Chương 16
Trần Quốc Tảng đưa ông thầy mo vào hành doanh riêng của mình. Ông thầy mo này có người anh là bạn rất thân của Đỗ Vĩ. Ông ta mang theo những tin tức của ông anh báo về cho ông.
– Anh tôi sai tôi đến gặp đức ông và báo tin là anh tôi đã giao tín hiệu cho một cô gái người Việt là người hầu của bà chúa An Nam mang về. Cho đến nay đã có hai người chết vì nó bởi đây là một tín hiệu rất cần. Hiện nay tướng quân Đỗ Vĩ ở Trì thôn và được hai người bạn rất thân của anh tôi che chở. Tướng quân Đỗ Vĩ bị giặc giam lỏng. Nếu có thể được thì tổ chức đánh tháo cho tướng quân.
Trần Quốc Tảng xét thì cô gái mang tin về chính là Tầm. Như vậy tin tức đã đến nơi, còn Đỗ Vĩ không còn ở mạn Bắc nữa mà đã về giam ở Trì thôn. Trì thôn chỉ cách biên giới hai ba ngày đường. Rất tiện cho việc đánh tháo. Như vậy bây giờ chỉ có hai việc: một là bắt vài tướng giặc để làm vật trao đổi nếu cần, hai là tổ chức đánh tháo cho Đỗ Vĩ nếu được. Nhưng việc đánh tháo cho Đỗ Vĩ phải tiến hành trong khi tướng ta không được trá hình qua biên giới.
– Thưa đức ông, tôi sẽ dẫn người của đức ông đi đường núi đến Trì thôn. Hiện nay những người hát xẩm hát mo đều bị cấm không cho đi lại ở quanh Trì thôn, nhưng tôi có một ông chú ruột rất thông thạo đường lối bên đó, lại là ông lang thuốc cho nên làm việc này rất thuận lợi.
– Tốt lắm. Bây giờ ông hãy nghỉ ngơi, tôi sắp xếp kế hoạch, chiều tối ta sẽ lên đường.
Trần Quốc Tảng đưa ông thầy mo vào chỗ nghỉ còn đức ông đến gặp Quốc Nghiễn và Nhật Duật để bàn kế hoạch.
Quốc Nghiễn sẽ bảo đảm việc đánh bắt một vài tướng giặc. Còn Nhật Duật và Quốc Tảng sẽ bàn việc qua biên giới.
Trần Nhật Duât và Quốc Nghiễ suy nghĩ rất nhiều về tên tướng Mông Cổ đến thăn miếu sơn thần. Là tướng to thì chắc chắn rồi, còn có phải Thoát Hoan hay không thì chưa chắc. Nhưng dù nó là ai thì cũng là tướng to. Nhưng muốn tìm được nó trong cái đám giặc gần chục vạn người đôi bên thì quả là không phải chuyện dễ dàng.
– Trước hết là chúng ta phải lên chỗ cao để tìm xem nó ở đâu. Có phải ông từ cho biết hắn đội lông cáo bạc xứ tuyết và áo khoác bào trắng?
– Và hia đỏ, túi đeo cung cũng đỏ.
– Thằng này ra trận mà ăn diện như đi dạo phố.
– Đúng thế đó. Riêng cái mặt ăn mặc thì có thể khẳng định thằng này chính là Thoát Hoan.
Hai người đem theo mấy người lính tùy tùng vạch cây vén là trèo lên vách núi đá rất cao mé trái. Không tin ở ai quan sát, hai người đích thân leo lên một vách núi đá rất cheo leo bởi vì chỗ này không có cây cối nào có thể che được tầm mắt nhìn khoảng trống đầy lau sậy ở bên dưới. Từ trên cao dễ nhận thấy những vạt đồi yên ngựa lau sậy vàng úa chen lẫn những vạt đen để lại từ những đám cháy. Quân Nguyên dựng lều bạt khắp nơi. Các vọng canh đẩy ra xa nơi đóng quân của giặc đóng trải dài khắp nơi. Những lều dành cho tướng không nhiều, rải rác giữa những lều dành cho quân. Lều tướng mái phủ gấm. Cửa lều có màn che, bên trái là một lá phướn to.
