← Quay lại trang sách

Chương 22

Đoàn hộ tống đưa cô Liên đi chợ xóm Núi từ mờ sáng, đường núi từ Trì thôn đến xóm Núi phải non nửa ngày đường. Đoàn đi từ mờ sáng, hãy còn một chút trăng mọc muộn, lănh muộn. Họ để Liên cưỡi một con ngựa thồ cách cưỡi vắt chéo hai về một bên. Con đường chỉ đi một thoáng đã bắt đầu vào đường núi, con ngựa quanh co lái trái, lái phải. Đây là giống ngựa vùng núi thấp nhỏ, lông dài dậm, vó rất chắc chắn mặc dù không phải là loại ngựa có tốc độ nhanh. Do đường núi nên cưỡi rất xóc. Liên phải căng mắt ra vì có thể ngã ngựa bất cứ lúc nào. Cho nên đến lúc sáng rõ mặt trời thì Liên còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, nhưng mặt trời lên đến non nửa thì bất chợt Liên buồn ngủ rũ mắt ra. Cô cố căng mắt ra để chống lại cơn buồn ngủ song vẫn vô hiệu. Tới gần trưa thì cô ngủ gật trên ngựa. Vào tới cái phố nhỏ mới dựng cho chợ xóm Núi thì cô ngủ thật. Và cô không biết gì nữa…

Khi cô dân dần tỉnh lại, nói đúng ra là tỉnh ngủ cô nhìn thấy một khuôn mặt khả ái có đôi mắt rất sáng và một mớ tóc vàng hoe trên đầu. Đang ngả xuống chăm chú nhìn cô.

– Đây là đâu thế này. Tạo sao tôi lại nằm ở đây

– Cô đang ở trong xóm Núi, vừa qua đoàn người ngựa của cô vào đến xóm Núi thì bất chợt cô ngã ngựa. Chúng tôi là thương đoàn người Việt cùng bà con với nhau nên tôi vực cô đưa vào đây cứu tỉnh. Trong số người của thương đoàn có lương y giỏi nên họ cứu tỉnh cô không khó lắm.

Liên nhìn chăm chú mái tóc vàng hoe của cô gái. Một lời dặn của Đỗ Vĩ thoáng trong óc. Cô thận trọng hỏi khe khẽ:

– Cô tên là gì? Cô không phải là người Việt mà.

– Đúng, em không phải là người Việt. Em là người Dao đỏ ngoài biên giới nhưng bố em và cả nhà em làm ăn buôn bán với người Việt năm này qua năm khác đã nhiều đời. Do đó em nói tiếng Việt rất sõi. Em tên là Lèng Chín.

– Ồ.

– Sao cơ, tên em xấu lắm hả?

– Không xấu đâu, chị đang muốn tìm em đấy, đoàn người của em có người nào từ đất Việt theo sang đây không?

– Có đấy, nhưng việc này em không được nói. Em sẽ đi báo ngay cho họ để họ đến đây với chị. Đoàn hộ tống của chị đóng đầy chung quanh đây. Vì khi chị ngã ngựa em vực chị vào đây thì đoàn hộ tống đuổi hết người của thương đoàn ra, chỉ để em là con gái ở lại trông nom cho chị. Mà sao chị ngủ gì mà khiếp thế, ngủ say đến mức ngã ngựa mài mặt xuống nền đường, xây xát thế kia.

– Chị chưa bao giờ có cách ngủ kỳ lạ như thế này. Đây là lần đầu tiên. Hình như cha em tên ông là Lèng Páo đúng vậy không.

– Đúng cha em tên là Lèng Páo nhưng hôm nay cha em không theo đoàn vào đây, cha em ở nhà.

– Vậy thì em nghe kĩ nhé, chọ chịu sự ủy thác của một người đi tìm cha con em. Bây giờ chị tìm được em rồi. Chị nói cho em biết, chị là thị nữ hầu cận lệnh bà An Tư. Chị cần tìm một người thân tín của thương đòan để trao một tin quan trọng.

– Chị cho phép em ra ngoài một lúc tìm người.

Lèng Chín ra ngoài. Bọn quân Nguyên tò mò nhìn cô. Cô gái tươi cười nói bằng tiếng dân tộc:

– Nhìn gì, lạ lắm hả.

Làm cho tất cả cười ồ lên, cả lính Nguyên lẫn cô gái. Một lát sai cô ta dẫn đến một người của thương đoàn, bưng theo một liễn cháo. Cô nói với tên lính Nguyên canh phòng ở bên ngoài:

– Đây là ông lang.

Tên lính Nguyên gật đầu. Lèng Chín và ông lang người Việt vào trong nhà.

– Tôi là người Việt. Cô có thể tin cậy ở tôi, cô cần gì cô nói đi.

– Tôi chịu sự ủy thác của một người tên là Đỗ Vĩ đến đây tìm cha con cô Lèng Chín. Từ cha con cô sẽ tìm ra một người Việt tin cậy. Bây giờ tôi tìm được rồi, ông đã đến đây rồi. Đây là tín vật.

