← Quay lại trang sách

Quyển vở trắng

Thế là bây giờ anh đổi sang quyển vở mới, nhưng trong công việc của anh không có gì thay đổi đặc biệt. Thực vậy, trước khi anh có thể bắt đầu trang mới, mấy tuần trôi qua không có biến cố gì, như thể anh đã dừng ở điểm chết. Mấy tuần vô duyên, không mắt, không mũi, không mồm, giống như cái mặt nạ bằng băng của anh. Nhưng tuy thế vẫn xảy ra một điều gì đó: anh bỏ lỡ dịp lấy bằng sáng chế cho một công trình của anh, mà điều đó sẽ khiến anh tăng số vốn của mình, ngoài ra các nhân viên trẻ tuổi của phòng thí nghiệm đột nhiên phê bình anh kịch liệt về vấn đề ngân sách năm nay. Về bằng phát minh thì nó còn lâu mới có ứng dụng thực tế và quá chuyên biệt, vì thế không đáng bận tâm nhiều về nó. Còn ngân sách... Tuy nó không trực tiếp dính líu với những kế hoạch của anh về mặt nạ... Nhưng công việc là công việc, và anh phải cân nhắc đến nơi đến chốn mọi việc. Khi các bạn đồng nghiệp của anh nói về ngân sách, anh hiểu rằng họ coi đó là một bước chiến thuật nhất định của anh. Thật vậy, để tích cực ủng hộ nhóm cán bộ trẻ, thoạt tiên anh đồng ý tổ chức một ban chuyên môn, nhưng khi đụng đến việc lập ngân sách thì kết quả là anh không giữ lời. Điều đó cố nhiên không phải là mưu mô, không phải là ghen tị hoặc ác ý, cũng không phải là mánh lới đã sắp sẵn, tuy họ thì họ gọi hành động của anh như thế đấy. Anh chẳng có gì đặc biệt dáng khoe - chẳng qua là anh quên mất chuyện ấy. Nếu người ta buộc tội anh thiếu nghiêm chỉnh đối với công việc thì anh cho rằng anh phải ngoan ngoãn tiếp nhận lời buộc tội đó. Trước kia anh hầu như không nhận ra điều đó, nhưng sau khi họ nói, anh cảm thấy rất sắc bén rằng từ một lúc nào đó, anh bắt đầu mất hứng thú làm việc. Tuy thú nhận điều đó, chẳng lấy gì làm dễ chịu cho lắm, nhưng phải chăng ở đây đã lộ rõ ảnh hưởng của những con đỉa? Nếu tạm gác sang bên một số điều lương tâm cắn rứt thì thực tâm mà nói, sự phản đối của họ có tác dụng làm cho anh tỉnh người. Bởi vì họ đã đối xử với anh một cách bình đẳng - không có những nụ cười giả tạo mà trước kia họ vẫn nặn ra khi gặp con người tàn tật...

Nhưng thế thì anh đã có khám phá gì trong cuộc “triển lãm mặt nạ Nô” mà như anh đã viết ở quãng gần cuối cuốn vở trước, tại đó hình như anh đã hoàn toàn giải quyết được vấn đề quan trọng nhất - chọn bộ mặt?

Viết về chuyện đó thật đáng buồn, vẻ mặt không phải là cái của bí mật giấu kín không cho người ngoài nhìn thấy, mà là cửa chính, bởi vậy người ta chủ tâm xây và trang trí sao cho nó làm vui mắt khách đến. Nó là lá thư, chứ hoàn toàn không phải là tờ quảng cáo người ta gửi đi mà không suy nghĩ gì về việc ai sẽ nhận nó, bởi vậy nó không thể tồn tại mà không có người nhận. Tin chắc sự tính toán của mình là đúng, anh lập tức quyết định dành cho em quyền lựa chọn và nhờ vậy mà khoan khoái trút được gánh nặng. Thế là trò chơi của anh lập tức thành trò chơi tay đôi.

