← Quay lại trang sách

Chương 21

Hai cô khách quý của tướng quân A Rích đang tranh luận với nhau ráo riết. Hai cô đã đến mấy hôm nay, hôm nào cũng một cô xuống chợ vì ngay từ khi đến nơi hai cô đã chọn túp lều trên mỏm núi nơi ở cũ của Đỗ Vĩ. Còn anh thì từ khi hai cô chiếm mất nơi ở của mình thì tướng quân A Rích cho chuyển anh xuống nơi làm việc của trạm Trì thôn. Người ta soạn cho anh dãy nhà ngang ba phòng trước đây là chỗ àm việc về giấy tờ của tướng quân trấn phủ. Cô Thúy là một cô gái miền núi Tản, sông Đà tính người đằm nói năng từ tốn và là một người thùy mị. Còn cô Liên là một cô gái quê gốc Nghi Tàm làng dệt lụa nuôi tằm ngay bên hồ Tây, đây chính là cô gái có cái răng khểnh, hay nói hay cười, tính hoạt bát vui đùa của người làng ven đô.

Hôm nay cô Liên từ trên lều cao xuống chợ. Chợ Trì thôn đã cấm họp chợ từ ít lâu nay. Các lều quán ven chợ cũng bị bắt chuyển đi xa. Trì thôn từ lâu đã trở thành trại quân. Nhưng đi quanh chợ vẫn có cảm giác là đến một nơi đông người, nó đem lại cho người ta sự vui vẻ. Từ trong sân trạm Trì thôn, Đỗ Vĩ đứng lơ đãng nhìn ra ngoài đường. Con đường từ phía nam lên phía bắc. Đỗ Vĩ nhìn Liên và cô cũng nhìn thấy anh đang ngắm mình. Một nụ cười đồng cảm cũng nở trên đôi môi của hai người. Liên rẽ vào sân trạm:

– Hôm nay tiên sinh không đi chơi?

– Tôi không được tự do đi lại trong Trì thông, Muốn đi tôi phải báo địa điểm với trạm canh cho nên tôi không đi đâu cả. Chợ có họp đâu mà cô cũng xuống chợ?

– Ở quê tôi cũng không có chợ. Chúng tôi đi chợ bán hàng là bán tơ lụa cho người buôn ở Thăng Long.

Cô gái này hay nói, khi nói thì nói tía lia nhưng Đỗ Vĩ lại rất thích vì nó gợi không khí Thăng Long rất thương nhớ của anh và nhất là anh tin cô. Chính cô là người đã nói cho anh biết lệnh của Thoát Hoan với số phận của anh. Đỗ Vĩ mời:

– Mời cô vào tạm trong phòng này. Trong này tôi có rượu.

Đỗ Vĩ liếc mắt thấy mấy tên Mông Cổ từ xa vẫn theo dõi kỹ lưỡng. Anh mời cô gái vào phòng. Trong phòng có một bàn ghế trúc đơn sơ, trên tướng treo một bức tranh phong cảnh hùng vĩ và bí mật.

– Cô thích bức tranh này à? Đây là cảnh rừng núi vùng ven biển Đông.

Nhưng anh lại cầm tay cô gái lên cầm bút viết lên lòng bàn tay: rượu có độc. Cô gái điềm đạm rót rượu ra hai chén và hai người cùng giơ chén lên mời nhau nhưng lúc đưa lên miệng uống, hai người cùng giơ chén đổ rượu xuống đất. Rồi cùng nhau nhìn nhau cười. Một cảm giác ấm áp tin cậy trong lòng Đỗ Vĩ:

– Tiên sinh ở Thăng Long có biết đến làng Nghi Tàm quê em không?

– Đấy là nơi tôi đã mấy lần qua chơi, vẽ tranh, uống trà ướp sen của sư bàn chùa Kim Liên.

– Ước gì chúng ta có thể quay trở về đấy được.

– Đúng thế. Đấy là một đất ở của một thi nhân và một đất ở của mỹ nhân.

Liên cảm động. Cô ngồi xuống bàn chấm rượu viết lên mặt bàn: Tại sao không trốn? Đỗ Vĩ điềm đạm rót rượu ra chén rồi cũng chấm rượu viết lên mặt bàn: Không thể trốn nổi. Liên lại viết: Quan hai đêm nữa sẽ có cơ hội. Đỗ Vĩ viết: Còn cô thì sao? Liên cười xòa nói:

– Em là con gí Thăng Long, dù có ở đâu thì Thăng Long cũng ở chung quanh em.

