Chương 20
Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật dẫn vào một người khách lạ. Cuộc họp chỉ có mấy vương hầu quan tọng nhất ở mặt trận phía Bắc, đó là Hưng Hiếu vương Trần QUốc Nghiễn, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, còn Trịnh Mác và Hoàng Mãnh chỉ được ngồi nghe.
Chiêu Văn vương giới thiệu người khách là: đó là một ông nhà buôn nổi tiếng ở các bạc dịch trường phía Bắc, ông Mai Thúc Lại. Nhưng từ khi cuộc hiến tranh nổ ra giữa hai nước Nguyên và đại Việt thì mọi cuộc buôn bán giữua hai bên đều bị cấm. Riêng ông Lịa có số hàng còn đọng lại bên nước Nguyên rất lớn, có thể là vốn buôn của hàng chục nhà buôn lớn. Chiêu Văn vương nói:
– Ông Lại là bạn hàng quen thuộc của Đỗ Vĩ. Có thể trong một vài cuộc buôn bán họ còn là người chung vốn. Hai người rất tin cậy nhau. Còn chúng ta, chúng ta chỉ còn cách nhờ vào ông Lại đưa tin đên scho Đỗ Vĩ.
Các vương hầu đều biết Đỗ Vĩ đã được phóng đi, người phóng chính là Quốc công Tiết chế. Nhưng Trần Nhật Duật đã có một thời gian dài là người coi quản việc phóng gián điệp thu thập tin tức và chống gián điệp đối phương cho nên Trần Nhật Duật biết rất rõ Đỗ Vĩ quan hệ với ông Lại tin cậy và thân thiết đến mức nào. Và một khi Đỗ Vĩ được phóng đi rồi thì chưa có lệnh, anh ta chưa quay lại đất nước. Có thể bây giờ Đỗ Vĩ như người ngồi trên lửa chừo tin nước nhà đưa tới. Nhưng ở đây, Quốc công Tiết chế vắng mặt, Trần Nhật Duật định họp các vương hầu trọng yếu xem ý kiến mọi người thế nào. Cos thể là rút, có thể là lệnh cho Đỗ Vĩ trở về Cao Ly.
Chỉ là một cuộc họp, rất ngắn. Ý kiến mọi người rất thống nhất: Lệnh cho Đỗ Vĩ tùy ý lựa chọn đi Cao Ly hay trở về nước. Một bữa tiệc nhỏ được bày ra để thết đãi ông Lại. Tiệc nhỏ, món ăn là đặc sản của vùng Cao Bằng - đó là chả đông trùng hạ thảo. Mùa này đông trùng hạ thảo sắp nở thành bướm. Chúng đang rất béo. Mỗi con đều ẩn náu trong một cây lau. Người ta gặt cỏ lau về nhà, tách lau ra, một con sâu trong nú ních nằm ẩn bên trong. Loại chả đồng trùng hạ thảo chỉ có trong mười lăm ngày, mà trong đó có năm ngày ngon nhất. Đây là một loại thuốc bổ bền dai cực kỳ. Ăn một bữa đông trùng hạ thảo có thể bổ trong ba năm liền. Đã thế còn tránh được các loại bệnh âm hỏa. Ông Lại cười:
– Các đức ông cũng ăn rất sành, loại này tôi được ăn một vài lần. Ngày xưa Đỗ Vĩ đã rủ tôi từ miền biển lên Cao Bằng ăn chả đông trùng hạ thảo. Lần ấy tôi mới biết thế nào là đồng trùng hạ thảo. Mà anh ta có quý tôi lắm anh ta mới rủ đi ăn. Mà anh ta cũng phải biết lúc nào có đông trùng hạ thảo mà ăn.
Trần Quốc Tảng ngẩn mặt, đức ông cũnglà bạn thân của Đỗ Vĩ mà chưa hề được mời dự một buổi nào. Ông Lại bảo:
– Chắc các đức ông có điều gì muốn sai bảo tôi chăng. Xin cứ nói, nếu vì Đỗ Vĩ thì các vị không ngại, việc khó đến đâu tôi cũng làm bằng được.