Buổi tối hôm ấy, một buổi tối màu bát gốm, khi sương mù đùng đục như nước bẩn cuồn cuộn bốc lên cao, bao phủ bầu trời sớm hơn thường lệ một tiếng đồng hồ và ánh sáng của những cây đèn đường bẩn thỉu như thể khoe mẽ, hối thúc thời gian không thuộc quyền nó... Trong lúc đi về phía đám đông mỗi lúc một dày đặc hơn khi càng gần đến ga, anh lại thử nhập vai kẻ cưỡng bức để kiếm cách tự giải thoát khỏi cái cảm giác cô đơn không thể chịu đựng nổi vẫn theo đuổi anh từ lúc anh chia tay với con người đó. Nhưng nếu không gặp riêng một người nào đó, chỉ có hai người với nhau như trong tiệm ăn của cửa hàng bách hóa thì có lẽ sẽ chẳng đi đến đâu. Khi người ta tạo thành đám đông, dù là một đám đông đáng ghét chiều chủ nhật như thế này đi nữa thì mặt họ, như những con amip chia cho nhau những chân giả, tạo thành một chuỗi liền, chẳng chỗ nào có một khe hở để anh có thể chen vào. Nhưng dù sao anh cũng không tìm cáu kỉnh như trước đó, khi anh ra khỏi nhà. Thậm chí anh có thể mạnh dạn thừa nhận rằng cái biển ánh sáng chói lòa đang xé tan sương mù, bồng bềnh trôi, thở phập phồng, nổi sóng kia thực là tuyệt đẹp. Có lẽ vì bây giờ anh đã có một kế hoạch hoàn toàn dứt khoát. Bản sao bộ mặt bằng anginat kali mà phải khó khăn lắm anh mới mua được và hiện giờ anh mang trong cái cặp dưới nách nặng kinh khủng... Thực ra nó được cân bằng bởi lớp băng thấm đẫm sương mù trên mặt anh. Nhưng dù sao đi nữa, anh đã có một kế hoạch và có thể tìm cách thực hiện nó. Anh cho rằng hy vọng về kế hoạch đó sẽ làm anh dịu bớt nỗi lòng, dù là chút ít.

Đúng, tối hôm ấy là như thế... trái tim anh mở rộng cho em, dường như mọi trở ngại ngăn rào nó đã biến mất. Và đấy không chỉ là hy vọng thụ động trút cho em cái trách nhiệm lựa chọn. Đấy không phải là vì lý do thực dụng: việc chuẩn bị đã xong và anh đã đi đến giai đoạn mà mặt nạ nhất định là sẽ xuất hiện chưa biết lúc nào. Nói thế nào cho rõ hơn đây... Ngây thơ như đứa trẻ, nhẹ nhàng như đi chân không trên cỏ, anh rút ngắn, rút ngắn dần khoảng cách giữa chúng ta.

Có thể đấy là sự bình tĩnh và vững tâm do anh đã dụ được em làm kẻ đồng lõa, dù là gián tiếp, trong việc làm mặt nạ, một công việc đòi hỏi sự đơn độc mà bề ngoài thậm chí có vẻ bất công. Đối với anh, nói gì thì nói, em là người ngoài số một. Không, anh dùng tiếng đó không phải theo nghĩa tiêu cực. Em là người đầu tiên mà anh phải khôi phục con đường mòn liên hệ giữa chúng ta, em là người mà anh phải viết tên lên lá thư đầu tiên của anh, theo nghĩa như thế anh gọi em là người ngoài số một. (Trong bất cứ trường họp nào, thực quả anh không thể nào thiếu em được. Đối với anh, mất em có nghĩa là mất cả thế giới).

Nhưng lúc anh giáp mặt em thì mọi hy vọng của anh biến thành đống giẻ không ra hình thù gì hết, giống như đám rong biển bị vớt lên khỏi nước. Anh không muốn bị hiểu sai. Anh hoàn toàn không muốn bẻ họe về cách đối đãi của em đối với anh. Anh chẳng nghĩ gì đến chuyện đó - em thông cảm với anh bằng tấm lòng độ lượng vượt quá sự độ lượng trừ trường hợp em không cho anh thọc tay vào dưới váy em. Về nhiều mặt, hiển nhiên là phải quy lỗi cả cho anh, hay nói đúng hơn là chính cho anh. Như một nhà thơ đã nói: phải chăng bao giờ bạn cũng có quyền đòi hỏi tình yêu của người bạn yêu?

Hôm ấy, em tiếp đón anh với thái độ niềm nở thoải mái như thường lệ, đúng hơn là với thái độ thương cảm thoải mái. Và sự im lặng của chúng ta cũng như bình thường...

Đã bao nhiêu thời gian trôi qua kể từ khi sự im lặng bao trùm giữa chúng ta, như thể chiếc nhạc cụ bị hỏng?

Những cuộc chuyện trò hàng ngay, việc trao đổi những tin tức cũ vẫn không ngừng, nhưng bị giảm tới mức thấp nhất và có tính chất thuần túy tượng trưng. Nhưng anh không có ý định đổ lỗi cho em về tình trạng đó. Anh hiểu rất rõ đấy là một phần lòng thương của em. Cái nhạc cụ hỏng dễ sai âm điệu. Thà im lặng còn hơn. Đối với anh đấy là sự im lặng cay đắng, đối với em chắc chắn còn cay dắng hơn nhiều. Chính hỏi thế anh phải làm cách nào lợi dụng trường hợp này để chúng ta nói chuyện lần nữa, anh rất hy vọng như vậy...

Nhưng dẫu sao, sẽ thật là tốt đẹp nếu như ít ra em cũng hỏi xem anh đi đâu về. Thời gian gần đây, lần này là một lần khác thường mà ngày chủ nhật, sáng tính mơ anh đã rời khỏi nhà và đi suốt ngày, vậy mà em không hề thốt lên một lời bày tỏ sự ngạc nhiên.

