← Quay lại trang sách

Chương 18

Đỗ Vĩ tựa cửa sổ nhìn lơ đãng phong cảnh quanh Trì thôn. Anh nhớ lại trước đây gần hai tháng một trong những ngày vừa vui vừa buồn hiếm hoi trong cuộc đời của anh.

Đó là một buổi chiều trời trong mát như ngày thu đất Việt. Đó là ngày vui của Phụng chúa Ly Ly, Phụng chúa thành hôn với chàng trai trẻ người Việt Lê Huy. Phụng chúa và Lê Huy đã đích thân đến mời Đỗ Vĩ và họ nhấn mạnh anh phải có mặt trong lễ cưới của họ.

Là đám cưới của Phụng chúa cho nên tất cả các chim phượng trong vùng đều có mặt. Theo chân các chim phượng là các danh nhân tài tử hào hoa mé nam sông. Chỉ cách nước Đại Việt chưa đầy mươi ngày đường mà cuộc sống khác hẳn. Nơi kia là chiến tranh, là chết chóc, đốt phá, bắn giết; còn nơi đây là hoan lạc, là rượu tràn trề, là hương phấn son. Nơi kia là những gương mặt tang tóc, là khóc lóc rền rĩ; nơi đây là những nụ cười như hoa nở, là liếc mắt đưa tình. Mặc dù trong lòng sôi động vì thương nhớ, vì đau buồn nhưng vẻ mặt Đỗ Vĩ cứ thản nhiên như không, thậm chí anh còn cười được, cười rất tươi, cười rất mặn mà. Một cây hồ trong tay, anh đàn một bản Phụng cầu hoàng tặng cho vợ chồng mới cưới. Mặc cho tài tử trong tiệc khá đông, nhưng đa số các chim phụng cứ vây lấy chung quanh Đỗ Vĩ, họ đối ẩm với anh và anh không từ chối một ai. Họ đồng thanh ghép cho anh một chim phượng rất trẻ. Đó là nàng Hạnh Hoa, một cô gái người Miêu Cương đẹp huyền bí như rừng núi. Và từ lúc ấy Hạnh Hoa cứ đeo bám lấy Đỗ Vĩ. Anh nhìn đôi mắt của cô nàng, mắt nâu và lòng trắng xanh lơ ngây thơ tưởng cuộc đời chỉ là hạnh phúc và hoan lạc. Đỗ Vĩ không nỡ từ chối cô gái, anh cầm tay cô gái dắt đi trong tiệc rượu. Đại sảnh rộng mênh mông, người rất đông, rượu ngon chảy tràn trề, tiếng cười, tiếng hát điệu Triều Châu, Quảng Châu, tiếng đàn tiếng phách chen lẫn với tiếng rít của cây vĩ đàn hồ cầm. Đỗ Vĩ đưa Hạnh Hoa đến đám đánh cuộc uống rượu. Người đang cầm chịch ở đám này là An Nha, ông tướng mới mất chức chỉ huy Lư Châu. Tham gia đám này có cả chú rể và cô dâu. Vừa trông thấy Đỗ Vĩ, An Nha kéo Đỗ Vĩ vào:

– Vào đây, tiên sinh vào đây, Tôi giới thiệu với tất cả, đây là nhà danh hoạ Đỗ Vĩ.

Đỗ Vĩ là người cả vùng này hầu như ai cũng biết tiếng nên tất cả ồ lên reo mừng, họ đều muốn làm quen với anh.

Liên tiếp ba tuần rượu là ba tuần rượu mừng, không có rượu phạt. Sau những câu đưa đẩy giao đãi, An Nha kín đáo kéo Đỗ Vĩ ra một nơi cho biết An Nha đã chuyển sang một chức quan văn nhưng An Nha sẽ bỏ chức quan về ẩn ở vùng hồ Phiên Dương. Khu hồ này có một vùng rất hoang vu. Ở đây thật đáng cho Phạm Lãi về ở ẩn. An Nha rủ Đỗ Vĩ về cùng mình ở đó:

– Tiên sinh về cùng tôi. Cuộc đời chẳng có gì đáng lưu giữ, tất cả chỉ là giả dối tranh giành danh lợi. Tất cả chỉ là trò bạc bịp. Tiên sinh cho Hạnh Hoa đi theo đi. Thế mới là Phạm Lãi Tây Thi thời mới.

