← Quay lại trang sách

Chương 15

Từ trên một sườn núi cao, Bộ tư lệnh quân Nguyên quan sát thế trận. Từ sáng hôm qua, đột nhiên quân Việt xuất hiện bịt chặt đường về của quân Nguyên. Cờ phướn trương dày đặc núi rừng. Tiếng trống đồng ầm ĩ đánh điệu xuất quân. Tiếng tù và gọi nhau nhưng cũng có lúc là tiếng chiêng thu quân. Thật không thể phán đoán được quân Việt muốn gì? Họ muốn đánh hay muốn lùi bởi vì chấn đứng một đạo quân gần sáu vạn lính thiện chiến và kị binh Mông Cổ thì chẳng phải là dế dàng.

Thoát Hoan nhăn mặt nhìn ra sau. Trên bộ mặt mệt mỏi của chiến binh Mông Cổ vẫn thấy sự tưng bừng của những dấu hiệu sắp xung trận quyết liệt. Sinh ra từ nòi cửa tướng, Thoát Hoan cảm thấy trước khó khăn là cần phải có ý chí quyết thắng. Nếu ra trận mà gặp phải những trận đánh dễ, chạm quân địch không thiện chiến thì chiến thắng có gì là thích thú. Đã đánh trận là phải gặp địch thủ xứng đáng, có như vậy thắng trận mới giá trị.

Vẳng nghe bên tai mấy vần đầu tiên trong bài ca tặng Thành Cát Tư Hãn, vị đại hãn đầu tiên của người Mông Cổ:

Đất Bun Đắc trên dòng sông Ô Nôn quê hương

Cờ của bộ tộc bằng lông ngựa chiến tía

Kèn vòi, trống đại, sáo trúc, thảo nguyên mệnh mông

Bên dòng Kê-ru-lan, nơi cả bộ tộc tôn Hãn...

Bài hát làm cho Thoát Hoan dâng lên trong lòng ý chí quyết chiến cho xứng đáng với người khai sinh ra triều Mông Cổ quyết liệt. Thoát Hoan nhìn sang bên phải, phó nguyên soái A Lý Hải Nha, ông thầy và vị tướng của Thoát Hoan đang nheo mắt ngắm trận thế diễn ra trước mắt. Thoát Hoan hỏi:

– Thưa thầy, ta đánh thử một chuyến xem sao?

– Quân địch lúc tỏ ra muốn đánh, lúc tỏ ra muốn ngừng, chính là chúng muốn kéo dài thời gian. Chắc chúng chờ thêm viện binh. Như vậy đánh lúc này là hợp lẽ. Nhưng thầy em mặc dù quân địch chưa đủ lực lượng ta cũng không xuyên thủng nổi hàng trận giặc mà rút về nước. Hãy nhìn xem lính của ta. Họ mệt mỏi rồi, nhiều người bị thương và cái chính là quân ta không còn ý chí quyết đánh.

– Như vậy chả lẽ ta cứ đứng ở đây chờ địch tập trung đủ quân để đập nát quân ta.

– Tất nhiên ta không chờ, ta phải đánh. Nhưng ta phải dựa vào ý chí con người lúc nào cũng níu lấy cái sống. Ta sẽ nói cho lính của ta biết đánh thủng hàng trận quân Việt là ta tới biên giới của ta. Đó là đất sống. Quân ta nghe thấy vậy sẽ đánh quyết liệt để mở một đường máu.

Chánh phó nguyên soái quân Mông chia quân là hai cánh. Họ tuyên bố hiệu lệnh cho toàn quân đội là quyết đánh để mở đường máu. Quân đánh đi không cướp bóc, không thu vũ khí, không bắt tù binh; có nghĩa là đánh qua là tiến luôn về phía trước, không chần chừ và mũi tả đánh trước, mũi hữu đánh sau vòa đúng lưng của mũi tả.

Giữa trưa, quân Mông Cổ bày trận xong. Kèn vòi thúc lệnh xung trận. Sau hai loạt tên bắn như lông nhím quân Nguyên xông lên nhưng đằng sau loạt lau sậy đng buổi cuối hạ úa vàng quân Việt cũng reo hò nhưng không xông ra ứng chiến. Tiếng dây nỏ bật bung búc và một rừng câu liêm tua tủa chĩa ra chặn đứng các chiến binh của quân Nguyên. Chúng ngừng lại một lúc. Các thiên hộ, bách hộ thúc giục lính của mình:

– Xông lên, đánh qua dãy đồi bên kìa là đất của mình rồi.

