Chương 19
Theo lệnh của Hành trung doanh, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa chỉ huy cuộc làm sạch vùng đảo Hạ Long và Bái Tử Long. Thật không thể ngờ được sau khi quét sạch quân Nguyên những tưởng vùng đảo này trở nên sạch và vắng người, nào ngờ mấy nghìn hòn đảo nằm rải rác mấy trăm dặm hầu như đảo nào cũng có người, những con người thành tích bất hảo, những con người phạm đủ các tội từ đốt nhà, giết người đến hiếp dâm, cướp của. Đây là những con người gồm đủ sắc tộc cả hai phe. Về phía Việt có người Kinh, người Tày, người Dao, người Mán đỏ, Mán Làn Tẻn, người Mường, người Nùng Phàn Xình... Về phía Mông Cổ có người Hán, người Bạch Y, người Nam Chiếu, người mười hai châu Thái, người Đại Lý và cả người Mông Cổ... Quân Nguyên rút qua, quân ta đuổi đến có một khoảng thời gian vùng đất này không có người cai quản. Những bọn người phạm tội kia biết chắc nếu chính quyền nào đứng vững chúng cũng đều bị trừng trị, vì thế cho nên việc đầu tiên là chúng tránh gặp mặt tất cả mọi người. Kể cả giữa chúng với nhau chúng cũng có những quan hệ rất lỏng lẻo, chúng gần như có một sự chia nhau lẩn khuất trên các đảo, kể cả những đảo nhỏ nhất. Thức ăn là những thứ gì chúng kiếm được từ dưới biển lên, cá tôm ngao sò và một số ngô thóc càn quét vơ vét được trước khi bỏ trốn ra vùng hải đảo này.
Việc truy quét bọn này không khó nhưng cực kỳ nguy hiểm. Đứa nào cũng có vũ khí, nhiều vũ khí là khác. Từ cung đơn đến cung kỵ sĩ ngắn hơn, từ mã tấu nặng nhẹ khác nhau, giáo trường, câu liêm đến những thanh kiếm cực kỳ quý, lạ, có thanh có tên đặt - đây chắc là những thanh kiếm của các võ tướng cấp cao lúc bỏ chạy bị thất lạc rơi vào tay đám cướp bóc kia. Trần Quốc Tuấn sai Phạm Ngũ Lão và Nguyến Chế Nghĩa quét sạch vùng đảo này bởi vì vài tháng nữa vùng đảo này sẽ là nơi tấp nập thuyền bè, từ vùng đảo Đông Nam, từ nước Trảo Oa đến Chân Lạp sẽ tụ tập về đây đem hàng đến bán và cất hàng ở đây đi nơi khác. Nơi tập trung thuyền bè như vậy, hàng hoá như núi như mây không để kề cận đám người sẵn sàng phạm tội kia, phải quét sạch chúng đi, chúng là sản phẩm của cuộc chiến tranh vừa xảy ra. Chính chúng là những đứa nghĩ mình đã đến thời kiếm ăn được. Và quả thực chỉ trong vài tháng đánh nhau chúng đã kiếm ăn được, kiếm dễ dàng và bây giờ đây cơ hội của chúng đã qua. Bỏ chạy theo quân Nguyên cũng không được, đời nào chúng chấp nhận đám cặn bã xã hội này. Mà ở lại với quân Việt cũng không được, đất nước này đâu có chỗ dung thân cho tội ác, tốt nhất là ra hoang đảo và như thế chúng tránh các đảo to ở vào các đảo nhỏ. Mỗi đảo một đứa, hai đứa, chúng lý luận nếu đông người vừa khó nuôi nhau vừa đánh động cho nhà chức trách đến càn quét. Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa phải chia nhau lên từng đảo nhỏ lùng sục, càn quét ở nơi nào có dấu hiệu người ở như dấu bếp làm cơm, lông gà lông vịt là phải lùng sục thật kỹ thật cẩn thận e bọn chúng chó cùng dứt dậu, cũng vì thế công việc tiến triển rất chậm, hàng mười ngày sau chỉ mới được một vùng đảo nhỏ...
Sáng nay hai tướng họp nhau trên đảo Ngọc Vừng. Nguyễn Chế Nghĩa bảo Phạm Ngũ Lão:
– Chắc đức ông Tiết chế có định một chuyện gì với tiểu tướng nên mấy lần Đức ông định nói rồi lại thôi.