Cô đưa một que chuyền có khắc chữ Bội. Mai Thúc Lại cầm que chuyền tò mò ngắm. Ông không biết chuyện que chuyền nhưng ông biết chuyện Đỗ Vĩ qua biên giới làm cái việc gì đó, ông lại được các đức ông nàh Trần phái qua đây để tìm Đỗ Vĩ và trao cho mệnh lệnh cho anh.

– Tôi đúng là người Đỗ Vĩ cho tìm, tôi cũng là người đi tìm Đỗ Vĩ. Nhưng làm sao sắc mặt cô đỏ bừng lên thế. Ấn đường có ngấn tím đen, có tia máu ăn xuyên vào đồng tử. Mà cô ngã ngất trên đường có phải là bệnh thường xuyên của cô hay gặp không?

– Không phải là em ngã ngất mà là em ngủ say, dúi mặt xuống mặt đường, đây cũng không phải là chứng bệnh em hay gặp.

– Vậy thì kỳ lắm, cô có thấy chóng mặt không?

– Không chóng mặt mà chỉ buồn ngủ.

– Vậy thì đúng rồi, cô bị hạ độc. Để tôi cho cô thuốc giải.

Mai Thúc Lại giở ngay hồ rượu đeo ngang vai ra. Anh rót một chén to và bảo cô gái uống ngay, sau đó anh lấy chăn chùm kín và anh nói:

– Thế này mới ra mồ hôi.

Quả nhiên chừng một khắc sau, cô gái toát mồ hôi dầm dề. Mùi mồ hôi thơm thoang thoảng như mùi xạ hương.

– Đúng là hạ độc bằng nọc rết và nọc bọ cạp mà dùng xạ hương để dẫn. Bây giờ uống rượu để nọc độc toát theo hơi rượu ra ngoài qua đường mồ hôi là yên tâm rồi. Bây giờ có thấy buồn ngủ không?

– Không, bây giờ thì em lại tỉnh táo như mọi khi rồi.

– Tại sao quân Nguyên cho cô đến chợ xóm Núi?

– Đỗ Vĩ sai em đến chợ xóm Núi, đúng hơn là quân phải đồng ý để Đỗ Vĩ sai em đến chợ xóm Núi, bề ngoài là tìm một đôi quạt Hới bề trong là tìm cha con chị Lèng Chín. Xong rồi thì quay về Trì thôn, ngày mai tiên sinh Đỗ Vĩ sẽ đích thân đến xóm Núi chọn quạt. Còn ý định của tiên sinh Đỗ Vĩ như thế nào em không biết.

– Theo như cô nói thì ba người ở trên lều không uống rượu độc, không ăn gì có khả năng có độc bên trong. Bây giờ cô bị thế này thì cả hai người kia cũng bị giống như thế. Theo như lời dặn của sư phụ tôi thì có thể chuyển độc bằng hoa, bằng hương, bằng đèn nến. Như vậy trong lều không đốt hương, không cắm hoa mà vẽ tranh vào buổi tối thì phải có đèn nến.

– Vậy thì đúng rồi, tối hôm đầu thắp sáng bằng nến bạch lạp, tối thứ hai tức là tối hôm qua thắp sáng bằng nến đỏ.

– Sư phụ tôi nói, qua hai lần bạch lạp và nến đỏ là chúng đã khóa độc trong người các cô rồi. Thứ độc này giải thông thường không được mà phải giải bằng rượu như cách tôi vừa giải cho cô nhưng cô đã qua hai lần nhiễm độc thì phải giải hai liền hai ngày bằng rượu.

– Tụi tôi ở Trì thôn có bao giờ thiếu rượu, rượu quý mức nào cũng có. Nhưng chúng bỏ độc vào rượu, chính Đỗ tiên sinh đã phát hiện ra và chỉ cho chị em tôi chúng tôi tránh.

– Bây giờ tôi nói thật. Đỗ Vĩ là sư đệ của tôi, tình thân hơn anh em ruột thịt, sư đệ của tôi dùng độc, giải độc đều giỏi tuyệt vời. Thứ độc bỏ vào rượu thì ăn nhằm gì với sư đệ của tôi. Bây giờ cô ở đây để giải rượu cho thóat chết. Còn chúng ta cũng phải đưa được tin cho sư đệ của tôi kịp thời. Còn chúng ta cũng phải đưa được tin cho sự đệ của tôi kịp thời. Có thể tôi nói rằng bệnh của cô đi thì chết. Cô phải ở lại đến mai. Còn cô thì nói cô phải về ngay đưa quạt cho Đỗ tiên sinh. Tôi sẽ cho cô Lèng Chín thay cô đưa quạt và đưa lệnh về cho Đỗ tiên sinh.

Mai Thúc Lại đỡ cô Liên ngồi dậy bón cháo cho cô, sau đó ông ra ngoài.

Gần xế chiều, đoàn quân Nguyên lại quay về Trì thôn, không có Liên mà thay vào Liên là một cô gái gái người Dao đỏ mới lớn, cô Lèng Chín.