Thực ra dãy đồi bên kia và liên tiếp các dãy đồi sau đó mấy chục dặm vẫn còn là đất Việt. Lính Nguyên uể oải đứng dậy theo lệnh xung trận vào hàng ngũ quân Việt đứng nấp sau màn lau sậy dày đặc. Rõ ràng quân Việt không muốn xung trận và cũng không muốn cho quân Nguyên đánh qua.

Thoát Hoan nóng toát mồ hôi. Hắn định xoay trần nhưng nhìn thầy học vẫn giữ vững điều lệnh mặc mấy lần áo giáp nên lại thôi. A Lý Hải Nha là người giữ chỉ huy cánh tả xông đầu tiên. Hắn nằm trong làn xung phong thứ nhất tiếp giáp quân Việt. Và hắn cũng nếm mùi tên nỏ bắn ra của quân Việt. Áo giáp ken mây của người Padi rất độc đáo, chúng đủ cứng và đủ dai bẻ quằn mũi tên nỏ không cho xuyên qua. Nếu không có thứ áo giáp này chắc A Lý Hải Nha đã bị thương. Thoát Hoan nhìn thầy muốn vấn kế. A Lý Hải Nha là một tướng già đời. Đánh được thì đánh, chưa đánh được thì ngừng. A Lý Hải Nha cho quân lui về phía sau. Quân Việt reo hò thúc trống đồng thổi kèn vòi nhưng ở đẫu vẫn ở đấy, họ không đuổi theo.

A Lý Hải Nha lại gần Thoát Hoan:

– Quân Việt mai phục ở gò thấp và các đám lau sậy, chúng nghĩ rằng chỗ này quân ta sẽ đánh vào. Mà quả thực quân ta đã đánh vào. Vậy thì tối nay là đêm cuối tháng không có trăng trời tối đen như mực. Ta sẽ lại phá vây, nhưng hướng phá là cánh rừng rậm phía tây.

Nắng xế chiều, Thoát Hoan cho quân ăn cơm trước. Lệnh là ăn cơm xong sẽ tiến quân. Thoát Hoan ra lệnh phát rượu cho quân, mỗi tên ba chén. Thoát Hoan ra lệnh bỏ lại đồ đạc nặng để xung trận được nhanh. A Lý Hải Nha đã dặn Thoát Hoan cho quân bỏ lại đồ đạc nặng để cho lính tăng thêm ý chí phá vậy hòng thoát chạy cho nhanh.

Tuy nhiên ý của hai tên tướng Mông Cổ không thực hiện được. Chúng chưa kịp bày lại quân thì đột nhiên quân Việt tấn công. Ý chí rút chạy của quân Mông Cổ biến thánh ý chí phá chạy. Trước những làn xung phong quyết liệt của quân Việt quân Nguyên chạy tóe ra ngoài cánh đồng. Lúc này thì hai viên tướng quân Nguyên chẳng còn nhìn được thấy nhau thế nào nữa. Thoát Hoan chạy một nẻo, A Lý Hải Nha chạy một nẻo. Sáu vạn quân tan trong một vùng thung lũng rộng và rậm rạp cây rừng. Nhưng quân Việt cũng không đánh sâu, họ đánh chiêng thu quân. Nhưng chưa được một khắc thì lại có trống đồng lệnh đánh. Tiếng hò la lại dậy đất nhưng quân Việt cũng không xông lên. Trời tối, đúng đêm nay không có trăng. Trời tối đen như mực. Tiếng hò la trong đêm của cả tiếng Việt lẫn tiếng Mông Cổ kéo dài từ đầu thung lũng tới cuối thung lũng và cứ như thế tới nửa đêm. Tiếng chiêng thu quân, tiếng trống xuất quân, tiếng hò la trộn lẫn vào nhau. Như vậy là cả một đêm náo động bởi vì sau nửa đêm, quân Việt không hành động nữa nhưng quân Mông Cổ cũng không thể yên được.

Mờ sáng, Thoát Hoan và A Lý Hải Nha mới gặp nhau. Hai tên chia nhau đi xếp lại quân. Các tướng dưới quyên gom quân gom ngựa. Chúng được lệnh thổi cơm ăn. Ý chí đánh, ý chí chạy đều tan cả.