Và đôi bên đằm vào câu chuyện chiến tranh ly tán diễn ra vào hồi cuối. Họ nhìan thấy ở nhà trên vạn hộ hầu A Rích đanh đứng ngoài sân nhìn về nhà ngang. Và họ thấy A Rích đi về phía họ. Họ đứng lên nghênh tiếp A Rích. Mây người chào hỏi nhau thân thiết và bình thướng như giữa họ không có gì xảy ra. A Rích nói:

– Có một việc tôi phải nhờ tiên sinh. Nơi ở tạm của phu nhân chúng tôi đã trang trí xong nhưng còn thiếu một bức tranh treo trên tướng và một lá quạt. Tôi mời tiên sinh vẽ cho tôi một bức tranh sao cho phu nhân hài lòng. Và tôi cũng mời tiên sinh làm cho tôi một lá quạt có chữ đề của tiên sinh, có một bức tranh nhỏ của tiên sinh trong lòng quạt để cho phu nhân của tôi thích thú.

– Ý muốn của tướng quân tôi sẽ hoàn thành rất nhanh, nhưng chọn cảnh nào thì tướng quân cho tôi biết. Phong cảnh xứ Việt hay phong cảnh Lưỡng Quảng, Vân Nam. Chắc chắn phu nhân sẽ thích cảnh xứ Việt và chắc chắn phu nhân muốn cầm trong tay một hình ảnh thu nhỏ của xứ Việt. Nhưng có khi tướng quân lại không muốn như thế. Có khi tướng quân muốn phu nhân quên đi đất Việt, người Việt. Tôi thật lòng xin tướng quân đừng giận, có khi tướng quân muốn phu nhân quên mình là người Việt.

A Rích vẫn bình thản như không:

– Dù phu nhân quên hay không quên, phu nhân cũng không còn là người Việt nữa. Ngay cả mấy cô thị nữ ở đây cũng vậy. Qua một vài năm, họ sẽ không còn là người Việt.

Liên nói chen vào:

– Họ sẽ lấy chồng ở đây, nuôi con lớn lên làm quan trong triều nhà Đại Nguyên và khi về già họ là nhưng bà vợ quan, vợ tướng của triều đình Đại Nguyên.

Đỗ Vĩ kịnh ngạc nhìn Liên, anh không ngờ cô có thể bình thản nói lên một điều chắc rằng trong thâm tâm mình không nghĩ như thế. Nhưng Liên nói tiếp:

– Cuộc đời xoay vần không biết thế nào tính được. Nay là người Việt, lấy chồng rồi thì thành người Nguyên, về già nuôi con, khi chết đi nằm xuống gửi đât Nguyên.

– Cô Liên nói nghe sao buốn thế. Tướng quân A Rích đây có thể kiếm một người Việt ở bên đất này cho cô làm chồng.

– Đâu mà dễ kiếm thế. Những người Việt vào nội phủ ở bên này đều là những người tùy tùng của đức ông Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chương Hiến hầu Trần Kiện, họ đều manh cả gia đình vào theo.

– Thôi đừng tính toán lôi thôi nữa, mọi việc có trời xếp đặt sẵn. Chồng thế nào, vợ thế nòa đã có ông tơ bà nguyệt lo.

A Rích nói với Đỗ Vĩ:

– Ngay chiều hôm nay tiên sinh có thế lên lại lều trên vẽ tranh.

– Việc vẽ tranh thì dễ thôi. Còn quạt thì không dễ như thế. Tôi có lá quạt Hới này nhưng là quạt thước dùng cho các lão ông. Tướng quân có biết không, những ông già xứ tôi hay dùng cái quạt thước đi đường có thể xòa ra che nằng, gập lại thì quạt mát, trở ngược đầu quạt thì có thể đánh cho đến tru lăn méo lộn.

Cả ba người cười ồ lên. Đỗ Vĩ tiếp:

– Nhưng với các công nương thì khác. Với họ phải là quạt trầm hoặc là quạt Hới loại thật nhỏ, mỗi nan quạt là ghép đôi hai mặt cật, mặt quạt không vẽ mà bồi một bài thơ giữa hai lần giấy. Đấy là quạt của các công nương tài hoa lỗi lạc. Nhưng ở đây sao kiếm được lá quạt như vậy. Trước đây buôn bán giữa hai bên chưa bị gián đoạn còn có thể kiếm được của những đoàn buôn Đại Việt. Bây giờ thì buôn bán gián đoạn rồi, Các bạc dịch trường đã bị giải tánm cái chợ Trì thôn này ngày xưa mười ngày một phiên, các lái buôn Đại Việt đến tụ họp ở đây rất đông nhưng bây giờ thì ngay đến chợ cũng bị đuổi ra ngoài xa mười dặm, việc kiếm lá quạt Hới, lá quạt trầm là cực kỳ khó khăn.