Trần Nhật Duật nói rằng, hiện nay Đỗ Vĩ đang ở bên kia biên giới. Bây giờ muốn gọi Đỗ Vĩ về, thì phải đưa tin đến tận tay anh ta sao cho kín. Nhưng mà cũng không biết Đỗ Vĩ ở đâu. Cho nên đó là một việc khó tày trời. Ông Lại cười khà khà.
– Nhưng tại sao đức ông biết tôi có quen Đỗ Vĩ.
– Tại vì công việc của tôi bắt buộc phải thế. Tôi biết Đỗ tiên sinh với Mai tiên sinh à chỗ bạn tâm giao. Cho nên tôi buộc phải tìm bằng được tiên sinh từ vùng ven biển đưa lên đây.
– Thảo nào họ mời tôi lên đây mà như áp giải tù,
– Xin tiên sinh thứ lỗi, là vì chúng tôi rất cần tiên sinh có mặt ở đây đúng ngày.
– Mười tỳ tướng giải tôi đi, người nào trông dáng dấp cũng võ nghệ siêu quần, không một lúc nào người ta rời mắt khỏi tôi. Về ăn uống thì cực kỳ thịnh soạn, về chỗ ngủ thì cực kỳ an toàn, chỉ có muốn rời một tý cũng không được. Nói các đức ông tha lỗi, ngay khi tôi đi ỉa, đi đái cũng có người đứng xem.
Các đức ông cười ồ lên. Trần Nhật Duật nói:
– Việc là đưa tin đến cho Đỗ Vĩ. Và nhất là phải tìm biết xem anh ta ở đâu và phải làm rất nhanh.
Trần Quốc Tảng nói:
– Anh Đỗ là bạn thân của tôi. Ông Mai là bạn thân của anh Đỗ vậy cũng là bạn thân của tôi. Tôi xin nói thật, việc này quan hệ đến tính mạng của anh Đỗ, việc đưa tin nóng như lửa bỏng.
Ông Mai Thúc Lại cả cười:
– Ông Đỗ ở đâu tôi vẫn biết. Vừa lên đến biên giới đây tôi đã có tin của ông Đỗ. Có người trông thấy ông ấy ở một thôn bên kia biên giới. Vẫn khỏe mạnh.
Các vương hầu nhao nhao:
– Thôn nào vậy?
– Đấy là Trì thôn, thôn này cách biên giới hai ngày đường, nếu đi ngựa thì một ngày.
– Nếu đem một đoàn quân nhỏ sang có được không?
– Không được. Trì thông là một thôn nhỏ nhung hiện đúng đấy là nơi tướng địch giữ hậu cứ đóng. Quân có cả vạn. Tướng tinh nhuệ có cả trăm. Người giỏi võ phải hàng nghìn. Từ đây đên Trì thôn có bốn trạm canh. Mỗi trạm ba nghìn quân, cho nên một tốp quân nhỏ dù là rất tinh nhuệ cũng không qua được nổi một trận.
Tất cả các vương hầu đăm chiêu, ông Lại lại nói:
– Nhưng nếu chỉ đưa tin đến cho Đỗ Vĩ thì có thể được. Tôi có thể làm được việc đó. Ngày xưa, việc buôn bán giữa hai bên vẫn có những mặt hàng không bên này thì bên kia cấm, chúng tôi vẫn có cách thông thương được. Những trạm chuyển hàng của chúng tôi có khi ở đỉnh núi, có khi ở lừng chừng núi, có khi ở trong các chùa đền. Cho đến nay họ vẫn là những bạn hàng chí thiết của tôi. Tôi tin là tôi đi vẫn được. Những các ông cần cho tôi biết Đỗ Vĩ làm gì, đối với các ông là thế nào? Các ông phải tin cậy tôi, cho tôi biết để yên tâm, để tôi quyết chí làm bằng xong.