Bên phía đối địch là cánh quân của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn. Tổng số quân chỉ có một vạn bảy. Đúng là Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn đang chờ thêm viện binh. Không đủ quân để đánh tiêu diệt và cũng không đủ quân cản đường chạy của giặc. Quốc Nghiễn phải bày ra cái trò vừa đánh vừa đánh vừa nghỉ. Trong số quân của Quốc Nghiễn có hơn năm nghìn là dân binh lộ Quý Hóa giang. Số quân này đánh mai phục thì tốt nhưng bày đánh bày trận thì không tốt. Chính vì vậy mới có trận đánh như vừa qua.

Giữa trưa, Quốc Nghiễn sai một viên tiểu tướng và một ngũ lính không mang binh khí mà mang một lá thơ gửi A Lý Hải Nha. Trong thư Quốc Nghiễn nói rõ các đường đi đã bị chặn cả quân Nguyên nên hạ vũ khí để cho đỡ tổn hao xương máu của lính. Ngũ lính này còn dắt theo mười con ngựa thồ lương biếu A Lý Hải Nha.

Quân Nguyên cũng biết đến cái điều đôi bên giao tranh đều phải kính trọng sứ giả. A Lý Hải Nha bày tiệc mời các viên tiểu tướng và ngũ lính rồi mới cho về.

Gói hàng và biếu lương là tỏ ra thế mạnh thế no. Bày tiệc và cho về là tỏ ra lương thảo dồi dào và thế vẫn mạnh.

Nhưng xét cho cùng quân giặc vẫn bị ta chặn đứng ở một chỗ.

Ghim quân bày trận không phải là sở trường của A Lý Hải Nha, cũng không phải là thích thú của Thoát Hoan. Dòng tướng của Mông Cổ thiên về đánh vận động. Tiến đánh bày trận, thế công thế thủ đều ở trong lúc đang di động. Thoát Hoan quen nghĩ thế trận đang di chuyển. Cho nên bị chặn đứng lại trong vùng thung lũng rộng này là gò bó đối với y. Nó làm cho y bứt rứt đứng ngồi không yên. Thoát Hoan đem theo mấy tên tùy tướng theo triền núi bên trái leo ngược mãi lên, y muốn lên tới chỗ cao nhất để quan sát trận địa quân Việt. Leo chừng nửa buổi lên tới một chỏm cao, ở đây có một miếu thờ sơn thần.

Quân Mông Cổ có một thói quen là rất tôn trọng các ông từ bà đồng coi các đền miếu. Những người này rất được kính trọng, họ được coi là những người có cách giao tiếp thông tin với thế giới bên kia. Đó là một thế giới khác biệt với thế giới chúng ta đang sống, thế giới ấy gồm những thế lực thần bí, những con người thần bí có cách suy nghĩ lập luận khác lạ với suy nghĩ lập luận của chúng ta bây giờ. Cho nên khi ông từ coi miếu thần ra cửa đón, Thoát Hoan vái chào rất kính nể. Thoát Hoan hỏi:

– Miếu này thờ ai vậy?

– Thưa tướng quân, miếu này thờ sơn thần.

– Đưa ta đi xem.

Ông từ là một ông già ngoài bảy mươi tuổi quắc thước đưa Thoát Hoan lên miếu. Nhưng kỳ lạ thay đây là miếu thờ sơn thần mà tượng thần là thuồng luồng đen. Thuồng luồng đen thường được thờ ở các ngã ba sông. Còn ở những mỏm núi như thế này thường thờ Thần Hổ, hổ vàng, hổ trắng, hổ đỏ, hổ xanh, hổ đen. Thần ngũ hổ thường thờ ở khắp núi cao. Nhất là hổ đen.

– Đây là mỏm núi cao, sao thờ sơn thần lại là thờ thuồng luồng?