Phạm Ngũ Lão tủm tỉm cười:
– Chắc là chuyện vui thôi.
– Chuyện vui sao định nói lại thôi.
– Chắc là chưa đến lúc nói được.
Nguyễn Chế Nghĩa băn khoăn:
– Mấy ngày hôm nay tôi băn khoăn đứng ngồi không yên, chắc có chuyện gì lạ sắp xảy ra - Rồi đâm ra mê tín - Tôi thấy có con chim khách cứ đỗ ở đầu thuyền báo hiệu. Làm sao tôi biết là nó báo hiệu? Là vì nó cứ nhìn vào mặt tôi mà hót.
– Chắc lúc bấy giờ hiền đệ đang ăn cái gì phải không?
– Ăn thì không ăn nhưng tay tôi đang cầm một tấm bánh.
Phạm Ngũ Lão cười lớn:
– Thế là nó đòi ăn bánh. Hiền đệ có cho nó miếng nào không?
Nguyễn Chế Nghĩa ngẩn ngơ:
– Tôi cũng không nghĩ nó hỏi xin bánh nên cũng không cho nó miếng nào.
– Thế thì phải rồi, nó bay đi rồi nó lại bay lại cũng vì xin bánh, hiền đệ không cho nó ăn nó còn xin.
– Nhưng đâu phải đối với nó chỉ có miếng ăn là quan trọng, còn nhiều cái khác nữa chứ?
Và đúng thế, Phạm Ngũ Lão chợt nghĩ ra một điều quan trọng. Ở các đảo nhỏ lẩn trốn là điều dễ dàng, ở đây chỗ ẩn náu không thiếu. Nơi cất dấu lượng thực cũng dễ dàng, cũng không thiếu. Nhưng cái thiếu ở đây là nguồn nước uống, thiếu thức ăn vài ba ngày không sợ nhưng thiếu nước vài ngày thì không ai chịu nổi. Như vậy chỉ cần chọn trong vùng đảo này những nơi có nước ngọt rồi canh phòng cẩn mật, dựng cờ chiêu an, phát thức ăn, phát nước uống, phát thuốc men cho những nguời hồi lương chắc là sẽ thu được kết quả lớn. Phạm Ngũ Lão bày mưu ấy cho Nguyễn Chế Nghĩa. Hai người mừng rỡ tiến hành kế hoạch.
Mười hôm sau đã có hơn bốn nghìn tên ra đầu thú. Tất cả đều được cho ăn, cho uống, đối xử tử tế và được tuyên bố tha bổng tất cả các tội phạm phải. Miễn là từ đây trở đi phải ăn ở như người tử tế.
Cuối tháng sáu Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa được lệnh thu quân về, trao vùng đảo lại cho Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Trên đường trở về hai anh em đứng trên mũi thuyền tướng. Phạm Ngũ Lão bảo Nguyễn Chế Nghĩa:
– Ta đã biết đức ông Tiết chế định nói gì với hiền đệ rồi.
Nguyễn Chế Nghĩa giục:
– Đại huynh nói đi, chuyện gì vậy.
– Ở quê, ta có một cô em nuôi. Đúng hơn là mẹ ta nuôi cô ta làm con nuôi nên cô trở thành em nuôi của ta. Đức ông Tiết Chế đã từng gặp mặt cô ta, đức ông còn nói cô này phải có chồng là một vị tướng mới xứng đáng. Chả là vì cô ta đã lập công lớn, cô ta đã đem về tin tức cho quân ta. Còn Tiết chế ngập ngừng chưa muốn nói là vì cô ta đang bị trọng thương.
Chả lẽ nói ra là gả cho hiền đệ một cô gái còn đang bị thương thì không tiện lắm.
Phạm Ngũ Lão hiểu ý Quốc công Tiết chế cho hai anh em làm tướng quét sạch vùng đảo chính là để cho hai người có dịp gần nhau. Sau này nếu làm em rể anh vợ với nhau càng thêm thân tình.
Nhưng thực ra Tiết chế còn có ý sâu sắc hơn. Gả chồng cho Tầm không gì bằng Phạm Ngũ Lão đứng ra làm chủ hôn.