– Tiên sinh yên trí, chiến tranh chưa chấm dứt nhưng việc buôn bán giữa đôi bên đã nối lại từ lâu, chợ tuy phải rời Trì thôn mười dặm nhưng các lái buôn đã đặt trạm tuần trăng trước. Hai hôm nữa tôi sẽ đưa tiên sinh đi chợ, tiên sinh có thể tìm ở đấy đủ thứ cần dùng, tôi muốn khi phu nhân tôi đến đây bà sẽ vui lòng.

Liên liếc mắt nhìn Đỗ Vĩ. Cô muốn truyền cho anh là cơ hội sẽ xảy ra trước mắt có công của cô. Đỗ Vĩ nhận ở Liên ánh mắt trao đổi tin bí mật, anh mỉm cười với A Rích:

– Vậy thì tướng quân có thể yên tâm, người thợ thủ công Đại Việt rât khéo tay và tất cả mọi người sẽ làm việc để phu nhân của đại nguyên soái hài lòng.

A Rích rất chăm cho việc vẽ tranh của Đỗ Vĩ. Căn lều trước kia của anh đươck trang trí kĩ lưỡng những lá màn lụa chắn gió màu cốm non phủ một màu huyền ảo ở cửa sổ. Buổi vẽ tranh về tối lúc canh hai. Căn lều như rực sáng lên dưới ánh bạch lạp. Chính giữa lều là một cái bàn rộng mặt rất phẳng. Cô Liên và cô Thúy đón tiếp khách vào. Đó là Đỗ Vĩ và A Rích. A Rích hỏi Đỗ Vĩ:

– Có người lạ tiên sinh vẽ tanh có bị ảnh hưởng gì không?

– Cũng có đấy, vẽ tranh cần phải tĩnh tâm, có người lạ, xúc cảm phân tán, vẽ không thể xuất thần được.

– Nếu vậy hai cô nương đây và tôi sẽ rời xa nơi này để tiên sanh yên lòng vẽ tranh.

– Không đâu hai cô sẽ làm mẫu cho tôi vẽ. Mỗi cô mỗi vẻ mà tôi muốn trong tranh tôi có các vẻ khác biệt.

– Vậy thì hai cô sẽ ở lại. Còn tôi sẽ rời nơi đây. Ở đây có đủ rượu đủ trà. Lính của tôi đã thu xếp đầy đủ.

A Rích chỉ tay vào cái kỷ nhỏ góc lêu, trên đó bày đủ trà rượu, trà là trà Ô Long, trà Tuyết, rượu là rượu thanh mai, rượu cúc, rượu sen, các loại rượu có hương thơm rất mạnh. A Rích vái chào rất lịch sự và y vén là rèm lụa bước ra ngoài. Tên lính hộ vệ nhìn y nhưng y phất tay ra hiệu cho theo hầu. Thầy trò A Rích theo nhau xuống núi. Bỏ lại trong phòng chỉ còn ba người. Thúy và Liên trải lên mặt bàn một mảnh lụa tơ tằm, chỉ nhìn cũng biết là loại lụa người bán ở Thăng Long. Lụa này còn cứng chứng tỏ chưa chuội chanh. Đỗ Vĩ đặt tay lên mặt lụa khẽ cúi mặt, một vị tanh quen thuộc phả lên mũi.

– Lụa này chính gốc lụa Đông Ngàn đấy.

– Lụa này đem đi từ thành Thăng Long. Chính cô Liên đây đưa ra ý kiến vẽ tranh với tướng quân A Rích.

– Nhưng trải thế này chưa được, bức tranh này tôi vẽ phải hai hôm. Một hôm vẽ tranh, một hôm sửa lại và đề thơ. Vậy hôm nay sắp xếp để vẽ, cố xong trước canh ba. Ngày mai sẽ sửa và đề thơ. Còn bây giờ phải làm cho bức lụa không xê dịch. Phải làm thế này.

Đỗ Vĩ lấy từ trong túi ra một dúm đinh dăm. Anh dùng sức ấn những chiếc đinh dăm vào bốn góc và ở hai chiều dài ấn hai chiếc đinh nữa.