– Hưng Nhượng vương đây là bạn thân của Đỗ Vĩ. Đỗ tiên sinh đi làm việc nước. Ngay làm việc gì chúng tôi cũng không được biết. Bây giờ tình thế cần phải gọi về, việc tiên sinh có thoát thân được hay không là do ông đưa được tin đến cho ông ấy.
Ông Lại cười hà hà:
– Thế thì tôi hiểu rồi. Đỗ tiên sinh là sinh gián. Chưa có lệnh ông ta không dám về. Tôi la bạn của ông ấy. Bây giờ tôi còn kính trọng ông ấy hơn nữa. Xin các ông cứ giao việc. Tôi sẽ hoàn thành.
– Ở trong nước tôi là người chịu trách nhiệm về việc này. Nhưng tôi không phải là người chỉ huy chính của ông ấy. Ông ấy dưới quyền của một người cao chức hơn tôi rất nhiều. Nhưng người đó bây giờ không có mặt ở đây. Vậy thì tôi sẽ ra lệnh thay. Lệnh của tôi là thế này: Về ngay hoặc đi bất kỳ đâu đó.
Ông Lại nhìn Trần Nhật Duật tò mò hỏi:
– Lệnh có vậy sao?
– Lệnh nói truyền miệng, không đòi hỏi trả lời. Còn truyền lệnh lúc nào là tùy ông miễn là chỉ có một người nói, một người nghe. Cũng không cần nói lệnh do ai truyền.
– Tất nhiên là như thế rồi. Đỗ tiên sinh tất nhiên là phải biết ai truyền lệnh. Và riêng việc tôi là người đưa tin thì Đỗ tiên sinh phải tin. Nhưng tôi cũng phải nói để các đức ông biết rằng, các ông quý Đỗ tiên sinh một thì tôii quý Đỗ tiên sinh hai. Bởi vì tôi, ngoài việc đều là những người Việt trong cùng một nước, Đỗ tiên sinh còn là bạn tôi và Đỗ tiên sinh còn là đồng môn của tôi. Tôi và Đỗ tiên sinh cùng nằm trong một môn phái võ, hai người đã được hai sư phụ chọn để truyền dạy. Sư thúc tôi dạy Đỗ tiên sinh. Sư phụ tôi là sư huynh. Đứng theo vai vế, Đỗ tiên sinh phải là sư đệ của tôi. Nhưng trong môn phái của tôi, Đỗ tiên sinh là đệ tử y bát truyền nhân. Tôi là bậc trên của sư đệ tôi. Tôi có bổn phận phải đi cứu sư đệ tôi. Nhưng bản lĩnh tôi không có đủ. Mà quyền lực tôi cũng không có đủ. Tôi phải thỉnh giáo sư thức của tôi, sư thúc chưởng môn mới đủ quyền.
– Việc của quý môn phái chúng tôi không thể nào can dự được nhưng xin phép được hỏi một câu: tại sao phải thỉnh giáo sư thúc của tiên sinh?
– Điều này rất đơn giản vì tôi chưa đủ tài. Sư thúc tôi không những võ nghệ cao cường mà còn là ngươit thâm trầm, biết lẽ tiến lui hàng mười năm trời. Có thể nói một làn gió thoảng là sư thức tôi biết có khách đến chơi.
– Vậy người này có thể biết được sự tồn vong của số mệnh chăng?
– Không đâu. Người không phải là một bậc tiên tri nhưng phải xin ý kiến của người để biết những hướng phải đề phòng.
– Nhưng sư thúc tiên sinh có ở gần đây chăng. Mà việc cứu Đỗ tiên sinh như cứu lửa, rất cấp bách.
– Không biết sư thúc của tôi nay có ở tại am núi Tuyết không. Nhưng sư phụ tôi hiện đang chờ tôi ở bên ngoài chắc người cũng đến vì việc của sư đệ tôi.