Khi thuyền đưa Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa về đến cửa Suốt thì đã thấy trên bến có thuyền cắm hiệu cờ Nguyên soái. Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn và Đức ông Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đã chờ sẵn họ trên bến. Họ đã đến đây gần được một trống canh. Họ trông hiệu cờ, họ biết Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa sắp về tới nơi. Quốc công Tiết chế sai dựng sẵn lều trận chờ hai người. Họ mừng rỡ khi bước lên bến. Đức ông Nhân Huệ vương cười khà khà:
– Vùng đảo Bái Tử Long này che dấu không biết bao nhiêu bí mật. Hai tướng quân mới đi mươi ngày làm sao biết hết được. Ở vùng này chỉ có hai người thuộc lòng bàn tay quần đảo Bái Tử Long. Một là vương tử thứ ba Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và người thứ hai là Dư này. Nhưng Hưng Nhượng vương cũng không vượt quá được đảo Minh Châu, ngoài khơi Vân Đồn là đất của Dư này.
Trần Quốc Tuấn gạt đi:
– Đừng nói thế đến tai Tảng, nó lại tự phụ. Về một vùng đất nhất là đảo đá, đảo đất chi chít như thế này ai lại có thể tin là mình nắm chắc được nó. Tôi hỏi đức ông nhớ: có bao nhiêu đảo có nguồn nước ngọt, những nguồn nước ngọt lộ thiên và những nguồn nước ngọt còn nằm trong hang kín.
Trần Khánh Dư nói:
– Không phải tự phụ, có bao nhiêu nguồn nước ở đây tôi đã vẽ hết vào bản đồ. Có lọt là một đôi nguồn ở kín.
– Đấy mới là điều đáng nói,mỗi một nguồn nước ở kín có thể là chỗ dựa của một đô quân mai phục. Đức ông đừng tự phụ. Đảo có nước hay đảo không nước như vấn đề âm dương xoay đổi nhau biết thế nào mà bàn được. Âm dương là chuyện sáng tối, là chuyện cõi trần và cõi u linh, nó chính là cội rễ của mọi vấn đề. Như thế với việc dùng binh âm dương sẽ là sự thành bại.
– Tạ ơn Quốc công đã chỉ bảo, tôi chỉ đuợc cái nói mồm tự phụ thôi chứ thực ra rảnh lúc nào là tôi dẫn thuyền đi tuần thú mà đã đi tuần thú là toàn vào những nơi chưa bước chân đến.
Lính canh thông báo lều trận đã lập xong, hai đức ông dẫn tả hữu về lều trận của Hành trung doanh. Phạm Ngũ Lão vốn là tướng chỉ huy Hành trung doanh nên mau chóng xem xét việc dựng lều trận. Anh ra ngay lệnh cho nhà bếp chuẩn bị bữa ăn trưa. Trần Quốc Tuấn vẫy Nguyễn Chế Nghĩa theo vào lều trận. Hai đức ông ngồi bên trên, Nguyễn Chế Nghĩa ngồi bên dưới. Quốc công Tiết chế nói:
– Ta định gặp mấy tướng có liên quan đến việc dùng binh sau này ở đây. Đó là đức ông Nhân Huệ vương là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Là tướng quân chỉ huy Thánh Dực quân và là tướng quân chỉ huy Hành trung doanh.
Người thứ tư là ngươi, tướng trấn thủ lộ Khoái. Ta đã quyết định người cầm lộ Khoái từ hôm qua.
Nhân Huệ vương hỏi:
– Chúng nó còn có một tí tàn binh ở Lạng Giang thì cần gì đến việc chuẩn bị địa bàn ở đây?
Hưng Đạo vương nghiêm trang hỏi:
– Nếu đức ông Nhân Huệ là tướng giặc, giả sử như thế thì lần vừa rồi tướng quân tiến binh theo đường nào?
– Đường tiến binh chủ yếu của giặc vẫn là đường lộ Lạng Giang. Hai đường tiến binh phụ có thể từ Quy Hóa ra tiến đến sông Lô và một mặt men theo ven biển qua cảng Thiên Uy.
– Chỉ có thế thôi ư?
– Không đâu, nếu tôi cầm quân tôi sẽ có một cánh quân thủy đông mạnh qua cửa Vân Đồn tiến vào cửa Lục. Cánh quân này vừa là quân chiến, vừa là quân tải lương có thể là hai cánh có tướng riêng biệt nắm chắc. Quân tải lương dùng thuyền vận tải, quân thuỷ chiến dùng thuyền nhẹ. Khi đánh vào trong đất liền, cánh quân thuỷ sẽ không kém quan trọng chút nào đối với ba cánh quân bộ đi cùng.