– Như thế ngày mai ta tiếp tục mà không sợ màn lụa xê dịch.

Anh ngước nhìn lên, hai cô gái tò mò nhìn anh mắt như cười.

– Tại sao tiên sinh lấy hai chúng tôi làm mẫu.

– Cô Thúy có mái tóc rất dày nhưng người mảnh mai rất trái ngược. Cô là một người đằm tính. Cô Liên tóc tơ nhưng là người khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Tôi muốn lấy cái người của cô Liên và mái tóc của cô Thúy.

– Có cần thế không nhỉ?

– Đúng là không cần. Tôi chỉ muốn giữ hai cô ở lại đâu để nói chuyện, để nghe tiếng nói của người Việt với nhau. Có lẽ cũng chỉ còn vài ngày nữa tôi được nghe tiếng Việt. Tôi linh cảm thấy có một chuyện gì sắp xảy ra với tôi.

Anh đi về cuối lều chỗ có cái kỹ bày rượu. Anh lấy lên một nậm rượu rót ra ba chén. Anh chấm tay vào một chén rượu rồi viết lên kỷ: rượu độc. Anh đưa chén rượu lên ngang mũi, mùi rượu thanh mai không át được mùi tanh của chất kịch độc. Anh nghiêng chén cho rượu chảy xuống dưới đất. Hai cô gái cũng cầm chén của mình lên như uống nhưng cũng nghiêng chén cho chảy xuống đất.

– Rượu thanh mai ngon thật. – Đỗ Vĩ nói rất to.

Đỗ Vĩ ngâm nghĩ dụng độc như thế làm sao qua mặt được anh, thậmc hí anh có thể uống cái thứ rượu độc này rồi giải sau cũng được nhưng anh không thể dùng giải pháp nguy hiểm thế.

Liên nói:

– Hiện nay chợ Trì thông không mở nhưng chợ được họp ở xóm Núi cách đây ba chục dặm. Có cả đoàn buôn của Đại Việt đã đến rôi. Đến ngày kia là có phiên. Đến ngày ấy tôi sẽ đến để kiếm quạt trầm. Có thể xin với tướng quân A Rích để tiên sinh cùng đi. Vì chọn quạt làm sao có người tài hơn tiên sinh được.

Đỗ Vĩ hiểu rằng việc vẽ tranh vẽ quạt là do Liên bày ra để tìm cách cho anh rời khỏi Trì thông và rời khỏi luôn cả đất Nguyên. Một tình cảm kỳ lạ nảy nở trong lòng anh. Là sự cảm ơn, sự đồng điều hay là tình yêu? Trong buổi tối hôm ấy Đỗ Vĩ vẽ tranh miệt mài, đã hơn một năm rồi chưa bao giờ anh vẽ miệt mài và say sưa như thế và cũng trong buổi tối hôm ấy ba người đã uống rượu bốn lần và cũng là bốn ần cho đất uống rượu. Tranh anh vẽ một mĩ nữ mặc trang phục Đại Việt có một mớ tóc óng ả rất dày, bới trễ nải và có một vẻ đẹp khỏe mạnh của người con gái đồng bằng sông Cái. Khác với mọi tranh mĩ nữa xưa nay Đỗ Vĩ vẽ là những người con gái nghiêm trang thùy mị thù đây là một cô gái tươi tắn yêu cuộc sống. Cô ta đang cười lộ ra một chiếc răng khểnh nom vừa tươi vừa nghịch ngợm.

Nhưng cây bạch lạp soi sáng căn lều, mùi sáp nến sáp ong quen thuộc.

Sáng sớm hôm sau một buổi sáng quá đỗi nhàn rỗi với Đỗ Vĩ. Không có việc gì để làm. Không thể có nơi nào để đi đến dù chỉ là đi chơi, để ngắm cảnh. Và cả một buổi sáng không có người để nói chuyện. Đây quả là một buổi sáng cô đơn. Kể từ khi anh rời đất Việt đi, cảm giác cô đơn luon luôn theo sát anh. Nhưng là một sự cô đơn ồn ào giữa chợ, nói cho cùng, chung quanh là kẻ địch cũng vẫn là người, có tiếng cười. Đằng này là một sự tĩnh lặng hoàn toàn. Những tên lính Nguyên, những tên tướng Nguyên đồn trúd tại Trì thông mọi khi vẫn lảng vảng nhòm ngón chung quanh khu nhà anh ở. Hôm nay chúng biệt tăm. Cả A Rích cũng vậy. Mọi hôm gần như lúc sáng bao giờ hắn cũng đảo qua thăm hỏi anh ngủ có ngon giấc không. Hôm nay thì hắn bặt tăm.