Đỗ Vĩ bật cười:

– Tôi không có tài làm tướng thì đâu có vụ bỏ ấn từ chức, đem người đẹp đi chơi vùng sông hồ.

– Ngay cả Phạm Lãi so với ngài cũng không bằng.

– Ở đất này tôi là người ngoại quốc, ở đâu tôi cũng là người ở ẩn.

– Nhưng ở đây thì có nhiều người nhận ra tiên sinh, có ở ẩn được hay không?

– Lời nói của tướng quân rất hấp dẫn, nhưng cho phép tôi nghĩ ba ngày.

– Tôi còn ở đây ba ngày. Đến ngày thứ tư tôi sẽ bỏ quan về hồ Phiên Dương.

Tiệc cưới cứ hoan lạc diễn ra mãi đến nửa đêm khách ra về lần lượt, vợ chồng Phụng chúa tiễn An Nha và Đỗ Vĩ ra cửa. Đến lúc này Đỗ Vĩ mới tặng Phụng chúa một cặp xuyến ngọc thạch nạm đá đỏ rất quý. Đỗ Vĩ nói:

– Đây là ngọc thạch và ngọc đỏ của xứ Giao Chỉ, người ta chỉ tặng xuyến ngọc cho em gái của mình. Cô là em tôi, xin nhớ lấy.

Phụng chúa khom lưng bái tạ.

* * *

Đỗ Vĩ bâng khuâng ngắm cảnh Trì thôn trước mắt đang đi vào lúc hoàng hôn. Đây là cảnh đã bắt đầu vào thu. Rừng cây chung quanh đã bắt đầu đỏ lá. Con đường ruột dê từ đỉnh đồi ngoằn ngoèo xuống dốc. Chân dốc là trạm tiêm binh gồm toàn lính tinh nhuệ giỏi võ của Vạn hộ hầu A Rích kén chọn và chỉ huy, mỗi tên là một cao thủ, tuy đối phó với Đỗ Vĩ thì không tên nào địch được với anh nhưng họp sức lại chúng thừa sức cản đường Đỗ Vĩ không cho thoát đi.

A Rích là một viên tướng rất tinh tường, y không có một sơ suất nào trong việc đối phó với kẻ bị giam của y. Lệnh từ hành trung doanh Thoát Hoan xuống cho y: giam lỏng không cho thoát nhưng đủ lễ kính trọng tên tù.

Vì coi Đỗ Vĩ là anh em kết nghĩa của một hoàng thân dòng hãn Lều Vàng, dòng hãn đã ủng hộ cho Hốt Tất Liệt được trúng cử đại hãn trong Ku-rin-tai mới đây cho nên Hốt Tất Liệt và con em phải kính trọng những anh em kết nghĩa của hoàng thân hãn Lều Vàng.

Đỗ Vĩ nhìn xuống dưới. Những kẻ canh phòng không hề lơi lỏng. Mới đây chúng đổi phiên. Một trăm tên chia bốn ngả ra bốn phía tới bốn vọng đổi phiên. Mặt trời đằng tây đã khuất núi, trời tối sầm lại. Bất chợt từ phía nam lên có hai cánh chim xẹt tới: một con chim bồ câu và một con chim cắt. Chặng đường này gần, con bồ câu chưa bỏ xa chim cắt, hai con cùng như một lúc đáp xuống nóc của trạm. Đỗ Vĩ biết rằng đây là chim đưa thư, chim của hành doanh đang tiến đánh Đại Việt. Chắc rằng có tin mới. Nhưng tối hôm ấy không có cái gì lạ xảy ra. Đỗ Vĩ suy nghĩ suốt đêm. Bây giờ là thời gian đôi bên phải có quyết định. Nhưng Đỗ Vĩ nghĩ quyết không thể để kẻ địch nhận thấy mình chú ý đến điều đó. Tốt nhất là chờ cho kẻ địch lộ diện.