Các vương hầu quan tướng mừng rỡ:
– Nều vậy cho mời ngay thiền sư vào đây.
Trân Quốc Tảng đứng ngay dậy, rảo bước ra ngoài cửa. Mai tiên sinh cũng vội vã bước theo. Trên đỉnh đồi cao một nhà sư gầy gò chống một cây gậy ngồi trên một tảng đá, tay trái đang lần một chuỗi hạt. Sau lưng có một chú tiểu đứng hầu. Trần Quốc Tảng rảo bước tới, chắp hai tay thì lễ cung kính:
– Bạch thiền sư, nghe tin thiền sư tới chúng tôi rất vui mừng và kính chúc thiền sư mạnh khỏe.
– Xin đức ông đừng giữ lễ quá thế. Tôi chỉ là người trong dân gian, mặc dù ở thiền môn cũng được dự trong tứ vị hộ pháp chùa Yên Tử.
Trần Quốc Tảng đưa thiền sư vào, các vương hầu có mặt đều cúi đầu chào cung kính. Tả hữu bưng đôn mời thiền sư ngồi. Tả hữu dâng trà xanh giải khát. Đấy là một con người có những nét gầy sắc như dao, nét mặt rất hiền từ, những lại toát ra một sự cứng rắn không gì bẻ gãy nổi. Thiền sư nói:
– Bần tăng là Phổ Hiền là mộ trong tứ vị hộ pháp ở chùa Yên Tử. Bần tăng là thày dayh học cảu Mai Thúc Lại đây. Sư đệ của bần tăng là Phổ Đức lại là chưởng môn của phái võ Yên Tử. Ngoài ra sư đệ của bần tăng còn là trụ trì chùa Yên Tử nhưng hai năm nay, sư đệ của bần tăng đã từ chức trụ trì và nhường cho sư đệ Phổ Ân. Sư đệ bỏ chùa đến núi tuyết lập am Tiên. Sư đệ của bần tăng rời bỏ công việc của thiền môn để chuyên chú nghiên cứu về y học, ngõ hầu để cứu giúp trăm họ. Sư đệ của bần tăng có thu nhận một đồ đệ từ lúc còn rất nhỏ đào luyện trở thành một kỳ tài. Chính vì việc của anh ta mà hôm nay tôi có mặt ở đây. Anh ta chính là Đỗ Vĩ, hiên nay ở đâu đó bên kia biên giới. Sư đệ của tôi có cho gọi tôi đến bảo tôi mời các vương gia, các vương gia nếu có rảnh xin mời lên am Tiên.
Trần Quốc Tảng nói:
– Đỗ Vĩ là bạn của tôi. Cho nên xin cho phép tôi được nói trước. Chúng tôi có mặt ở đây là để tìm cách đưa bạn tôi về nước. Chuyện của bạn tôi ttôi không được phép nói ra, nhưng xin các vị tin cho bạn tôi là người có công lớn đối với đất nước và dân tộc. Hiện nay tínhh mạng của bạn tôi hết sức nguy cấp. Bạn tôi đủ tài để thoát hiểm. Nhưng tôi biết tính bạn tôi rất phân minh, yêu ghét cái gì cũng quá mức cho nên người như thế nếu không có lệnh dứt khoát không về nước. Tình hình như thể nước sôi lửa bỏng. Nếu bây giờ lên am Tiên tìm Phổ Đức thiền sư cũng phải mất nhiều thời gian. Nếu có chuyện gì xảy ra thì tính sao đây
Sư cụ Phổ Hiền nói:
– Nhưng phải tìm sư đệ của tôi. Sư đệ tôi tinh thông y lý, sư đệ tôi ngoảnh mặt vào vách tiềm tu và tìm nghĩa lý trong y đạo. Có thể trong vụ tìm cứu Đỗ Vĩ sẽ sử dụng độc và giải độc. Có nhưu vậy tìm được Đỗ Vĩ mới có ý nghĩa. Vả chăng đồ đệ tôi mang người đi vào đất địch là một đoàn buôn đi trống dong cờ thì cũng phải sáng mai mới lên đường được.