Tới gần trưa, đột nhiên Liên xuất hiện, cô báo tin rằng ngày kia thì phù bài cho phép anh đi chợ núi mua sắm mới xong, còn cô thì có thể đi ngay ngày mai. Như vậy tối hôm nay anh vẫn tiếp tục vẽ tranh đề thơ trên lều.

Liên không muốn nói cho anh biết giữa hai cô có một cuộc trao đổi có thể là gay go đến mức cãi nhau: ai là người sẽ được trốn theo Đỗ Vĩ về Đại Việt. Và người ấy sẽ tình nguyện cả đời nâng khăn sửa áo cho Đỗ Vĩ.

Hai cô cãi nhau, cô nào cũng cho mình làm vợ Đỗ Vĩ là hợp. Còn ai theo Đỗ Vĩ bỏ trốn thì cũng thế mà thôi.

Cuối cùng lý lẽ Liên đưa ra thì Thúy không thể cãi được. Đó là Liên là người đã nghĩ ra kế vẽ tranh, vẽ quạt dẫn đến việc phải cho Đỗ Vĩ đi xóm núi để tìm quạt. Người nghĩ ra kế là người công lớn, Thúy phải chịu thua. Như vậy đến ngày kia, Đỗ Vĩ sẽ được đi xóm Núi vì khi đó phù bài cho phép mới làm xong. Còn ngày mai thì Liên có thể đi trước để thăm đường.

Nhưng cô chỉ nói với Đỗ Vĩ một điều là ngày mai phù bài của anh mới làm xong. Như vậy ngày kia anh mới đi được. Cô nghĩ rằng cô sẽ là người đi trước một hôm thăm dò đường.

Vừa lúc ấy thì A Rích xuất hiện trên nhà trên và đi xuống khu Đỗ Vĩ ở. Ông ta vái chào và nói rất lễ phép thân mật.

– Buổi sáng hôm nay tôi có lên lều cao xem tranh tiên sinh vẽ. Mọi khi tiên sinh vẽ phong cảnh tôi rất thích, lần này tiên sinh vẽ người mà lại vẽ mĩ nữ thì rất đẹp tôi càng thích. Không biết phu nhận thế nào chứ tôi thì tôi thích vô cùng.

– Ồ, tôi nghĩ rằng tôi chọn một đề tài không thích hợp, vẽ tặng mĩ nữ, vẽ tranh treo phòng riêng của mĩ nữ mà lại vẽ mĩ nữ thì làm sao vừa lòng chủ nhân được. Nói thế này có lẽ hơi phạm thượng vì phu nhân cũng là người, đàn bà giống nhau hết, ghen nhau cái đẹp, ghen nhau cái tài, ghen từng tí một.

– Kể cả cô Liên đây nữa hay sao?

– Thưa cô nương tôi xin cứ nói thẳng ra, đàn bà là giống nhau hết.

– Thưa tiên sinh, lỡ ra có người khác thì sao?

– Không có người khác vì không có trường hợp đặc biệt.

A Rích tò mò nhìn Đỗ Vĩ, hắn lấy làm lạ rằng Đỗ Vĩ không muốn lấy lòng hai cô thị nữ của công chúa An Tư. Tối hôm qua khi Đỗ Vĩ về nơi ở, quân hầu vào dọn chỗ vẽ, hắn đã dặn tên tiểu tướng xem xét kỹ bình rượu, xem xét kỹ rượu dùng rồi và có đổ đi đâu không. Tên tiểu tướng đã báo là có một góc lều đổ đẫm rượu. Như vậy cả Đỗ Vĩ và hai cô này đều không uốn rượu,thé thì độc dược sẽ xâm nhập vào cơ thể của ba người. Có thể họ sẽ chết cả ba, chết êm ái toàn thây. Và quân Nguyên chẳng có tồn hại gì trong chuyền đó. Việc kính trọng ngoài mồm hai cô thị nữ của công chúa An Tư chỉ nhằm làm cho Đỗ Vĩ yên tâm mà thôi.

– Tối nay tiên sinh vẫn vẽ tranh trên lều. Phù bài của tiên sinh chiều mai mới lập xong vì viên thư lại coi phù bài đi có việc bận mãi trưa mai mới về.