* * *

Vạn hộ hầu A Rích đọc cả hai bản mệnh lệnh do chim bay mang tới. Trong chiến tranh lệnh do phi cáp truyền thư bao giờ cũng là lệnh gấp. Thế mà lệnh này được mang đến từ một chim câu và một từ chim cắt chứng tỏ cấp trên muốn mệnh lệnh phải đến tận tay A Rích. Vậy thì đó là một mệnh lệnh quan trọng phải thực hiện bằng được. Đó là y chưa biết có hai bản mệnh lệnh nữa đi hành tỉnh Xuyên Châu. Nhưng dù sao mệnh lệnh quan trọng đã đến tay A Rích. Tờ lệnh viết:

“Xử tử tù binh Đỗ Vĩ. Xử tử bí mật. Cho được toàn thây. Có thể chọn giữa thắt cổ đến chết và hạ độc. Nhận được mệnh lệnh này thi hành ngay”. A Rích được chọn giữa hai hình thức là thắt cổ và hạ độc. Chọn thắt cổ thì đơn giản hơn. Có thể thi hành ngay trong đêm nay. Nhưng bằng võ công của Đỗ Vĩ mà A Rích biết được thì chưa chắc đã êm thấm. Có thể cuối cùng vẫn thắt được cổ. Nhưng có thể máu vẫn đổ, và như thế là chết không toàn thây. Cho nên A Rích chọn hạ độc. Nhưng Đỗ Vĩ là một con người khá nổi tiếng ở miền nam Trung Quốc, lịch lãm, giang hồ, từng trải. Một con người như thế này hạ độc cách thông thường chưa chắc đã thành công. Phải hạ độc bằng một phương thức độc đáo. Nhưng muốn như vậy phải mất mười ngày chế thuốc.

A Rích hội quân lại ra nghiêm lệnh: việc canh phòng tù binh diễn ra không được có một sai sót nhỏ. Còn A Rích đích thân đi cách xa bốn dặm để chế độc. Hàng ngày A Rích sẽ phải mất một trống canh buổi tối để luyện độc. Đây là một loại độc dược gốc từ Miêu Cương, không màu không sắc, người trúng độc sẽ không có cảm giác gì khác, có điều ba ngày sau mới phát tác. Mà phát tác trong lúc ngủ để không bao giờ trở dậy nữa. Độc này không có thuốc chữa. Nhưng có thuốc phòng. Đó là rượu. Thông thường tâm lí người đề phòng bị hạ độc bao giờ cũng đề phòng rượu, nhưng trường hợp này mỗi lần uống rượu thì chất độc sẽ theo mồ hôi tiết ra. Và uống ba ngày thì độc sẽ ra hết. Nhưng người bị hạ độc, hoặc đề phòng bị hạ độc đều không dám uống rượu, thành thử chắc chắn không giải được độc và sẽ chết.

Đỗ Vĩ xưa nay vẫn coi A Rích là người nông nổi phổi bò, chắc không thể nào ngờ A Rích sẽ phát xuất được mẹo hiểm.

Đỗ Vĩ chờ A Rích có hành động báo hiệu. Và ngược lại. Nhưng từ buổi chiều có hai con chim đáp xuống Trì thôn có thể là chim đưa thư nhưng vẫn không hề thấy có sự động tĩnh gì ở trạm Trì thôn. Mỗi buổi chiều vẫn như thường lệ A Rích lại lên thăm Đỗ Vĩ, khi lên vẫn có một bình rượu ngon đưa tặng. Cứ mỗi bận như vậy Đỗ Vĩ bày ra hai chén rót luôn rượu vào mời A Rích cùng uống. A Rích để ý thấy chén rượu của Đỗ Vĩ vơi đi nhưng tay áo của anh ướt rượu. Chứng tỏ Đỗ Vĩ ngại uống rượu của A Rích. Những lần sau là những loại rượu thơm như mai quế lộ, bồ đào tửu là những loại rượu dễ hạ độc vào. Đỗ Vĩ vẫn thản nhiên như không, cười nói chuyện vui. Nhưng sau A Rích sai người rình từ xa. Thế rồi có một lần sau khi A Rích ra về tên thủ túc của A Rích từ đằng xa nhìn qua rèm thấy Đỗ Vĩ đổ rượu xuống đất. A Rích vẫn chưa tin là mẹo của mình đã đắc thế. A Rích rủ Đỗ Vĩ đi thăm chợ Trì thôn vào phiên. Ở chợ A Rích kéo Đỗ Vĩ vào hàng rượu rủ Đỗ Vĩ nếm đủ thứ, rượu này rượu khác. Đỗ Vĩ đã khéo léo uống và sau mỗi lần phất áo bào qua miệng, Đỗ Vĩ lại phun rượu ra tay áo.