– Thưa tướng quân, ngày xưa ở chỗ này là một xóm vắng có năm nhà dân, mỗi đời thướng có một người con gái xinh đẹp cho nên các quan lớn thướng về đây kén chọn mĩ nữ làm vợ. Một đợt có một cô con gái nhan sắc tuyệt đẹp huyền bí như rừng đêm, lỗng lẫy như trăng đầu ghềnh. Làng là một làng dệt cửi chuyên dệt một vải gai may váy của các cô gái. Cô nàng xinh đẹp hôm ấy đang ngồi trong khung cửi dệt vải chợt thấy một người con trai từ trên nóc nhà nhảy xuống tự dưng là hắc long, người con gái sợ quá vùng lên chạy, người con trai hiện nguyên hình thánh thuồng luồng đen cuốn chặt lấy thân người con giá kéo suốt xuống núi xuống tận bến sông Hiến giang. Khi cha mẹ về nhà thì người con gái đã bị thuồng luồng kéo đi mất. Người mẹ tìm vết chỉ thấy một sợi tơ gai từ khung cửi kéo dài mãi xuống núi tới bến sông rồi mất tích. Ở tại bến này, bà mẹ thuê người lặn xuống sông thấy đáy sông có một hang đá, lần hang vào bên trong được mấy chục bước thì thấy hang rộng lớn dần ra. Dần dà có lầu cao nhà gác, đài đệ nghiêm trang như cung vua phủ chúa lại ở trong có vẳng ra tiếng đàn sao nhộn nhịp như cảnh tượng lễ cưới tưng bừng vui vẻ. Bà mẹ nghe kể liền cho làm một cái lồng bằng tre, trong lồng chứa diêm tiêu và thứ bắt lửa, chung quanh thân lồng trát kín bằng sáp vàng rồi cho thả cái lồng xuống đáy sông. Chỉ thấy ngọn lửa từ dưới đất bốc lên rồi núi Hiến Sơn đổ xuống, ở chỗ núi đổ còn thấy nghi ngút như có ẩn phục ngọn lửa, người ta thử đem cành khô ném vào chỗ ấy thì lửa bắt cháy ba ngày sau mới tắt. Khúc sông này, mỏm núi trên này đời sau người ta lập miếu thờ. Ở khúc sông miếu thuống luồng đen được biến thành miếu thuồng luồng vàng. Còn ở trên núi, sơn thần được thờ cũng là thuồng luồng. Miếu thờ đã có mấy đời nay rồi.

– Như vậy thuồng luồng được thờ ở nơi không phải là đất dụng võ của nó.

– Đúng vậy, thưa tướng quân cũng như hổ không bao giờ hoành hành được ở đồng bằng.

– Hổ xuất lâm môn. Hổ ra cửa rừng còn gì là hổ dữ nữa, đến người nông phu quen với cái cày con trâu cũng trói được hổ.

Thoát Hoan dâng hương, thưởng cho ông từ rồi ra về. Một ý nghĩ kì lạ nảy sinh trong lòng viên tướng Mông Cổ: muốn vượt thoát vòng vây thunglũng thì phải làm những cái gì ngược với thói quen của quân Mông Cổ. Nếu quân Mông Cổ là quân thiện chiến trên thảo nguyên, thì bây giờ phải chiến đấu trên núi rừng. Nếu quân Mông Cổ quen đánh những trận tập trung lớn thì bây giờ phải chia nhỏ ra. Nếu quân Mông Cổ quen đánh ban ngày thì bây giờ phải đánh đêm.

Từ trên sườn núi cao nhìn xuống thung lũng, Thoát Hoan hình dung trận đánh đêm hôm nay. Trận đánh quân Mông Cổ từ trên núi cao đánh xuống, đánh bằng những đơn vị nhỏ. Trận đánh chắc chắn sẽ gây không ít bất ngờ cho quân Việt. Thoát Hoan tổ chức đánh trận, chia nhỏ quân đội, cho quân ăn cơm sớm trước khi mặt trời lặn. Trời chập tối, Thoát Hoan cho quân lên sườn núi bên tả. Bữa nay cuối tháng không có trăng, quân Mông Cổ theo lệnh đánh ào xuống, quân tràn như nước lũ dâng lên bờ suối chẳng cái gì ngăn được. Đến nửa đêm đạo quân thoát khỏi thung lũng sông Hiến. Cũng lạ như thuồng luồng được thờ trên mỏm núi.

Nhưng vừa ra khỏi thung lũng Thoát Hoan lại dẫn quân vào một vùng cỏ gianh bạt ngàn. Viên tướng Mông Cổ mất gần một ngày để vây quân lạc tướng, tướng lạc quân chẳng còn biết đâu mà lần. Theo quan niệm của dóng tướng Mông Cổ, cái chết của dũng tướng là da ngựa bọc thây. A Lý Hải Nha đã dạy cho học trò mình thấm nhuần triết lí ấy. Sau trận bị vây bọc trong thung lũng Thoát Hoan lại trở thành một dũng tướng linh hoạt trong chiến đấu và cầm quân. Vùng cỏ gianh này là đất hoạt động quen thuộc của kị binh Mông Cổ, chỉ hiếm ngựa nghẽo lạc lung tung, kị binh không có ngựa. Thoát Hoan hạ lệnh tập trung ngựa được mấy nghìn con. Y tổ chức thành một đạo quân xung kích, y ra lệnh tập trung cung cho đạo quân này. Ra lệnh tập trung giáo nhẹ, tập trung giáp nhẹ, còn trường thương đại đao thì giao cho đạo quân đi theo sau.