– Ồ, tướng quân khỏi bận tâm, xong lúc nào là tôi đi ngay. Còn nếu châm việc mà không phải do tôi thì tôi chẳng bận tâm. Phu nhân lệnh bà không phải chủ của tôi, cũng không phải người thân của tôi. Tôi làm là theo ý của tướng quân mà thôi.

– Tối nay tiên sinh vẽ tranh có cần tôi bảo tả hữu làm mấy món nhắm, mấy món bánh để nếu khi vẽ tranh khuya ăn đêm một tý cũng tốt. Tiên sinh thích món gì?

– Món gì cũng vậy, mùa này đã vào thu rồi, mọi khi thịt thú rừng bán đầy chợ nhưng bây giờ nếu kiếm thịt dê núi cũng khó. Vậy thì tốt nhất là hầm cho mấy con gà là đủ.

A Rích vái chào từ biệt. Vậy tối nay mấy người này sẽ bị hạ độc là tối thứ hai. Mà ba tối là giời gỡ. Xem ra họ mắc mưu ta thật rồi. Đỗ Vĩ tiễn Liên ra cửa, Liên kéo ngay anh ra phố chợ Trì thôn xưa kia chỗ này rất đông, có những quán ăn, có những quán hàng bán các loại sản phẩm mà thường biên giới hai bên đều có. Nhưng bây giờ vắng teo, nhà không có chủ. Còn quân Nguyên đóng xung quanh Trì thôn trên các mỏm đồi thấp lè tè. Liên bảo Đỗ Vĩ:

– Sáng mai em sẽ đi chợ xóm Núi, đi trước một ngày, tiên sinh có dặn gì không?

– Nghe nói xóm Núi bây giờ đã có những đoàn buôn Đại Việt tuy không nhiều không đông bằng trước nhưng tôi chắc người tôi quen đã có mặt.

– Tiên sinh có thể cho em biết là ai không?

– Tôi chưa biết là người nào nhưng nếu người dẫn đường là người Dao Đỏ tên là Lèng Chín là đúng. Hoặc nếu không phải cô Lèng Chín thì là Lèng Páo bố của cô ta. Ông Lèng Páo rất biết các bạn của tôi. Cô cứ đưa cái này cho ông ta.

Anh đưa một que chuyền bằng tre cho cô để làm tin. Đây chính là que chuyền thẻ phù Tiều Bội đã đưa lọt về Đại Việt năm lần.

Bất chợt Liên như nhận ra có người chú ý đến mình, Liên đưa mắt về phía nhà làm việc thấy A Rích đứng bên trong nhìn ra. Cô khéo léo rút khăn là đưa cho Đỗ Vĩ, cách đưa thân mật, mơn trớn như tặng chiếc khăn cho anh, cô nói nghiêm trang nhưng lại cười rất tươi.

– Tướng giặc đang nhìn.

Buổi tối hôm đó, buổi vẽ tranh thứ hai bắt đầu. Khi Đỗ Vĩ bước vào trong lều thì lều sáng trưng. Hôm nay không đốt bạch lạp mà là những cây nến đỏ rất đẹp to bằng cổ tay cắm trên những chân nến bằng đồng đen có chạm trổ tinh vi. Ở cái án gốc lều có bày rượu và vài món ăn quý. Có thịt dê rừng nướng, có gà nuôi ống hầm. Còn rượu là loại bồ đào rất nặng, rất thơm của vùng trồng nho xứ Ba Tư. Thứ rượu này là loại rượu quý, vua nhà Nguyên Hốt Tất Liệt thưởng cho con từ khi chiến tranh mới bắt đầu. Nhưng đó là bộ phận cung phụng bếp núc của quân Nguyên chỉ gửi đươck một lần ra trận cho nguyên soái Thoát Hoan còn về sau do hành trung doanh của Thoát Hoan di động đến rất nhiều nên rượu không thể gửi tới nơi và còn lại đến nay mấy vò lớn. A Rích biết mép rượu của Đỗ Vĩ, mang lên đây hai nậm có hạ độc, là loại thuốc độc dễ nhận. Gã tin rằng Đỗ Vĩ chắc chắn nhận ra mà không uống. Gã thích thú khi biết rằng Đỗ Vĩ sợ rượu độc mà không uống mà Đỗ Vĩ là người sành rượu, thích uống mỹ tửu và bây giờ không dám uống, sống trong sự thèm thuồng. Phải nói rượu là một thứ quyến rũ đặc biệt mà bồ đào mỹ tửu càng quyến rũ rất nhiều: dân mép rượu dù biết rượu độc, dù nguy cấp, thà nguy cấp vẫn uống. Như thế A Rích thích thú vì đã đánh trúng huyệt đối thủ. Trên cái án giữa nhà vẫn găm bức tranh hôm qua mới vẽ xong. Khoảng trống bên trái tranh vẫn trinh nghuyên chờ bài thơ đề.