– Như vậy chỗ này phải có tám tên Vạn hồ hầu. Đây là những tên chỉ huy một đơn vị một vạn quân, nhưng trong tám tên chỉ có hai tên là phướn màu vàng, đây chắc là A Lý Hải Nha và Thoát Hoan. Trong hai tên này lại chỉ có một tên ngoài lá phướng màu vàng còn có một lá quân kì kết bằng lông đuôi ngựa. Lông đuôi ngựa màu trắng. Đó là một dấu hiệu của nguyên soái. Vậy lều này là chỗ đóng quân của Thoát Hoan.
Cửa lều có quân kỳ đuôi ngựa có chừng hai ngũ lính hộ vệ canh phòng. Từ chỗ đó lên đến chỗ nấp của Trần Quốc Nghiễn và Trần Quốc Tảng khá xa. Nhưng nhìn vẫn rõ. Hai người nhìn thấy có người từ lều đi ra.
– Xem kìa thằng này đội mũ lông cáo bạc, áo chiến trắng.
– Túi cũng của nó màu đỏ, hia cũng màu đỏ.
– Đích thằng Thoát Hoan rồi.
Hai người bàn định cách đánh ngay tại trận địa. Họ chỉ cho nhau đường tới điểm đánh. Họ chỉ cho nhau phải bố trí những cánh quân hỗ trợ như thế nào để cản không cho giặc có thể ngăn trở mũi nhọn xung kích.
– Tướng chỉ huy mũi đánh phải là một mãnh tướng. Tôi nghĩ ra một người rồi.
– Cháu cũng nghĩ ra người ấy.
– Vậy cháu thử nói tên người ấy là ai. Phải là một mãnh tướng kiêu hùng dám hi sinh tính mạnh, chỉ huy một mũi dao nhọn rất nhỏ rất sắc rất nhọn đánh xuyên sâu vào lòng địch, mặc cho kẻ địch sau khi bị xuyên qua bọc lại muốn vây bắt sống.
– Đó là người em kết nghĩa của đức ông – Minh tự Hoàng Mãnh.
– Đúng người ta chọn nhưng chỉ hiềm Hoàng Mãnh bị thương xả vai trong trận Chương Dương.
Trần Nhật Duật không nói tiếp thêm là nhát kiếm này đáng ra chém vào Trần Nhật Duật nhưng Hoàng Mãnh đã hứng lấy vì anh lao vào cho nên kiếm bị lạng đi. Nhát kiếm chém không vào sâu chứ nếu không chí ít Hoàng Mãnh sẽ cụt tay.
– Ta đề nghị tướng chỉ huy mũi này là Nguyễn Địa Lô, không ai xứng đáng hơn viên tướng này. Anh ta là người chỉ huy toán quân bắn chết Trần Kiện.
– Cháu đồng ý.
*
* *
Trận đánh diễn ra lúc sẩm tối, mũi chủ công chỉ có một trăm người, chọn cẩn thận, sức khỏe, võ nghệ, tinh thần chiến đấu. Những người này được giao cho Nguyễn Địa Lô. Đức ông Trần Quốc Nghiễn là người đứng ra giao mệnh lệnh. Quốc Nghiễn nói:
– Đây không phải là một trận đánh lớn nhưng lại là một trận đánh có mục tiêu lớn. Chúng ta phải đánh xuyên vào hàng ngũ quân giặc, bắt cho được tướng giặc. Công lớn là ở chỗ thắng lợi này có thể cứu được bạn đồng ngũ cua chúng ta.
Binh lính đồng thanh reo vang: Tuân lệnh!