Một buổi chiều sau lần thay phiên canh, có một đoàn quân hộ tống hai cái võng vào trạm. Đó là hai cô hầu của công chúa An Tư. Viên vạn hộ hầu hộ tống hai cô nói với A Rích:

– Lệnh của nguyên soái là cho tôi đưa hai cô nàng đi chuẩn bị chỗ ở cho phu nhân của nguyên soái. Họ đưa hai cô vào chỗ ở, đêm nay nghỉ tại Trì thôn. Mai sớm sẽ chọn địa điểm cho lệnh bà phu nhân của nguyên soái. Nhưng họ đến Trì thôn còn mang cả những tin tức sống động về cuộc chiến giữa Nguyên và Việt. Cuộc chiến gần như ngã ngũ rồi. Chỉ dăm hôm nữa thôi có thể nguyên soái sẽ về qua đây. Trì thôn phải chuẩn bị sẵn lương thực đón mấy vạn quân rút qua. Cho nên chung quanh Trì thôn náo loạn hẳn lên, tin thua trận rút chạy làm cho dân chúng cũng hoảng hồn ai nấy chuẩn bị thu xếp đồ đạc, đồ quý giá đem giấu vào núi đề phòng lúc quân địch đánh sang tới đây. Tình hình này cũng hợp với mưu sâu của A Rích. Việc luyện thuốc đã được sáu ngày rồi. Đến lúc ấy vừa hạ độc, vừa đón quân của nguyên soái về qua. A Rích tin rằng mẹo của y chắc chắn thành công. Đỗ Vĩ tỏ ra rất đề phòng chuyện hạ độc. Nhưng cũng chính vì thế việc hạ độc mới thành công. Bữa nay có hai cô nàng người Việt đến nơi, tốt nhất là mở một tiệc nhỏ mừng hai cô nàng, đồng thời mời Đỗ Vĩ cùng dự để đánh tan sự nghi ngờ.

* * *

Họ đưa hai cô gái Việt vào nhà làm việc của trạm Trì thôn. Hai cô được đối xử như thượng khách, còn hơn thượng khách là khác. Một cô tên là Thuỳ, một cô tên là Liên. Họ đều là người trong đội thị nữ được triều đình Việt tuyển chọn cho theo hầu công chúa An Tư đi lấy chồng. Công chúa An Tư coi việc đi lấy chồng này là bị cưỡng bức và làm nhục thì đội thị nữ cũng coi như bị cưỡng bức và làm nhục. Trong hai cô, cô Thuỳ tính đằm hơn còn cô Liên sôi nổi; cả hai cô đều mất đi tính vui mừng. Vượt qua biên thuỳ, không còn nghe thấy tiếng mẹ đẻ. Trước đây ở trong quân của Thoát Hoan mặc dù chung quanh chỉ toàn là tiếng nước ngoài, tiếng Ui-gua, tiếng Hán, tiếng Đại Lý, tiếng Bạch Y, tiếng Miêu Cương nhưng vẫn còn tiếng Việt ở trong đám dân bên ngoài, ở trong đám tù binh bên trong. Đã một ngày nay qua biên giới hiện tượng này không còn nữa. Trong tâm hồn của hai người, quê hương xứ sở đã qua lâu rồi, chung quanh chỉ còn là tiếng động, những tiếng động ồn ào vô tổ chức, không có tiếng của con người nói với nhau. Vạn hộ hầu A Rích nói với hai cô:

– Nguyên soái đã lệnh cho chúng tôi chọn nơi ở cho lệnh bà An Tư. Nơi ở phải thật xứng đáng với vị thế của bà. Chọn nơi nào thì phải được hai cô đồng ý thì mới được. Hôm nay hai cô đi đường đã mệt, hai cô hãy nghỉ tại đây. Ngày mai tôi sẽ đưa hai cô đi thăm nơi định chọn. Nguyên soái biết các cô rời xa quê hương chắc cũng không vui cho nên đã ra lệnh cho tôi tìm cách giải khuây cho hai cô.

– Cả tôi và chị Thuỳ đây chỉ buồn vì tới đây không được nghe tiếng nói của quê tôi. Còn thì hai chúng tôi rất cảm ơn tướng quân đã chăm sóc cho chúng tôi chu đáo.

– Thế thì hai cô yên trí. Sáng mai tôi có cách để hai cô được nghe tiếng của quê hương xứ sở. Ý của A Rích là cho hai cô được gặp Đỗ Vĩ. Điều này có hai cái lợi cho y. Một là hai cô được chiều đãi sẽ vui lòng. Hai là Đỗ Vĩ được chiều đãi sẽ giảm nhẹ sự nghi ngờ đề phòng. Như vậy mẹo hiểm của A Rích rất dễ thành công. Vả chăng ba hôm nữa thuốc đã luyện xong.

Buổi tối hôm ấy là một bữa tiệc nhỏ mở ngay tại trạm. A Rích không sợ bị lộ vì chim câu và chim cắt đã bị giết ngay sau khi đưa thư đến nơi. Tối hôm ấy, A Rích vẫn đúng lệ đi luyện thuốc một trống canh. Khi đi về hỏi tả hữu được biết hai cô thị nữ của công chúa An Tư đã đi nghỉ, A Rích an tâm. Hắn thảo một thông tư cho dán ở Trì thôn và mười dặm chung quanh cấm bất cứ một người lạ nào bước chân vào khu vực hành binh, ai trái lệnh sẽ bị xử tử.

Từ sân sau nhà trạm, Liên nhìn lên căn lều trên đỉnh đồi cao. Một con đường ruột dê ngoằn ngoèo từ chân đồi lên đỉnh. Dưới chân đồi là một trạm canh. Rõ ràng căn nhà này có ẩn giấu một cái gì khác lạ. Có tiếng nói bên cạnh tai Liên, đó là tiếng nói của Thuỳ:

– Căn nhà được quân Nguyên canh phòng này hẳn có ẩn giấu sự gì bí mật.

– Ồ, chị làm em giật mình, em chợt nghĩ chọn ngay chỗ này làm nơi ở của lệnh bà An Tư là vừa khéo. Đây là một nơi ở kín đáo, lại được canh phòng cẩn mật. Mà đây lại là nơi có cái gì bí mật mà ta muốn xem. Hai chị em nhất trí với nhau. Lúc mặt trời lên, A Rích đến mời hai chị em đi xem một số nơi để chọn làm nơi ở cho công chúa An Tư thì Liên chỉ ngay lên ngôi nhà và hỏi:

– Kia là nơi ai ở?

– Tôi cũng định mời hai cô nương lên đó xem. Đấy là nơi có một thượng khách người Việt ở. Ngày mai sẽ mời hai cô nương lên đó dự một bữa tiệc nhỏ.

Và A Rích đưa hai chị em đi xem một số nơi trong vùng, có thể đây là những nhà riêng của quan địa phương, một số chùa quán… Tất cả những địa điểm này có thể có những điểm phù hợp với lựa chọn nhưng Thuỳ và Liên đều đồng thanh nói rằng có thể sẽ chọn một điểm nào đấy vào ngày mai, sau khi dự bữa tiệc trên ngôi nhà ngọn đồi. Hai chị em muốn biết ai là người ở trên ngôi nhà đó.