Quân Mông Cổ tiến tràn quan vùng đồi gianh. Thoạt đầu cuộc tiến quân rất thuận lợi. Tuy cỏ gianh có cản trở vó ngựa đôi chút. Nhưng về sau thình lình quân Việt nổi lửa đốt đồi gianh, ngựa sợ lửa phá chạy lung tung. Làn sóng lửa chặn hẳn đường tiến của quân Mông Cổ. A Lý Hải Nha thấy thế nguy hiểm cho quân chạy men theo sông Hiến lấy thế nước sông để chặn lửa. Mãi tới chiều, quân Mông Cổ mới chạy được tới một vùng đất ổn định nghĩa là có gò có đồi, có rừng cây có khe suối. Quân Mông Cổ thiết lập trận địa ổn định thổi cơm ăn. A Lý Hải Nha không dám cởi áo giáp, y đến gặp Thoát Hoan để bàn định ngày bỏ chạy tiếp theo.

Chiều tối hôm ấy, quân Việt rúc tù và đánh trống đồng suốt đêm, tiếng tù và đêm rền rĩ báo hiệu một ngày sắp tới đầy biến động.

Từ sườn núi thấp nhưng có cây mọc rậm rạp, Trần Quốc Nghiễn đặt hành trung doanh của ông, chỉ vén lá cây là có thể quan sát trận địa đóng quân của quân Nguyên trên vùng đồi lau sậy khô cháy. Bữa nay, hành doanh của Trần Quốc Nghiễn có cuộc họp. Dự cuộc họp có Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Hoàng Mãnh, Trịnh Mác... nghĩa là có khá nhiều tướng thiện chiến vùng rừng núi. Cuộc họp làm thế nào tìm ra cách đánh địch với mục đích là bắt được một vài tướng quan trọng của quân Nguyên. Cuộc họp đang dở dang thì một tùy tướng vào thông báo có Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật mới ở Thăng Long lên đem theo mệnh lệnh mới: tìm cách bắt cho được một vài tướng quan trọng của địch để có thể đổi lấy Đỗ Vĩ.

Trần Quốc Nghiễn nói:

– Thưa chú, hiện nay chúng ta đang ra sức thực hiện việc này. Một số trận vừa qua thắng lớn nhưng tướng giặc đều tử trận, chỉ bắt được một số trên thiên hộ nhép, sợ đem đổi không cân xứng.

Trần Nhật Duật cả cười:

– Vịt làm sao đổi được với trâu. Dọc đường đến đây chú có gặp một người có thể cần cho ta. Ông ta đang chờ ở ngoài cửa doanh. Cháu ra lệnh cho lính đưa ông ấy vào.

Mọi việc được tiến hành rất nhanh. Người được đưa vào quân doanh chính là ông từ coi miếu sơn thần mà hai hôm trước đã được đối thoại với Thoát Hoan.

– Thưa các vị, hai hôm trước đây tôi có được đối thoại với một tướng Mông Cổ. Tôi ngờ rằng hắn chính là Thoát Hoan. Bởi vì người này rất trẻ, ăn mặc hùng dũng nhưng vẫn hoa mĩ. Dáng điệu thì quyền thế. Trong hai tướng giặc cầm đầu lần xâm lược này thì Thoát Hoan là đứa trẻ nhất.

– Hắn nói với ông cái gì?

– Hắn lấy làm kì lạ là miếu sơn thần mà lại thờ thuồng luồng. Hắn quên rằng nước dâng lên thì thuồng luồng lên. Lúc mất lũ thì thuồng luồng ở đâu chết ở đó. Và người ta thờ thuồng luồng ở nơi không ai ngờ được.

Trần Quốc Nghiễn nói:

– Kì lạ thật, hắn đã không làm gì ông à?

Trần Nhật Duật nói:

– Người Mông Cổ từ Thành Cát Tư Hãn đến nay đã trải qua nhiều đời Hãn khác nhau. Chúng đi tới đâu thì lại chịu ảnh hưởng của đạo giáo nới ấy tới đấy. Có người theo đạo Hồi. Có người theo đạo Phật. Có người theo đạo Lạt Ma Tây Tạng. Có người theo cả đạo La Mã. Đời Hãn Mông Kha theo lệnh của Khả Hãn mỗi đạo được cử một đoàn nhỏ địa diện để tranh biện về giáo lí.

