấp. Để làm tăng uy tín của phái đoàn, triều đình thăng Đỗ Khắc Chung lên chức quan to. Cờ quạt, võng lọng của phái đoàn được cấp phát vượt tuyến. Phái đoàn của Đỗ Khắc Chung đến Thăng Long vừa bị chiếm đóng xong. Viên quan này đang phấn khích vì bỗng chốc được lên bậc cao, tự nhiên trong lòng phát sinh ý tưởng có chết cũng cam lòng. Cho nên ông ta đi đứng rất tự nhiên, đàng hoàng, giặc mời rượu cũng uống, tay cầm chén rượu không run, mặc dù chung quanh gươm giáo sáng lòa. Đến lúc bàn việc, vón dĩ là người dọc ngang chời bời coi giời bằng vung, Đỗ Khắc Chung đã đối phó rất thành công trước phó nguyên súy A Lý Hải Nha. Phó nguyên súy đánh giá cáo Đỗ Khắc Chung. Đứng trước uy vũ mà không chịu khuất phục, chẳng những thế đi đứng tự nhiên như không. A Lý Hải Nha đã từng nói thầm trong bụng là trong đám ngựa thồ ăn no vác nặng sao lại sinh được con ngựa chiến tài ba như thế. A Lý Hải Nha đã nhận lời chúc mừng cho hàng của phái đoàn dù chẳng tỏ ý rút quân, cũng không nhất trí cho hàng nhưng vẫn cho phái đoàn, mặc dù chẳng tỏ ý rút quân, cũng không nhất trí cho hàng nhưng vẫn cho phái đoàn và viên trưởng đòan nhiều quà tặng và tiễn ra về đến tận cửa doanh thật lịch sự.
Sau vụ đi sứ này, Đỗ Khắc Chung được mọi người tôn trọng và kiêng nể, đặc biệt là được vua Nhân Tông chú ý.
Hộm nay, người đầu tiên nhận chức vụ mới là Hoàng Đỗ, anh được phong Điện tiền hiệu úy chỉ huy đô tả trong quân Thần Sách, nghiễm nhiên trở thành một trong tám vị quan võ to nhất nội cung. Người thứ hai nhận chức vụ mới là hành khiển Đỗ Khắc Chung. Từ nay mọi chức quan từ hành khiển trở xuống sẽ do Đỗ Khắc Chung sắp xếp.
Việc ban thưởng cho các tướng võ có quân công sẽ do hành trung doanh đề đạt nhưng việc ban thưởng cho các quan văn có công trong việc tòng vong sẽ do triều đình tiến hành. Nhân Tông giao việc này cho Đỗ Khắc Chung và dặn trừ các ông học sĩ Thánh Tử sẽ do chính cung Thánh Tử xét và ban thưởng. Cung Thánh Tử là cùng riêng của thượng hoàng Thánh Tông.
Nhân Tông cho bãi triều và giữ vài viên quan lại để làm việc thêm. Đỗ Khắc Chung cũng được giữ lại. Cả sử gia Lê Văn Hưu cũng nằm trong danh sách. Vua ban bánh ngọt và trà thơm cho các quan. Nhân Tông nói:
– Đây là việc kín ta hỏi các ngươi. Nếu có ý gì các ngươi cứ mạnh dạn nói.
Nhà vua tư lự. Các quan kinh sợ cũng ngồi im. Giờ lâu, Nhân Tông mới hỏi:
– Vì sao tin của quốc sĩ Đỗ Vĩ lại xuất hiện trong hàng ngũ quan lại cao cấp trong triều?
Các quan thấy tin này vừa đột ngột vừa khó trả lời. Ai cũng ngẩn ra không biết phải nói ra sao. Mãi sau Lê Văn Hưu mới tâu:
– Phái Đỗ Vĩ đi là do đức ông tiết chế. Ngoài hai vua và các đại thần tả hữu thì chỉ còn mấy cửa quan do các đức ông trấn thủ để đón tin về là được biết để sẵn sàng tiếp nhận. Tin quốc sĩ Đỗ Vĩ bắt đầu rộn lên ở trong quân là khi quân ta vỡ mặt trận. Có nhiều tướng và vương hầu bỏ chạy hàng giặc. Đó là bắt đầu phát giác.