Mai Thúc Lại nói:
– Thưa các vương gia, tôi đang tập trung đoàn buôn của tôi. Hàng hóa phải thuộc loại tuyệt hảo. Nào là ngọc trai, nào là hắc thạch sa, ý dĩ là vị trọng yếu cũng cần phải có một số lượng lớn. Nhưng cái chính là tôi chờ hai tay cao thủ về thủy hành, thủy chiến. Để nếu có gì tôi không về thẳng xuống biên giới phía nam và vòng lên Khâm Châu Liêm Châu về nước bằng đường biển. Hai người đó tối nay sẽ tới đây. Còn sư thúc của tôi tiềm tu ở am Tiên nhưng thực ra đêm qua người cũng đã tới đây, hiện nay người đang ở trên am Cỏ sườn núi mé trước này. Ta đi chỉ một lát là tới.
Trần Nhật Duật vùng đứng lên quyết định nagy:
– Tất cả chúng ta tới am Cỏ.
Đường lên am Cỏ quanh co như ruột dê cao chót vót… Am Cỏ ở khuất sau những bụi lau bụi sẹ um tùm. Sư cụ Phổ Hiền dẫn đầu đoàn người tiến vào am Cỏ. Một nhà sư đã đứng đón sẵn ở đấy, chắc là Phổ Đức. Mà đúng là Phổ Đức thật vì Phổ Hiền đã chắp tay chào:
– Kính chào sư đệ chưởng môn. Bữa nay bần tăng đưa các đức ông và đồ đệ Mai Thúc Lại lên diện kiến sư đệ. Xin chưởng môn sư đệ cho biết chính kiến.
Mấy quan tướng họ Trần tò mò ngắm quanh am Cỏ. Mọi thứ đều hết sức sơ sài. Mái lau tường sậy, những cái bồ đoàn dệt thô sơ bằng gianh vứt rải rác trên nền đá. Nhưng tất cả cho một cảm giác sạch sẽ như lau như li, thanh tịnh như trời xanh núi xanh và tĩnh lặng một vẻ thiền trong sáng. Sư cụ Phổ Đức mình hạc còn gầy gò và khô lạnh hơn thiền sư Phổ Hiền. Phổ Đức chắp hai tay thi lễ:
– Các đức ông mạnh giỏi, bần tăng không xuống núi vì đã có lời thề ngoảnh mặt vào vách tiềm tu cho đến khi viên mãn lám các đức ông phải lên tận trên này, thật có lỗi.
Các quan tướng họ Trần đồng thanh nói:
– Vì việc đời việc nước chúng tôi làm bận đến việc thanh tu của thiền sư. Nhưng vì muốn cứu bạn, chúng tôi phải lên đây thỉnh giáo thiền sư.
– Xin mời các đức ông an tọa. Dù sao ở đây tôi cũng có chè xanh để thết đãi các đức ông.
Sư cụ Phổ Đức đặt xuống trước mặt mỗi người một chiếc đọi da lươn và từ một cái ấm đất lấy từ trên bếp xuống rót vào cái dọi cho mỗi người một chút trà xanh trong vắt. Và chìa hai tay gầy guộc xương xẩu mời:
– Xin mời các đức ông, xin mời sư huynh, xin mời đồ tôn.