Đỗ Vĩ chợt thấy có tiếng người léo xéo bên ngoài, tiếng con gái, tiếng Việt. Anh giật nảy mình. Từ ít lâu nay anh thèm nghe tiếng nói của người Việt, anh cảm thấy mình rất cô đơn. Và những người lạ đẩy cửa vào chòi của anh như vào chỗ không người. Đó là hai cô gái và mấy người lính Mông Cổ do Vạn hộ hầu A Rích dẫn đầu. Bước chân vào lều, hai cô gái im bặt không nói nữa. A Rích nói:

– Đỗ Vĩ tiên sinh, đây là lệnh của thượng cấp, tôi buộc phải tuân theo. Hai cô gái này là người hầu của phu nhân nguyên soái chúng tôi. Hai cô có mệnh lệnh đi chuẩn bị chỗ ở cho phu nhân chúng tôi. Đỗ Vĩ nghĩ thầm: té ra là người hầu của công chúa An Tư đi lo chỗ ở. Và anh chợt thấy không phải mình thèm nghe tiếng Việt. Mà chính là mình muốn nghe tiếng nói của đồng đội, vậy mà hai cô này không phải đồng đội của mình. Anh lạnh lùng trả lời:

– Tướng quân còn phải tuân lệnh nữa là thứ tôi.

– Đâu có, tiên sinh nói quá. Tiên sinh không phải dưới quyền ai cả. Hai cô này muốn xem nơi ở của tiên sinh có thích hợp làm chỗ ở tạm của phu nhân tôi hay không.

– Nếu thích hợp thì sao, tôi phải dọn đi à?

– Đâu có. Nếu hai cô chọn nơi này làm chỗ ở tạm cho phu nhân, thì tôi sẽ thu xếp chỗ ở khác cho tiên sinh.

– Còn hai cô nghĩ sao?

Hai cô gái chỉ mới trạc đôi mươi, mặt mũi thông minh đôn hậu. Một cô có chiếc răng khểnh khẽ lé ra mỗi khi mỉm cười làm cho cô càng có vẻ tinh nghịch. Cô ta trả lời:

– Em là Tiểu Thuý. Chúng em được lệnh chọn sẵn chỗ ở cho chị chúng em. Trong đoàn tuỳ tùng của công chúa, chúng em coi nhau như chị em. Tuỳ tiên sinh đánh giá thế nào cũng được nhưng chúng em được công chúa coi như em.

– Vậy sao lại phải chọn chỗ ở cho công chúa?

Lúc này hai người nói với nhau bằng tiếng Việt. A Rích nghe không hiểu mặt cứ ngẩn tô. Cô kia chen vào:

– Tình hình là thế này: Quân Nguyên sắp rút về nước. Nguyên soái Thoát Hoan đem công chúa theo. Công chúa sẽ phải theo quân nhưng sẽ được ở một nơi riêng biệt.

Đỗ Vĩ trả lời ngay:

– Tức là họ tìm một chỗ ở vừa giữ chắc người ở, vừa cách li với chung quanh.

– Còn em là Liên, như vậy tiên sinh đã nói đúng. Một chỗ giam lỏng tù. Nhưng là loại tù được chiều, được đãi.

Đỗ Vĩ bật cười:

– Vậy tôi cũng là loại tù được chiều, được đãi chăng?

Và anh nhanh chóng xoá đi sự ngẩn ngơ của A Rích. Anh dùng tiếng Trung Quốc nói với A Rích:

– Hai cô này muốn chọn chỗ này làm nơi ở. Tôi không hiểu tại sao họ lại chọn chỗ này, leo lên đã mệt, muốn rong chơi ngắm cảnh chẳng có chỗ nào mà đi. Mà nếu lấy chỗ này làm chỗ ở thì tôi phải đi đâu. A Rích cười:

– Tiên sinh sẽ có chỗ ở, yên trí. Nếu cần tiên sinh xuống ở với tôi, chỗ tôi ở có dãy nhà ngang cách biệt với trại quân, yên tĩnh và rất tiện cho việc tôi hầu hạ tiên sinh.