– Thế tại sao địch không dùng thế?
– Tại chúng chưa biết thế đất của ta.
– Vậy bây giờ chúng đã biết chưa?
– Chúng biết rồi, chúng đã để lại một số tên để vẽ bản đồ vùng biển Đông Bắc. Hành doanh thủy quân Vân Đồn của ta đã bắt được một nhóm ba tên và đang truy bắt một nhóm sáu tên nữa. Chúng là chín tên được A Lý Hải Nha chọn và để lại. Chúng toàn là những đứa có học nếu bắt được coi như A Lý Hải Nha không để được đứa nào lọt vào nước ta.
– Nhưng nếu chúng còn để lọt lại.
Đến chỗ này thì Trần Khánh Dư im lặng. Trần Quốc Tuấn cười khà khà:
– Đức ông Nhân Huệ tắc kỳ ngôn lộ rồi hả.
Phạm Ngũ Lão vào cửa thưa:
– Hai đức ông còn làm việc nữa hay không? Nhà bếp đã soạn xong cơm. Thỉnh hai đức ông uống rượu, nghỉ trưa chiều làm việc tiếp.
Trần Quốc Tuấn bảo:
– Không cần, vừa uống rượu vừa bàn càng tốt, cho tướng quân và Nguyễn Chế Nghĩa được dự. Và hình như trong đoàn quân của tướng quân có tướng chỉ huy dân binh Hoa Xuân Hùng đi theo trong việc giữ gìn an ninh ngoài hải đảo phải không? Nếu đúng thì cho cả Hùng dự. Anh ta sắp lấy vợ người làng Ngọ. Vợ anh ta là chỉ huy nữ binh sông Bạch Đằng và sông Tranh. Chuẩn bị kiến thức về vùng này phải nhờ tới vợ chồng ấy.
Bữa tiệc bày ra trong lều trận không ai ngờ là nó lớn đến như vậy. Các thứ hải sản bày la liệt, cua, ghẹ, sò, cá... thứ nướng, thứ hấp, thứ luộc, thứ nấu canh chua cay.
Trần Khánh Dư cười khanh khách:
– Đã thấy vùng đảo chưa? Thật là hải sản ê hề, thứ này thì tốn rượu lắm. Dân nhà binh, lính tráng được thế này thì quý quá. Nhưng làm sao mà chuẩn bị được nhiều thứ thế này - Đức ông tò mò nhìn - Lại có cả rượu tiết ngán.
Trần Quốc Tuấn tò mò hỏi:
– Ngán là con gì? Ăn nó thế nào?
– Ngán là một thứ ngao vỏ sù sì, mầu vàng nhạt. Người ta trần một con ngán bằng nước sôi rồi lấy con ngán ra cho vào rượu đánh kỹ, máu ngán sẽ ra thành một thứ rượu mầu đỏ uống ngon lắm.
– Thế là nó cũng như rượu tiết dê à?
– Đúng là nó như rượu tiết dê nhưng dược tính của nó lại ngược lại. Rượu ngán uống hạ hoả. Vừa qua chúng ta đi đường xa kể cả đường thủy lẫn đường bộ, hỏa đều bốc. Bây giờ uống rượu hạ hỏa, thì ăn đồ hải sản mới thích hợp.
– Kỳ nhỉ.
Trần Quốc Tuấn nhìn Phạm Ngũ Lão hỏi:
– Đầu bếp nào mà giỏi thế, biết được người dự tiệc đang bốc hỏa mà cho uống rượu ngán.
Phạm Ngũ Lão cười thưa:
– Thưa đấy là vợ chưa cưới của Hoa Xuân Hùng. Cô Hồng, tướng nữ binh sông Bạch Đằng. Trong khi truy bắt bọn tàn binh giặc trên các đảo cô đã kiếm được những thứ này.
Hai đức ông cười khì khì trỏ Hoa Xuân Hùng:
– Nhà ngươi có cô vợ giỏi thật, đánh giặc cũng giỏi, chăm sóc chồng càng giỏi hơn, làm bếp lại thật tuyệt.
Hoa Xuân Hùng chỉ một đĩa hải sản nói:
– Đây là con sam, món quý vùng Đông Bắc, con sam bao giờ cũng đi đôi, con đực đỗ trên lưng con cái, hai con đưa nhau đi kiếm ăn, con cái kiếm thức ăn đùn lên cho con đực, đã làm thì bao giờ người ta cũng làm cả đôi, thịt nó ngọt như thịt cua nhưng không dai bằng cá mực, người ta ăn sam được bổ cả hai mặt âm dương. Đàn ông và đàn bà ăn đều được, ông già và trẻ nhỏ ăn cũng được.