Vị trà xanh gợi nhớ hương núi rừng. Không khí trầm hẳn xuống. Mọi người nhấp trà, đặt dọi xuống im lặng giờ lâu. Mãi sau Phổ Đức mới nói:
– Đồ đệ tôi hiện ở Trì thôn. Có người cùng môn phái đã lặn lội đến đây cho tôi biết tin ấy. Nó không bị giam nhưng bị quản thúc. Cách quản thúc bề ngoài tưởng là lỏng nhưng kẻ quản thúc toàn là cao thủ, chúng cho đồ đệ của tôi được tự do đi lại trong một vùng hạn chế. Chúng nghĩ là với lực lượng của chúng thì đồ đệ của tôi khó mà trốn thoát. Nhưng tôi biết sức của đồ đệ tôi, nếu nó muốn thì một lực lượng gấp ba lần như thế cũng không cản được nó vì không phải nói về sức mà nói về mưu. Nhưng tôi cũng biết nó còn ở lại đấy vì một lẽ gì đó.
Trần Nhật Duật nói ngay:
– Vì nghĩa sĩ Đỗ Vĩ còn chờ lệnh, bây giờ chúng tôi muốn đưa lệnh đến cho nghĩa sĩ.
Thiền sư Phổ Đức tươi nét mặt:
– Vậy thì bây giờ tôi nói điều tôi nghĩ, tôi tính. Như vậy bây giờ cần nhất là chống kẻ thù dùng độc. Quân Nguyên đã làm cỏ nước Đại Lý, Thiện Xiển. Và làm chủ vùng Miêu Cương, vậy khả năng dụng độc, xử độc của những vùng này có thể đã được quân Nguyên sử dụng. Dụng độc của Miêu Cương rất khác với nguyên tắc dụng độc của Trung Nguyên. Và giải độc cũng khác hẳn. Cho nên đề phòng việc đồ đệ tôi không nắm được y lý trong việc dụng độc giải độc mà thu nó trận này thì thực đáng hối tiếc. Việc đánh độc của Miêu Cương nhằm vào thần kinh của đối thủ. Mà việc giải độc lại sử dụng những biện pháp xưa nay không ai dùng trong việc giải độc như nước lã, như rượu. Tôi muốn truyền đến đồ đệ tôi cách đề phòng này.
Trần Nhật Duật nói:
– Bọn quan tướng chúng tôi đã có lệnh là không được qua biên giới. Người đi giải cứu kỳ này là Mai Thúc Lại tiên sinh đây.
Thiên sư Phổ Đức nhìn Mai Thúc Lại chăm chú:
– Ta đã nhiều công dạy dỗ sư đệ của cháu. Ta muốn cương vị chưởng môn sẽ giao vào tay Đỗ Vĩ nhưng bây giờ thì không được nữa rôi. Hiện nay sư điệt sắp lên đường để giải cứu Đỗ Vĩ nhưng ta chắc Đỗ Vĩ không qua được mệnh trời. Sư điệt đã nhiều công được sư huynh ta dãy dỗ vật bây giờ trước khi lên đường ta muôn chuyển giao cương vị chưởng môn cho con.
Vị thiền sư Phổ Đức đứng dậy lại bên án thờ nhỏ xíu ở vách lau có một bức tranh Phật Thích Ca tọa thiền. Trên án thờ có một chuỗi tràng hạt bằng bồ đề dùng đã lâu ngày lên nước bóng loáng. Thiền sư Phổ Đức cầm chuỗi lên đến trước mặt Mai Thúc Lại và nghiêm trang nói:
– Con quỳ xuống làm lễ trước chân dung đức Thích Ca.
Mai Thúc Lại cưỡng lại:
– Thưa sư thúc chưởng môn, cương vị này là của sư đệ con, sư đệ con là Đỗ Vĩ thiền lực cao thâm, võ công cao cường, đạo đức đầy sâu.
Phổ Đức nghiêm khắc gạt đi:
– Đây là lệnh. Lệnh của chưởng môn, núi không đổi, sông không dời. Con quỳ xuống đi.
Mai Thúc Lại quỳ xuống chắp hai tay làm lễ. Phổ Đức nói:
– Hôm nay phái võ Yên Tử có chưởng môn mới. Có sự hiện diện của cao thủ Phổ Hiền sư huynh và các đức ông triều đình.