Để mờ màn hai nghìn quân khiên nỏ xuyên vào hàng tận đã chọn sẵn, một trăm quân tính luyện đã chọn sẵn, xoáy sâu vào chỗ mũi nhọn đã khoan thủng, đánh rất nhanh vào hàng ngũ giặc. Họ không ngoảnh lại bắt tù binh, họ không ngoảnh lại kết thúc tính mạng của những tên giặc mà đánh như chớp vào hướng căn lều có trận có phướn, có quân kì đuôi ngựa. Nói thì chậm nhưng mà thực hành thì nhanh. Chỉ nhoáng cái họ đã đến trước căn lều trận trước khi quân giặc có một phản ứng nhỏ, bấy giờ người trong lều trận mới túa chạy ra. Nhưng giữa nhưng người lính đánh mũi tiêm đạo với căn lều trận lại có một hẻm suối hẹp rất sâu chắn ngang, hẻm suối này từ chỗ cao Trần Nhật Duật và Trần Quốc Nghiễn không nhìn thấy. Hẻm suối đã ngăn những người lính không thực hiện được chiến công bất ngờ của họ. Khi họ vượt qua suối và lên được bờ bên kia thì chỉ kịp nhìn thấy tên tướng giặc và đám tùy tùng chạy về sau. Nhưng cũng đủ làm cho bọn giặc mất vía. Mũi tiêm đạo và hai nhìn quân mở đường đánh một vệt dài vòng sang mé tái quay về hàng trận mình. Mé trái là rặng núi cao, là trận địa của quân ta cho nên giặc không dám đuổi theo.
Trận đánh làm cho Trần Quốc Nghiễn và Trần Nhật Duật thất vọng. Một hẻm núi là hỏng một trận chiến chắc thắng.
Nhưng trận đánh lại làm cho hàng ngũ giặc hoang mang mất tinh thần. Mờ sáng tướng giặc họp hội nghị ngay tại mặt trận.
A Lý Hải Nha, Thoát Hoan và các vạn hồ hầu khác họp ngay để bàn và nhận định về trận đánh vừa qua.
A Lý Hải Nha nói:
– Rõ ràng là nó đánh là để bắt cóc tướng. Tại sao mũi đánh lại xoáy vào lều trận của nguyên soái.
Bọn chúng bàn và nhận ra rằng mục đích của quân Đại Việt đúng là như vậy. Vậy thì cờ phướn phải hạ xuống không trương ra nữa. Mũ lông cáo bạc xứ tuyết, áo bào trắng sẽ bỏ không dùng nữa. Giày đỏ, bao tên đỏ, bao cung đỏ cũng thay đổi. Các tướng từ Vạn hộ hầu trở lên đến A Lý Hải Nha và Thoát Hoan đều phải thay đổi chiến phục, mặc lẫn vào như đám chiến binh thường. Lúc trời sáng mọi việc đã được tiến hành theo như lệnh bàn. A Lý Hải Nha và Thoát Hoan đi quan sát trận địa. Đây là những đơn vị thiện chiến của Mông Cổ của người Man bạch y, của người Thiện Xiển. Họ đang nấu cơm sáng. A Lý Hải Nha sà xuống một bếp người Mông Cổ đang nướng thịt dê. Lính Mông Cổ dọn chỗ mời chánh phó nguyên soái cùng ngồi. Thoát Hoan ngồi xuống cạnh một người lính, đó là một người lính còn rất trẻ, anh ta chưa tới hai mươi. Thoát Hoan hỏi:
– Mi tên gì?
– Gu-úc, thưa tướng quân.
– Cha mẹ còn không?
– Mẹ tôi còn hiện nay ở thung lũng sông Kê-ru-lan. Còn bố tôi chết rồi. Chết trong trận đánh nước Nam Tống ở hồ Phiên Dương.
– Có anh em gì không?
– Thưa, tôi là con một.
– Người tòng chinh đã lâu chưa?
– Thưa, hai năm.
– Vậy thì kì này về đến nước ta sẽ cho anh về phụng dưỡng mẹ già.