– Thế thì tuyệt. Thế còn cái này là cái gì?
– Đây là con cu ki, một thứ cua tròn thu lu, mai tròn, càng tròn, ăn còn mềm và ngọt hơn cua biển.
– Đây là lần đầu tiên ta trông thấy nó.
– Còn đây là canh cá mú để uống rượu say thì húp một bát cho giã rượu.
– Thôi ăn đi. Mải nghe chuyện ăn uống ta quên cả chuyện ta muốn bàn.
Chỉ còn Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư đi dọc theo bờ biển. Biển đã về chiều xanh ngắt, mặt biển hôm nay hơi lặng sóng, những dãy đảo xa xa xám đen một mầu bí ẩn. Trần Khánh Dư đi theo Trần Quốc Tuấn, ông im lặng vì biết rằng Quốc công đang mải suy nghĩ một vấn đề quan trọng. Mãi lâu Quốc công mới nói, sẽ sàng nhưng dằn từng tiếng:
– Nếu chúng sang lần nữa chắc chúng sẽ sử dụng quân thủy. Đường vào là qua cửa Vân Đồn, cửa khẩu vào đất liền phải là cửa Lục. Như vậy chiến trường sẽ có thể là hai nơi: một là ngoài biển rộng mênh mông từ cửa Vân Đồn về cửa Lục. Hai là vùng sông ngòi chằng chịt ngay sau cửa Lục.
Trần Khánh Dư sẽ sàng nói như thăm dò:
– Sẽ là trận đánh giữa quân chiến với quân chiến hay là trận đánh giữa quân chiến với quân vận tải.
Trần Quốc Tuấn nhíu hai mày lại:
– Phân rõ thắng bại trên chiến trường cuối cùng là quân bộ đôi bên. Quân bộ của địch cộng thêm quân kỵ. Nhưng để cho quân bộ và quân kỵ có cái ăn là phải có quân thuỷ vận tải. Cho nên điều quyết định cho cả chiến cuộc chính là ở đây, ở mặt trận thủy này. Cho nên vừa qua ta rất bằng lòng với bữa rượu bàn chơi hoá ra bàn thật. Trận đánh ở vùng sông chằng chịt sẽ do ta chỉ huy, có Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, có Hoa Xuân Hùng. Người sẽ chịu trách nhiệm ven cửa Lục là Phạm Ngũ Lão. Người chịu trách nhiệm ở vùng sông chằng chịt là Nguyễn Chế Nghĩa và vợ chồng Hoa Xuân Hùng. Còn đức ông sẽ phải chịu trách nhiệm chính là đánh tan đoàn thuyền lương của địch. Đức ông phải chọn chiến trường mai phục sao cho thích hợp. Đức ông sẽ phải chọn bao nhiêu quân là thích hợp, đức ông sẽ phải chọn tướng phù tá nào thích hợp, đức ông sẽ phải chọn biện pháp nào là giữ được bí mật. Có thể chúng phải chuẩn bị ba, bốn năm nữa mới sang vì thu gom thuyền đâu phải một hai năm đã đủ thời gian. Vậy thì trong vài ba năm tới đức ông phải lập bốn xưởng đóng thuyền trong châu ái, châu Hoan cho kín đáo, gỗ lạt từ châu ái, châu Hoan vẫn còn nhiều và dư dật, chỉ cần phao tin là đoàn thuyền đóng để đi tuần thú Chiêm Thành, Chân Lạp. Việc bí mật là quan trọng nhất, không thể để bất kỳ một ai biết được. Còn Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa đóng thuyền thì không thể nào ngờ được vì thuyền bè đều đóng ở lộ Long Hưng dùng cho quân thủy của hai vua.
Trần Khánh Dư ngoảnh nhìn Quốc công Tiết chế:
– Anh trưởng lo việc chiến tranh trước hai, ba năm quả thật là chỗ dựa của nhà nước, mọi việc anh trưởng giao em sẽ cố hết sức làm tròn.
Trần Quốc Tuấn nghiêm sắc mặt bảo:
– Không được một sơ suất nào, phải lấy đầu mình ra để thế đó.