Phổ Đức choàng chuối tràng hạt lên cổ Mai Thúc Lại. Không khí trang trọng:
– Từ nay con là chưởng môn đời thứ ba của phái võ Yên Tử. Con phải trông nom đến sự tồn vong của môn phái và từng đệ tử trong phái võ. Con cầm quyền chưởng môn là ta yên tâm. Con đi cứu sư đệ con lần này là ta cũng yên tâm.
Mai Thúc Lại khóc và nói:
– Sư thúc chưởng môn giao trọng trách cầm đầu phái võ cho con, con xin tạm nhận để sư thúc chưởng môn yên lòng. Nhưng cương vị chưởng môn này phải do sư đệ của con nắm giữ mới xứng đáng. Con cứ đi và cố cứu sư đệ của con trở về. Khi đó con trả lại quyền chưởng môn cho sư đệ của con nắm giữ.
Phổ Hiền, Phổ Đức cùng long lanh nước mắt nâng Mai Thúc Lại đứng lên. Các quan tướng họ Trần đứng lặng người đi. Họ cảm thấy tình sư huynh, sư đệ, tình sư phụ đệ tử của phái võ Yên Tử thật đáng trân trọng.
Mờ sáng hôm sau, đoàn buôn của Mai Thúc Lại lên đường. Việc buôn bán giữa hai nước đã từ hơn trăm năm trước, đỉnh cao là cuối triều Lý. Bấy giờ, ở dọc biên giới Đại Việt, Đại Tống và gần đây là Đại Nguyên,, những bạc dịch trường to nhỏ, hiện diện của sự phồn thịnh về buôn bán giữa hai nước. Ít lâu nay, sự buôn bán trên mặt biển quan trọng hơn. Trước hết là vì quy mô các nước tham dự ví như Trảo Oa, Chân Lạp, Miến Điện, Mã Lai… và sau nữa là sự phong phú của mặt hàng. Qua cửa khẩu Vân Đồn ngoài khơi của vịnh Bái Tử Long người ta biết đến chất thép của vùng Tây Á, người ta biết đến những bộ áo giáp và lá mộc đồng bằng Tây Âu. Cũng qua cửa khẩu Vân Đồn, người ra bán qua Tây Á trầm hương, hồ tiêu, hương liệu quý. Qua giao dịch người trong nước biết rằng ở xứ xa xôi kia ai có đến một vốc hạt tiêu là có thể được coi là giàu. Công nương xông áo xống bằng hương liệu Đại Việt, và trong nhà những phú gia địch quốc mới có hương trầm ngan ngát. Người ta biết đên Vân Đồn những người ta vẫn chưa quên các bạc dịch trường ở trên bộ. Trong đoàn buôn của Mai Thúc Lại có những anh hòa nổi tiếng trong các bạc dịch trường. Ngoài ra trong đoàn của ông có hai người thông thạo đường biển, thông thạo đường Vân Đồn, quen biết nhiều những buôn biển lớn. Cứ trông hai đồ dùng họ cầm trong tay cũng đủ rõ: một cái bới chèo thuyền bằng gỗ cau lên nước đen bóng như bằng sừng, một sào trường bằng tre đực chắc là có kén chọn nên sào rất dài mà thân sào rất nhỏ chỉ vừa nắm trong chét tay. Hai người này mỗi người cầm một thứ trong tay, họ ra đi kỳ này không phải vì chuyến buôn trên bộ. Họ ra đi để tìm đến Khâm châu Liêm châu tìm đến nhữung chiến công tương lai.
Đoàn buôn của Mai Thúc Lại đi ở đường thượng lộ, đường đi theo rẻo ở của người Mán đầu đỏ. Là những người rất tin cậy voiứ Mai Thúc Lại qua nhiều chuyến buôn từ khi ông chỉ là một chú nhỏ đi theo hầu cơm hầu rượu ông trưởng đoàn. Đường đi theo đường ruột dê cheo leo ngay cả với những chân ngựa hồ quen thuộc. Đoàn của ông ra đi lúc tờ mờ sáng đến chiều thì đến một bản Dao đỏ. Trẻ con dân bản ùa ra đón đoàn buôn. Một cô người Dao đỏ chỉ tuổi mười chín đôi mươi reo mừng:
– Bác Mai, bác Mai. Bác còn sốn à?