Thoát Hoan và A Lý Hải Nha đi xem tình hình mặt trận. Trong đám tùy tùng ta thấy có người lính trẻ Gu-úc. Mặt trận lúc về chiều càng tăng vẻ thê lương ảm đạm sau những trận nóng kéo dài ngày, rừng cây lá xanh đen không chút sinh khí. Không khí càng ngột ngạt khi màn đêm sắp sửa buông xuống. Cả một vùng rộng lớn dưới quyền kiểm soát của quân Nguyên các bếp đang bốc khói. Sắp đến bữa chiều. Theo phong tục của quân Nguyên khi đnag tấn công mà bình thường chúng là quân tấn công, thì mặt trời đã lặn trận chém giết tạm thời dừng lại chờ ngày hôm sau. Nhưng ở đây quân Nguyên là quân đang bị tấn công, đang bị đánh. Cho nên khi mặt trời lặn thì không phải là lúc trận đánh tạm dừng. Có thể khi ấy quân Việt lại đánh. Quyền đánh hay không đánh ở chiến trường là ở tay họ. Mé bên trái vẫn là dải núi cao vách đã. Đấy là nơi ẩn náu của quân Việt. Tối nay họ có đánh không? Không biết nữa!
A Lý Hải Nha bảo:
– Ở cuối trận địa có một làng nghề rèn thép, đúc đồng. Đây có lẽ là một quân xưởng, ta lại xem đi.
Nhìn quang cảnh thì đúng là một quân xưởng. Có thể là một quân xưởng lớn bằng vào những dụng cụ lao động còn vứt lại. Những bễ lò rèn rất lớn, loại bễ thường chỉ dùng để rèn những chiến cụ của quân thủy như mỏ neo, bờ bến. Những lò nung đồng cực lớn, các khuôn đúc đồng còn bỏ lại cái vỡ đôi, cái vỡ ba. Đây là những khuôn đúc chiêng đồng, trống đồng, những dụng cụ thông tin trong quân đội.
Thoát Hoan nhìn những khuôn đúc đồng, vị nguyên soái quân Nguyên nghĩ đến những chiêng trống quân Việt đã dóng lên trong những trận chiến vừa qua. Thoát Hoan còn nhớ tại mặt trận sông Cầu dàn trống đồng quân Việt bày trên bờ sông ngay trên bãi cát ven sông đối diện với hướng bỏ chạy của quân Nguyên. Khi Thoát Hoan dẫn quân xuống bãi, dàn trống đồng không bỏ chạy mà lại dóng lên khúc quân tranh. Nghe tiếng trống, theo lệnh trống, quân Việt từ thượng lưu và hạ lưu sông cùng túa ra đánh ập lại. Quân Nguyên không còn chí khí chiến đấu, bỏ chạy về phía mặt năm, liều chết phá vây mở một đường máu. Trận này Thoát Hoan nhớ mũi phá vây rất mệt nhọc rất gian nan nhưng mở được vây và giết được tướng địch chặn đánh – đó là một tướng trẻ, quá trẻ.
A Lý Hải Nha bình tĩnh nói:
– Cuộc chiến đã đến hồi kết thúc. Cuộc này chúng ta đã thua. Phải thực thà mà nhận định như vậy. Có nhận định như vậy chúng ta mới có can đảm quay lại đánh báo thù. Người Hán có một câu châm ngôn: “Đợi mười năm trả thù không phải là muộn.” Đấy mới là ý chí chủ đích đáng của người anh hùng. Bây giờ chủ yếu là tìm đường thoát, và thoát cho bằng được.