Ông hành khiển Lê Đà, tùy viên ở cung Thánh Tử thì nói:
– Cựu trấn thủ lộ Quy Hóa là đức ông Trần Ích Tắc, cựu trấn thủ lộ Tam Đái Giang là đức ông Trần Văn Lộng, cựu trấn thủ lộ Thanh Hoa là đức ông Trần Kiện. Mấy đức ông này đều là những người được biết hành tung của Đỗ Vĩ. Đức ông Trần Ích Tắc vốn là người giữ lộ Quy Hóa, đường đi trở về mạn tây của Đỗ Vĩ cho nên đức ông được thông báo chuẩn bị đón Đỗ Vĩ. Đức ông Trần Văn Lộng trấn thủ Tam Đái Giang cũng được thông báo đón Đỗ Vĩ. Đức ông Trần Kiện trấn thủ lộ Thanh Hoa thì chuẩn bị đón Đỗ Vĩ nếu Đỗ Vĩ về bằng đường thủy qua đảo Hải Nam. Cả ba đức ông đều đã xin hàng giặc. Ba đức ông này và tả hữu của họ đều có thể tiết lộ cho giặc về hành tung của Đỗ Vĩ.
Đỗ Khắc Chung vỗn dĩ là người nói năng mạnh bạo sống sượng, ông ta nói:
– Cũng chưa thể nói ba đức ông này tiết lộ hành tung của Đỗ Vĩ, bởi vì chính chúng ta là những người kế cận của hai hoàng đế, tin gì mà không biết, nhưng chỉ tuần trăng trước chúng ta mới biết có chuyện này. Thế thì người để sổng miếng chắc chắn là người trên chúng ta. Thần bạo gan nói hoặc giả bệ hạ hoặc đức thượng hoàng để lộ tin thì sao? Không lẽ bọn kia đã hàng giặc thì tội gì cũng đổ cho chúng là xong hết.
Cách nói năng mạnh bạo sống sượng của Đỗ Khắc Chung làm cho Nhân Tông phải công nhận cái lí có thể phải của Đỗ Khắc Chung. Vả chăng bây giờ Đỗ Khắc Chung đã được ban quốc tính họ Trần. Giang sơn này là của họ Trần, ông ta có quyền nói vào đó.
Cuộc điểm tin mật ngừng ở đây. Vậy là tin về Đỗ Vĩ có thể lộ ra từ ngay cung Thánh Từ và cung Quan triều. Nhân Tông cho các quan bãi chầu. Nhà vua gọi Hoàng Đỗ bắt thay quần áo ngự lâm quân, bản thân nhà vua cũng thay áo chiến của một võ quan bình thường. Nhân Tông quyết định vi hành trong kinh đô.
Từ dạo rời bỏ Thăng Long đi kháng chiến. Nhân Tông mới biết thế nào là cuộc sống khoáng đạt bên ngoài hoàng cung. Trở về Thăng Long giải phóng, nhà vua lại cảm thấy tù túng trong hàng rào ngăn cách củ cũng thành, của lính ngự lâm. Cho nên hôm nay, nhà vua quyết định chỉ đem theo một mình Hoàng Đỗ để vi hành. Trông hai người đi trong phố phường người ta chỉ tưởng một viên tướng nhỏ có một chú bé đi hầu. Nhân Tông hỏi Hoàng Đỗ:
– Nhà người có biết phủ của Chiêu Minh Vương không?
– Thưa biết, tiểu tướng đã được theo Chiêu Văn Vương đến đó.