– Cháu Leng Chín đấy à, mấy năm rồi mà cháu vẫn nhận được ra bác.
Leng Chinh tíu tít:
– Làm sao cháu quên bác được. Cứ tưởng chinh chiến giữua hai nước sẽ cắt đứt mối giao tình đôi bên.
– Ông nội cháu thế nào? Bố mẹ cháu thế nào?
– Bố mẹ cháu vẫn khỏe, rất mong các bác sẽ qua lại như xưa, con ông cháu thì đã qua đời ba năm rồi.
Cô bé chớp chớp đôi mắt, lệ đọng trên mi.
Mai Thúc Lại vồn là bạn buôn quen biết với gia đình Leng Chín. Đã ba năm nay ông bỏ đường buôn trên bộ, dùng đường thủy buôn bán qua cửa Vân Đồn với Trảo Oa. Đúng lúc này bố Leng Chín từ trên nhà sàn chạy xuống reo mừng:
– Bạn Mai, bạn Mai, vợ chồng tôi thiếu bạn quá.
Hai người bạn ôm chầm lấy nhau mừng rỡ trong khi đó đoàn buôn của Mai Thúc Lại đi vào trong bản. Chiều tối hôm đó đoàn buôn nghỉ tại bản Dao đỏ. Ông Leng Páo sai giết lợn thết đoàn.
Mọi người quây quần xung quanh bếp lửa, bây giờ là mùa hè nhưng ở trên bản cao này lạnh hơn mùa đông ở miền xuôi. Hút thuốc lào xung quanh bếp luẳ thật ấm và đậm đà.
Ông Lèng Páo sai đem ra hũ rượu ngâm huyết tu lình:
– Đi trong sương gió có mưa thì có rượu tu lình là thứ tốt nhất.
Mai Thúc Lại lấy ra một cái túi đưa cho ông Lèng Páo:
– Đây là một túi hạt trai biển đông. Ông bạn đã biết giá trị chữa bệnh của hạt trai rồi đấy nó dùng cho người bị thương rất là hiệu nghiệm, vừa cầm máu, vừa sinh huyết. Vùng này đang qua chiến tranh, người bị thương đôi bên đầy đường, cái này cần lắm đấy.
– Có chiến tranh thật, nhưng ở đây trên núi cao chẳng có ai đi qua. Ngay cả trưởng thôn cũng chẳng có ai gọi về huyện nghe lệnh. Chiến tranh chỉ đi bên cạnh chúng tôi mà thooi. Nghe nói hiện nay huyện rời sang chỗ khác, chỗ huyện cũ là trại đóng quân. Người ta bắt đi vòng đường khác. Xa hơn mất ba ngày đường.
– Người ta có xét hỏi không?
– Có đấy, nhưng với người buôn thì chi đi thoải mái.
– Tôi muốn tới Trì thôn, đi đằng nào thì tiện?
– Tới Trì thôn thì không được đâu lố? Trì thôn bây giờ là trại binh. Cả ngàn cả vạn người. Cứt người, cứt ngựa đầy rừng. Người lạ đến gần bắt chém ngay.
– Kể cả người quen, kể cả lái buôn, kể cả người Nguyên?
– Tất cả phải có thẻ bài do chính ông tướng chỉ huy ở đấy cấp. Còn tất cả tới cách mười dặm là phải rẽ đi đường khác.
– Nhưng tôi vẫn muốn tới Trì thôn, có cách nào bạn Lèng giúp tôi được không?
– Có đấy, có đấy, nhưng mà rất khó.
– Đã thế khó cũng cứ làm.