Đoàn tùy tùng lại ra sức quan sát trận địa. Mặt trời đã lặn sau đỉnh núi, phía tây, chiến trường tối lại rất nhanh, tất cả đều một màu xanh đen sẫm. Bên phía quân Việt vẫn im lìm bất động. Thỉnh thoảng một tiếng tù và rúc lên, những tiếng tù và trong chiến tranh là một hiệu lệnh gì đấy nghe đầy chết chóc và tang tóc. Khói lam chiều đã gần lẫn vào màu xanh đen của rừng, quân Mông Cổ đã ăn cơm chiều và sẵn sàng ứng chiến, gọi là ứng chiến cho oai chứ thực ra là sẵn sàng giữ mình. Thoát Hoan chợt thấy vẳng lên trong tâm hồn bài tang ca của bị đại hãn đầu tiên – Thành Cát Tư Hãn. Bấy giờ quân Mông Cổ vây đánh nước Tây Hạ. Vây gần tuyệt lương nhưng quân Tây Hạ chưa chịu đầu hàng. Hai bên chiến đấu mãi, chiến đấu mãi cho đến một hôm Thành Cát Tư Hãn trúng một mũi tên ở gót chân. Với một chiến tướng cả đời chinh chiến, một mũi tên ở gót chân có là gì. Thành Cát Tư Hãn vẫn đốc thúc quân vây đánh thành. Mỏm thành phía đông bị đanh sập, quân Tây Hạ phản công lấy lại mỏm thành. Mỏm thành phía tây lại bị đánh sập, quân Tây Hạ lại phản công lấy lại mỏm thành. Đến khi đánh mỏm thành phía nam, lúc gần lấy được mỏm thành thì cũng là lúc vết thương ở gót chân của Thành Cát Tư Hãn nhiễm độc, cái chân trái sưng to như cái cột nhà. Chính vào lúc mỏm thành phía nam bị hạ cũng là lúc Thành Cát Tư Hãn từ trần. Các con của Thành Cát Tư Hãn: Mục-ca-li. Giê-bê, Giê-mê giữ kín tin Thành Cát Tư Hãn băng hà. Chỉ đến khi hạ xong thành, bàn xong việc đưa đại hãn về an táng ở ngọn nguộn sông Kê-ru-lan thì tin băng hà mới được tung ra.
Thi hài của đại hãn được đặt trên cỗ xe chiến, hai bên là hai hàng dũng tướng Vạn hồ hầu đi hộ vệ. Sau xe là các bà phi, các vương tử tiễn đưa Người về sông Kê-ru-lan.
Con mãnh sư của bộ tộc, sứ giả của thượng đế
Con của trời xanh, ôi thượng linh
Ngài bỏ tất cả bộ tộc trung thành và giã biệt chúng con ở đây
Xa kia là đất người sinh thành xưa.
Xa nọ là nơi các bà vợ yêu dầu và nhà nước hùng mạnh
Chung quanh là các chiến binh cứng rắn
Các quầng sao của dân
Tất cả vương quốc lập trên luật lệ là đây, nơi ông sinh ra, nước gột rửa cho ông.
Dân hưng thịnh các hoàng thân quý giá cực thịnh và đất nước Bun-đắc trên dòng sông Ô-nôn quê ông.
Cờ của bộ tộc bằng lông đuôi ngựa chiến tia. Kèn, trống, sáo, thảo nguyên bên dòng Kê-ru-lan nơi ông xưng hãn.
Nàng Boóc mà khi xưa còn bé thơ đã được chọn làm vợ
Tất cả ở kia
Miền chôn rau cắt rốn hạnh phúc dân quê huy hoang, Boóc-ca, Mục-ca-li những chiến binh đồng ngũ tất cả ở kia
Vợ, tả hữu, công chua Ka-lan thân yêu tất cả gần đại hãn
Đến đây bài tang đột nhiên trở nên rầu rĩ
Mày
Bởi vì xứ sở có Diêm vương cai trị nóng hơn nước của dân tộc ta, dân nó đông bạt ngàn và chưa chịu luật của mày như ả hoàng hậu Tây Hạ
Nàng Ka-tun xinh đẹp
Mày bỏ dân mày đi hay không chúa tể
Bọn tao chẳng còn làm vách lũy cho mày
Chúng tao đưa lĩnh cữu mày đến quê cha đất tổ để thỏa lòng trăm họ và ở đấy bà Boóc nhìn thấy mày
Ôi đại hãn mày đã bỏ chúng tao mà đi
Bản tang ca vang lên trong lòng của Thoát Hoan.