Hai thầy trò đi từ cửa đông thành ra ven sông Nhị, chô này có bến đò ngang và một cái chợ nhỏ đẻ cho những người sang sông bán cất hàng. Người ta gọi cái chợ đó là cái búa. Búa họp ngay tại bến Đông Bộ đầu. Nhân Tông đi vào búa. Nhà vua rất thích chen chúc vào dân thường. Tình hình Thăng Long sau giải phóng rất ổn định, người nào cũng có tâm lí của người chiến thắng. Đi dọc theo sông, Nhân Tông đi về phía cửa ô Yên Hoa. Trên đường đi, dọc theo bên phải con đê là phủ đệ của các vị vương chữ Chiêu. Phủ Chiêu Văn đã bị đốt trụi. Phủ Chiêu Quốc thì còn nguyên vẹn. Rồi đến phủ Chiêu Minh nơi đặt hành doanh của tướng giặc Thoát Hoan. Nhân Tông tạt vào. Lính canh cửa định ngăn giáo chặn lại thì viên tiểu tướng chỉ huy đội canh nhận ra nhà vua. Y hoảng sợ định phục xuống làm lễ thì Nhân Tông ngăn lại.
– Ta miễn lễ cho. Chủ của nhà ngươi có nhà không?
– Muôn tâu, có.
– Thông báo có khách. Đừng làm ồn. Cứ để ta vào như người thường.
Chiêu Minh Vương hôm nay không có phiên chầu bên cung Thánh Từ. Ông ở lại phủ xem các bản báo cáo từ các ải biên thùy phía bắc. Khi thấy Nhân Tông vào Chiêu Minh Vương đứng bật dậy sụp lạy.
– Bệ hạ đi thế này nếu có chuyện gì xảy ra thì vạ lớn đến với đất nước.
– Đừng nói thế. Nếu có vạ lớn đến với đất nước thì trong mấy tháng vừa qua chúng đã đến rồi. Ta đã quen với cuộc sống tang bồng hồ thi. Ta thấy chẳng có điều gì phải sợ. Bữa nay ta đến hỏi thái sư mấy việc. Đây không phải hoàng cung, không phải giữ đại lễ. Đây là việc của họ Trần, ta là phận cháu, chú Ba là người thân.
– Đành rằng như vậy. Nhưng bệ hạ đi thế này có chuyện gì xảy ra thì vạ rất lớn – Ông nói với Hoàng Đỗ – Nhà ngươi sao không ngăn việc đi vi hành trong hoàng thành. Đây là việc cấm kỵ với ngự lâm quân. Tội chém đầu đấy.
– Lỗi không phải tại nó mà chính ta ra lệnh. Nó lại mới nhậm chức hiệu úy điện tiền. Luật lệ nó chưa biết. Chú Ba bỏ qua cho nó.
– Mệnh vua như núi đã ban ra thì ta tha lần này, nhưng lần sau ngươi phải biết đây là việc không được làm.
Hoàng Đỗ toát mồ hôi, anh không ngờ những điều lệnh của hoàng thành và nội cung lại ghê gớm như vậy.
Nhân Tông và Trần Quang Khải chia ngồi quanh bàn. Hoàng Đỗ đứng hầu.
– Việc là thế này. Cháu đã điểm lại cho kỹ trường hợp tin tức về Đỗ Vĩ loan truyền trong thời điểm nào, từ đâu và từ ai ra.
– Vậy cháu có thấy điều gì lạ không?
– Tin về Đỗ Vĩ loang ra từ khi có những hàng giặc. Đó là vào tháng Năm. Sau đó tin tức này càng loang ra nhiều rộng hơn. Tin loang ra có thể từ ba nơi: lộ Quy Hóa, Châu Ái và đoàn tùy tùng đi cùng hoàng tộc. Còn từ ai thì không xác định được. Ngay cháu đây cũng có thể là người sổng miệng.