Hai cô Thúy và Liên đón Đỗ Vĩ vào lều, họ rúi rít vui mừng cười. A Rích và hai tên lính hầu vái chào họ và rút lủia ngoài xuống núi. Thúy nói với Đỗ Vĩ:

– Hôm nay không phải vẽ tranh mà chỉ có đề mấy câu thơ chắc là dễ dàng và đỡ mất thì giờ, tiên sinh ngồi đấy để chị em tôi hầu chuyện.

– Không đâu, hôm nay tuy không phải vẽ tranh nhưng đề bốn câu thơ phải mấy không ít thời giờ. Đề bốn câu thơ là định hình cho về tâm linh cho bức tranh. Nói khác đi là thổi hồn vào bức tranh, Chọn thơ đã khó, chọn thơ cho hợp ý lại càng khó hơn mà chọn thưo để bày tỏ ý mình lại càng khó nữa. Tranh là tranh, vẽ để tặng một người có tên, có tâm sự, người vẽ tranh muốn gợi ý cho người chủ tranh buộc tâm linh người này hướng về ý mình định.

Không khí trang trọng khiến Thúy và Liên không dám nói nữa. Hai chị em im lặng trang nghiêm ngồi ngắm Đỗ Vĩ. Anh mài mực nhẹ nhàng và bảo với hai cô:

– Người ta nói, mài mực ru con, mài son đánh giặc. Khi mài son thì mài hùng hục, còn mài mực thì phải rất nhẹ, kiên nhẫn thì mực mới nhuyễn và khi viết không sơ bút, không óc sạn trong nét bút. Các cô xem, mực này đã nhuyễn chưa?

Anh tẩm ngọn bút vào đĩa mực, chọn một tờ giấy lụa thảo lên trên một chữ “phật”, nét bút như rồng bay phượng múa.

– Các cô xem này, mực đen láy, nét mịn màng, các cơ bút cung rất rõ, thứ này dùng đề tranh mới hợp.

Anh lại gần bức tranh, dùng những đồng tiền ngũ thù đặt làm dấu cho các dòng, các chữ trong khoảng trống dành cho đề thơ.

– Thơ tôi sẽ viết đá thảo, nét bút sẽ vòng xuống vòng lên, phải có các đồng tiền này làm cữ cho thơ cân đối với bố cục của tranh.

– Bây giờ thì tiên sinh uống rượu cho có hứng khi đề thơ.

Liên nói nhưng mắt lai hơi cười. Cô rót rượu ra các chén. Bồ đào mỹ tửu đảnga phải uống chén pha lê hay dạ quang nhưng ở đây làm gì kiếm ra loại ấy. Liên phải rót vào chén sứ bạch định, loại chén nổi tiếng của nhà Tống. Ba người nân chén lên mời nhau, nhưng họ nghiêng chén đi đổ xuống đất. Liên soi lên ánh nến. Một chút cặn dạ quang bám xung quanh thành chén. Cô nghiêng chén cho Đỗ Vĩ nhìn. Anh bật cười. Hạ độc cách này thì ai không nhận ra, không khí rất thân mật. Liên nói nhỏ:

– Mai em sớm lên đường đi xóm Núi từ sáng sớm, từ đây lên đấy cũng xa, cả đi lẫn về phải sẩm tối em mới về tới nhà.

– Tôi mong cô đi gặp được Lèng Chín hoặc bố cô ta. Nếu gặp Lèng Chính thì cô dễ nhận hơn. Cô ấy có nước da trắng nõn như trứng gà bóc và tóc thì hung hung đỏ. Không phải loại tóc của người Lưỡng Quảng hoặc Đại Việt. Nếu gặp được cô ta thì việc lớn của chúng ta xong. Tôi cầu chúc chúng ta gặp may. Bây giờ thì tôi chuẩn bị đề thơ.