Đỗ Vĩ cười ha hả:

– Làm sao tôi có thể đòi hỏi tướng quân phải chăm nom cho tôi. Nói cho thẳng ra, tôi ở đây không khác gì tên tù giam lỏng, được tướng quân đối xử thế này là tốt rồi.

A Rích gạt đi:

– Làm sao tiên sinh là tù giam lỏng được. Tiên sinh là An Đa kết nghĩa của một hoàng thân dòng Lều Vàng. Đó là Ba Tu, Vạn hộ hầu hầu cận của hãn Lều Vàng. Chúng tôi đã có hỏi thì được biết Ba Tu đã qua đời cách đây bảy năm.

Đỗ Vĩ kêu lên:

– Anh em kết nghĩa của ta qua đời rồi ư? Sao đến hôm nay ông mới cho ta biết tin này?

– Đó là vì lệnh trên không cho phép tôi nói. Vì tiên sinh là anh em kết nghĩa của hoàng thân Ba Tu, hoàng thân thuộc dòng hãn Lều Vàng, cánh tay kết nghĩa của đức hoàng đế Hốt Tất Liệt. Cho nên sự đối xử với tiên sinh phải có sự đồng ý của hãn Lều Vàng. Đến nay hoàng thân đã qua đời rồi, mọi việc đã dễ dàng.

Đỗ Vĩ nghĩ rất nhanh, vậy là giặc đã điều tra kẻ có que trúc Thiên sơn tắm ngựa nhưng tên này đã qua đời, do đó có thể dẫn đến hai quyết định: một là chúng không phải e ngại gì cứ việc khử ngay Đỗ Vĩ mà không sợ dòng hãn Lều Vàng phản ứng, hai là có thể hắn coi việc kết nghĩa là có thực. Nhưng nếu hắn coi việc kết nghĩa là có thực thì làm sao Tổng hành doanh Mông Cổ không có quyết định gì? Và Đỗ Vĩ nghĩ rằng có thể chúng đã có quyết định là giết Đỗ Vĩ. Giết ngọt và không có bằng chứng. Có thể bằng bỏ độc. Có thể bằng gây tai nạn. Như vậy việc đề phòng càng phải đặt ra riết róng

Hai cô gái nhìn hai người nói chuyện không hiểu nội dung nên chỉ cười. Đỗ Vĩ dùng tiếng Việt nói với hai cô:

– Thế là từ nay hai cô sẽ ít có dịp để nghe tiếng nói của người cùng quê. Hai cô quê ở đâu?

Anh vừa hỏi vừa cười rất tươi làm không khí nói chuyện vui tươi nhẹ nhàng lên. Và A Rích cũng thấy hởi lòng hởi dạ. Cô Thuý nói:

– Chuyện này là điều lạ nhưng ngay từ trong nước chị em tôi đã nghe chuyện về tiên sinh.

Cô Liên tranh nói:

– Chị em tôi đều nghe nói tiên sinh là bậc quốc sĩ có công lớn với đất nước.

Đỗ Vĩ giật mình nhìn sững song anh chợt liếc sang A Rích và đổi nét mặt tươi cười như lúc thường:

– Bậc quốc sĩ là bậc gì. Tôi chỉ là một lái buôn đã rời xa đất nước mấy năm.

– Chúng tôi không biết việc làm của tiên sinh thế nào. Chỉ biết nguyên soái Thoát Hoan đã hạ lệnh giết tiên sinh. Đỗ Vĩ cười xoà:

– Thôi ta đừng nói chỗ này nữa, tiện đây tôi đề nghị để ông A Rích mở một bữa tiệc mời hai cô cùng dự. Tiệc này có thể coi là tiệc những người xa quê gặp nhau.

– Hoặc có thể coi là những người quý nhau gặp nhau.

– Muốn thế nào cũng được. Nhưng những chuyện vừa rồi không nên nói rộng. Vì những người hầu của tướng quân A Rích có nhiều người nói được tiếng Việt.

– Nhưng y thì không biết đâu.

Một bữa tiệc được ấn định vào tối mai, đêm mười sáu tháng Bảy. Một bữa tiệc mà cả bốn người dự, mỗi người có một quyết định riêng.