– Cháu làm thế là rất đúng và thấu đáo. Ngay chú đây cũng chỉ biết tin Đỗ Vĩ khi tin đã loang ra rồi, chính chú cũng không biết Đỗ Vĩ đã sang Trung Quốc từ lúc nào. Chú chỉ biết Đỗ Vĩ là một người tài hoa đánh đàn hay, hát hay, vẽ đẹp. Chính chú cũng có một bức tranh Đỗ Vĩ treo trong nhà, bây giờ thì mất rồi vì khi rời Thăng Long không đem được theo. Bây giờ chẳng biết nó đâu. Bức tranh vẽ cảnh sông Nhị, vẽ tại đây. Hưng Ninh vương đã giới thiệu Đỗ Vĩ đến đây vẽ tranh cho chú. Bức tranh đẹp lắm. Chú rất tiếc.
– Bây giờ sự việc đã đến thế này chú tính sao?
– Trước hết là ngăn chặn việc loang tin. Phủ thái sư sẽ ra một mệnh lệnh không cho bàn tán xôn xao về việc này việc nọ, về người này người nọ. Thứ hai là hạ lệnh mật cho các đạo quân phía Bắc phải bắt cho được vài tướng giặc cao cấp. Nếu được thì ta có điều kiện đổi Đỗ Vĩ về. Trường hợp này hơi trái ngược với lệnh cũ là không được đánh giặc cùng đường. Vậy phải giải thích rõ cho ba người hiện đang đánh ở biên thùy phía Bắc là Quốc Nghiến, Quốc Tảng và Nhật Duật. Và dặn họ giữ kỹ. Cứ để phủ Thái Sư ban mệnh lệnh còn cung Quan Triều cứ bình lặng như không có việc gì xảy ra.
– Phải là mệnh lệnh gấp. Ngay trưa nay. Nếu có thể được có người thân tín đi theo để giải thích rõ mệnh lệnh.
– Ngay trưa nay thì được rồi, con người thân tín đi theo thì không nên vì sợ loang thêm tin ra.
Bàn chuyện biển Đông, Nhân Tông hỏi:
– Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long quân thủy tuần phòng thế nào? Có ra lệnh cho các vệ quân thủy bắt giữ tàn binh giặc không?
– Lệnh đã ban ra từ lâu. Nhưng vì khi ta rút lui quân thủy của ta phải vào các cửa biển ở Ái châu nên bây giờ lại phải tiến ra vùng vịnh chậm thời gian. Tuy nhiên chính ở vùng này ta bắt được rất nhiều tù binh và chiến cụ. Thuyền vận tải thì bắt được nhiều nhưng thuyền chiến thì có ít. Trên bộ tàn binh giặc tản mát trong dân làm cho an ninh ở làng quê bị xâm phạm nhưng trong đám tàn binh ta bắt được có nhiều loại ta có thể dùng được. Đức ông tiết chế đã có bản tấu trình xin phép được dùng các loại thầy lang những người làm trò, những người xem thiên văn tính đại li, tính số. Việc này thì cung Quan Triều nên hạ chiếu cố cho phép phân loại tù binh để dùng.
Lúc này là đầu tháng Bảy, vụ ngô mùa. Phủ Chiêu Minh lại gần bãi giữa sông Nhị có ngô non. Nhà bếp đã nấu chè ngô bưng lên đức ông Chiêu Minh tiếp khách. Chú cháu ngồi vào bàn, cho phép cả Hoàng Đỗ ngồi hầu. Bữa chè ngô đầu mùa thật ngon ngọt thân mật. Lúc này là lúc người ta xởi lởi nhất. Nhân Tông hỏi Chiêu Minh:
– Tại sao lại ngăn ta không cho đi vi hành. Ta thấy đi thế này rất có lợi. Trong cuộc chiến ta đã đi như thế này. Tại sao thời bình lại không đi được.
– Không thể được, tâu bệ hạ. – Chiêu Minh lại dùng lối nói rất cung đình. – Trước đấy là chiến tranh việc bó buộc phải như thế. Bây giờ là hòa bình lại phải cẩn thận kỹ lưỡng hơn. Bệ hạ là bậc chí tôn, cả nước trông vào, nếu có gì xảy ra thì biết làm sao? Không thể được, tâu bệ hạ.