Đội quân Nguyên hộ tống Lèng Chín khởi hành từ xóm Núi lúc xế chiều. Vì vậy cho nên đến tối mịt mới đến Trì thôn. Khi đến nơi, tình hình đã thay đổi.

Thứ nhất là công chúa An Tư và đoàn tùy tùng đã đến Trì thôn từ lúc sẩm tối.

Thứ hai là tất cả đang nhốn nháo vì người tỳ nữ còn lại của công chú An Tư là Thúy đã bất tỉnh nhân sự từ xế trưa. Và Đỗ Vĩ cũng ở trong tình trạng như vậy từ buổi sáng. Cả hai người đều được cứu chữa hết sức sốt sắng nhưng vẫn không tỉnh. Cả những ông lang giỏi giang nhất trong vùng đều được gọi đến nhưng đều chịu bó tay. Cả hai bệnh nhân cứ bằn bặt, mỗi lúc mỗi đi dần vào cõi u linh.

Tả hữu đưa Lèng Chín vào yết kiến công chúa An Tư. Lệnh bà hỏi:

– Cô em từ xóm Núi về à?

– Dạ thưa lệnh bà, tôi là người trong thương đòan Đại Việt. Có một cô gái là người hầu của lệnh bà là cô Liên đã ốm và ngất đi tại chỗ tôi. Do cô không đi được nên ủy thác cho tôi đem về dâng lên lệnh bà đôi quạt này. Không biết chiếc nào sẽ được chọn. Vì người lựa chọn và ra lệnh cho cô Liên đến xóm Núi kiếm quạt là tiên sinh Đỗ Vĩ nay bị bất tỉnh nhân sự.

An Tư liếc nhìn lên vách lều. Bức tranh mỹ nữ đã treo lên trang trọng. Hai cô hầu còn lại của An Tư đã treo tranh lên, bây giờ một cô đang chăm sóc cho cô Thúy nằm ở góc lều. Một cô còn lại đỡ lấy hai cái quạt dâng lên An Tư. Hai chiếc quạt này, một chiếc là quạt Hới, một chiếc là quạt trầm chạm. Cả hai chiếc quạt này đều đẹp. An Tư đã biết mục đích chọn quạt của Liên. Lệnh bà nói:

– Nếu đề thơ vào quạt thì phải là quạt Hới, còn nếu quạt trầm thì mấy câu thờ đó đã được khắc rồi nhưng nay thì mọi dự định đề thơ chẳng có nghĩa gì cả vì người đề thơ đang bằn bặt mỗi lúc mỗi đi vào cõi u linh.

Đỗ Vĩ còn bị nặng hơn Thúy, có lẽ vì anh là đàn ông. An Tư băn khoăn hai người ở đây, một người ở xóm Núi đều nhuốm bệnh như nhau nhưng xét cẩn thận mọi thứ trong lều không hề thấy dấu hiệu của bỏ độc. A Rích đã cẩn thận thu dọn từ sáng tất cả những cái gì có liên quan đến độc dược và đem vứt hết đi rồi. Tuy thế, An Tư rất cẩn thận dùng mọi thủ pháp giải độc với hai người nhưng đã hai trống canh mà mọi việc chẳng có kết quả gì. Gần tới canh ba thì hai người nối tiếp nhau ra đi. Đỗ Vĩ tắt thở trước nửa trống canh rồi đến lượt Thúy.

Vì tình như chị em với Đỗ Vĩ và vì sự kính trọng. An Tư ra lệnh cho A Rích chuẩn bị làm lễ mai táng cho hai người. Lệnh bà ra lệnh song táng ngay trước mặt ngôi lều đỉnh núi. Thật là nửa đêm vất vả, vừa buồn, vừa đau đớn. An Tư sai cuộn bức tranh mỹ nữ lại cất đi và gọi Lèng Chín và bảo:

– Tôi chưa được quen cô lâu nhưng nghe cô nói biết rằng cha mẹ coo và cả chính cô nữa đã được gặp Đỗ Vĩ tiên sinh, nên tôi rất tin cô. Sáng mai sau khi mai táng xong cho hai người cô quay trở lại ngay xóm Núi và mang một lệnh của tôi cho cô Liên: bỏ về ngay Đại Việt và báo rằng chiến tranh không chấm dứt đâu.

– Nếu cô Liên muốn quay trở về đây hầu lệnh bà thì sao? Hoặc nếu bệnh của cô không qua khỏi thì như cô Thúy ở đây thì sao?

– Nếu nó chết thì ta sẽ đem nó về đây chôn cạnhThúy và Đỗ Vĩ. Còn nếu nó sống hoặc sông được thì lệnh của ta Liên phải về Đại Việt. Cô nói với nó rằng ta rất yêu nó, nhớ nó. Nói cho no biết rằng quân cùa Đại Nguyên soái Thoát Hoan đã bỏ chạy được sang bên này biên giới và chắc rằng họ chưa rời bỏ ý định đánh chiếm đất Đại Việt đâu. Vậy thì nó phải về Đại Việt, và nhớ trả thù cho ta, trả thù cho Thúy và trả thù cho Đỗ Vĩ tiên sinh.