Anh lấy ra môt đôi quạt chính là đôi quạt Hới đánh chó mà anh vẫn thường nói. Anh dùng đôi quạt Hới lúc xòe ra lúc cụp lại, múa chậm rãi một bài múa quạt; chậm rãi tới mức như điệu múa của các vũ nữ Chiêm Thành. Hai cô con gái biết Đỗ Vĩ dùng múa quạt để làm mềm mại những động tác của mình. Họ im lặng và ngắm người nghệ sĩ đang tập trung tinh thần cho điệu múa. Đỗ Vĩ múa rất lâu, dễ đến một nửa canh giờ. Đến lúc gần như anh thấy gân cốt của mình dẻo quẹo mới ngừng tay. Anh đứng trước án, nhắm mắt lại vẻ mặt trang trọng. Hai cô con gái không dám cử động. Giờ lâu, Đỗ Vĩ mới mở mắt ra, anh thận trọng cầm lấy bút tẩm bút đẫm vào nghiên mực, anh hít một hơi dài và giơ bút lên viết một mạch gần như không nhấc bút bốn câu thơ:

Tóc thoảng hương mại má nhụy đào

Liếc nhìn mà dạ nao nao

Thịt da một bọc tanh nồng đó

Ngầm cắt lòng người chẳng mượn dao

Bài thơ viết theo lối thảo, chữ nọ liền chữ kia, câu nọ liền câu kia gần như không nhấc bút. Các nét sổ, các khuôn đao không còn góc cạnh chỉ còn tròn xoe như búi dây tơ hồng kéo liền vào nhau. Bài thơ viết thật đạt, nét bút phóng khoáng, phong cách của người viết cực kỳ phong trần.

– Bài này là bốn câu kệ trong tập thứ hai của bộ sách Khóa hư lục của thượng hoàng Trần Cảnh. Sau này cô trình phu nhân, cô nói rõ cho lệnh bà biết tôi đề thơ này không phải là để dành tằng lệnh bà mà chính là để cho tôi. Tất nhiên vẽ tranh mỹ nữ mà tặng một người đẹp lại đề từ như thế này là không nên, là xúc phạm đến người đẹp. Lệnh bà nên nhớ tôi biết cái này chính là tôi tự răn mình.

Anh chỉ đề có bốn câu thơ mà công việc từ mài mực, múa quạt đề thơ xong cũng phải đến gần canh ba mới hoàn tất. Nhưng anh không nói tất cả các công việc đó cũng không dài và không tử công công phu như việc chọn thơ.

Không khí đầu thu ở vùng núi về ban đêm đã se lạnh nhưng ở trong nhà, ba ngơpì thấy ướt đẫm mồ hôi. Chẳng hiểu từ lúc nào và A Rích có rình chờ hay không mà đúng lúc ấy viên tướng vạn hồ hầu vén rèm lụa bước vào lều. A Rích vái chào và bước nhanh đến án giữa lều ngắm bức tranh. Những đồng tiền đặt làm dấu vẫn chưa được cất đi in những vết tròn đen làm ảnh hưởng đến bức tranh. Gã hỏi:

– Những đồng tiền này đã cất đi được chưa?

– Được rồi.

Đỗ Vĩ nhẹ tay nhặt những đồng tiền trên bức tranh. Bức tranh nhất thi nhất họa bấy giờ mới phô hết vẻ đẹp hài hòa. Vẽ đẹp chữ đẹp thơ hay. Một bức tuyệt mỹ duy chỉ có điều tặng cho một người đàn bà đẹp thì lại là cái tát vào mặt người ấy.

Sáng hôm sau Đỗ Vĩ dậy rất sớm nhưng toán lính Mông Cổ hộ tống cô Liên lên đường còn sớm hơn rất nhiều. Anh đi ra ngoài Trì thôn, đây là một vùng rừng áp sát vào thị trấn. Mặc dù chung quanh có nhiều quân đội đóng nhưng do rừng quá rậm, gà rừng vẫn từng đàn, từng đôi đi kiếm ăn ở những thửa ruộng nhỏ bỏ hoang. Một cảm giác tiêu sơ xâm chiếm trong lòng Đỗ Vĩ. Nhưng anh thấy ánh mắt nhìn như có một màn sương bao phủ. Nhìn cái gì cũng không rõ, nhìn gần, nhìn xa đều không rõ. Anh quay trở về nhà và thấy người mệt mỏi, anh lên giường nằm giấc ngủ đến. Anh thiếp đi, anh không biết đằng sau cánh cửa nhà việc, vạn hộ hầu A Rích vẫn chăm chú theo dõi. Thấy anh lên giường nằm, A Rích lẩm bẩm:

– Sao phát sớm thế này, đáng lý ra phải tối hôm nay.

Hôm qua A Rích dùng nến đỏ, đấy là loại nến mà A Rích tin rằng dùng rất có lợi cho công việc của y.