Hoãng Mãnh hỏi Trần Nhật Duật:

– Mông Kha là thằng cha nào thế?

– Đừng có nói bậy. Mông Kha là anh ruột Hốt Tất Liệt, vị Khả Hãn đang là vua nhà Nguyên.

– Thưa đức ông, ngài là người giao du rộng, có bạn là nhiều người khách nước ngoài. Đức ông thấy triều đình nhà Nguyên đối với tôn giáo ra sao?

- Trước hết phải nói triều Nguyên là triều đình Mông Cổ khi đã chiếm được Trung Quốc. Đây là lúc đạo Phật đang mạnh nhất. Nhưng trước khi dung nạp đạo Phật người Mông Cổ trong lúc tung hoành thiên hạ thì đến đây thấy cái gì hay thì họ cũng dung nạp. Cho nên Hãn lều dung nạp các giáo sĩ thiên chúa giáo Nestor, còn các Hãn thuộc dòng Oa Khoát Đài, Tra Khát Đài lại dung nạp đạo Hồi. Nhưng nói chung người Mông Cổ có một luật riêng: đạo luật Yassa. Chính Thành Cát Tư Hãn đã dùng đá xếp đạo luật đó trên bờ đông của rặng Thiên Sơn. Đó là “Nếu trên trời chỉ có một thượng đế thì dưới hạ giới chỉ có một chúa tể là ta – Thành Cát Tư Hãn.” Như vậy theo đạo gì thì theo, người Mông Cổ là chúa. Cái vị khách đến thăm miếu hôm ấy có cái gì đáng chú ý mà ông muốn dặn dò chúng tôi?

– Thưa đức ông, theo tôi nghĩ việc này khá quan trọng. Thứ nhất viên tướng này là viên tướng to. Thứ hai y thấy miếu sơn thần trên núi mà lại thờ thần thuồng luồng làm cho y tỉnh ngộ điều gì đấy.

– Tướng trẻ vậy thì có thể chỉ là Thoát Hoan. Sơn thần là thuồng luồng thì có thể làm cho y liên tưởng đến hổ ra đồng bằng thì hết thiêng. Hoặc giả y nghĩ đến hành động ngược lại sở trường. Hổ hành động như thuồng luồng. Và ngược lại.

Các tướng cảm ơn ông đồng miếu sơn thần. Thưởng và cho ông về. Mọi việc đã rõ. Quân giặc sẽ hành động ngược lại cái gì xưa nay chúng vẫn làm. Và hai ngày nay chúng đã làm như vậy. Chúng phân tán đánh cả ban đêm, đánh bộ...

Trần Nhật Duật thông báo lệnh của triều đinh là cấm không cho một tướng nào có tước phong từ thượng vị hầu trở lên được đánh qua biên giới. Đồng thời cũng cấm không cho một tướng nào trá hình qua biên giới. Rõ ràng triều đình đề phòng những khó khăn trong việc bàn hòa khi kết thúc chiến tranh. Đồng thời cũng đề phòng có tướng bị bắt sẽ là điều kiện để cho địch đòi bồi thường. Khi được thông báo hai điều kiện này, Trần Quốc Tảng có vẻ bực bội. Đức ông Hưng Nhượng trong thâm tâm đang muốn đích thân trá hình qua biên giới. Bạn nối khố của đức ông đang bị kẹt ở đâu đó bên đất Trung Quốc. Đức ông muốn qua biên giới để cứu bạn. Và chắc hẳn triều đình biết rất rõ điều này nên mệnh lệnh trên hình như chỉ nhằm vào đức ông Hưng Nhượng.

Trần Nhật Duật khi lên biên giới có đem theo một ông hát xẩm kiêm nghề thầy mo người Dáy, một dân tộc ít người ở vùng Quảng Tây. Ông thầy mo này về Thăng Long để tìm gặp Trần Quốc Tảng nhưng không gặp mà chỉ gặp được Trần Nhật Duật. Đức ông Chiêu Văn biết ông thầy mo này mang tin của Đỗ Vĩ cho Trần Quốc Tảng nên khi lên biên giới, đức ông đã cho ông thầy mo này theo lên.

Đức ông Chiêu Văn để ông thầy mo này chờ trước cửa hành doanh và đưa Trần Quốc Tảng ra đón.