Em nhanh chóng điều hòa lửa trong bếp lò, rồi lập tức trở lại bếp, chưa kịp mang chiếc khăn mặt ấm đến thì đã lại chạy đi xem nước trong bồn tắm đã nóng chưa.

Em dường như không bỏ mặc anh, nhưng cũng không tìm cách gần anh hơn. Cố nhiên bất cứ người nội trợ nào trong nhà mình cũng xử sự như em, nhưng anh muốn nói điều này - sự điềm tĩnh được trù tính quá kỹ của em trong những phút đó. Quả thật là em khá khéo léo. Muốn làm cho sự im lặng của chúng ta có vẻ tự nhiên, em đo thời gian một cách tài tình, với mức chính xác của cái cân điện.

Để phá tan sự im lặng, anh quyết định tỏ ra cáu kỉnh, nhưng không ăn thua gì. Những cố gắng của em thực là anh hùng, anh lập tức chưng hửng và cảm thấy một cách hết sức nhạy bén là anh tự thị mới ngu xuẩn làm sao. Trường im lặng băng giá giữa chúng ta rõ ràng dày hơn anh tưởng. Hoàn toàn không phải là lớp băng mỏng mà chỉ một cái cớ thoạt gặp sẽ làm cho tan ra. Tất cả những câu hỏi anh đã sắp sẵn lúc đi đường - hay những cái cớ để nói chuyện - chẳng qua là đốm lửa diêm rơi xuống núi băng.

Cố nhiên anh không lạc quan đến mức nghĩ rằng anh sẽ có thể đặt trước mặt em những mẫu của hai kiểu mặt và làm như mình là một tay buôn thực thụ, hỏi: thế nào, em thích kiểu nào hơn? Điều kiện đầu tiên là cái mặt nạ của anh không được lồ lộ ra là mặt nạ, vì thế anh không nên phơi bày ý nghĩa thực của câu hỏi của mình. Nếu không anh sẽ chỉ chuốc lấy những lời giễu cợt và châm chọc cay độc. Bởi vì anh không định dùng thuật thôi miên, nên bây giờ đương nhiên là các câu hỏi của anh phải xa xôi hơn. Nhưng tiếp sau đó, kế hoạch của anh không trôi chảy, và cái thành công mà anh phải khó khăn lắm mới chộp được vì đã không tiếc chân, như một thám tử tốt - thành công ấy suýt biến thành sự tai hại đối với anh. Nhưng dù sao anh vẫn cứ hy vọng rằng vào lúc cần thiết anh sẽ có thể sử dụng nó một cách thích đáng. Chẳng hạn, trong lòng không một chút băn khoăn, anh em xét những bộ mặt của các bạn anh mà tự dưng lại liên hệ với sở thích của em.

Nhưng em không phải là con cá mà hài lòng với sự im lặng. Im lặng là một thử thách nặng nề đối với em. Không phải ai khác mà chính anh rất đau khổ khi người ta dè bỉu khuôn mặt nay hoặc khuôn mặt khác, em biết điều đó nhưng vẫn cứ nâng đỡ anh.

Tự xỉ vả mình về thói đạo đức giả, anh lẳng lặng bỏ qua sự im lặng, trở về phòng làm việc của mình, cho những dụng cụ làm khuôn và thắng lợi phẩm hôm nay của mình vào tủ khóa lại, rồi như thường lệ, bắt đầu tháo băng để bôi crem lên mặt và tiến hành việc xoa bóp hàng ngày. Nhưng tay bỗng dừng lại giữa chừng, anh mải miết trong cuộc đối thoại với người nói chuyện tưởng tượng.

Không, đây không chỉ là cái mồi nhử... cần mấy chục calo lửa để nung chảy sự im lặng đó? Điều đó chỉ có bộ mặt đã mất của anh mới biết được. Có lẽ chiếc mặt nạ là câu trả lời chăng?... Nhưng không có lời khuyên của em thì anh không thể làm cái mặt nạ được... Vậy có lẽ vứt ráo cả đi là hơn chăng?... Nhưng nếu không phá vỡ cái vòng luẩn quẩn ấy ở đâu đó thì sẽ lặp lại vẫn một tình trạng như thế, như trong trò sấp ngửa dớ dẩn. Song dù sao cũng không được để mất hy vọng. Nếu không nung chảy được toàn bộ sự im lặng thì phải tìm cách đốt lên ở chỗ nào đó một đống lửa dù là nhỏ nhoi - chỉ để hơ tay thôi cũng được...

Như người thợ lặn mặc áo quần của mình, anh lại quấn băng vào một cách cẩn thận. Phơi ra cái tổ đỉa thì anh sẽ không có được sự vững dạ nó cho phép anh vượt thắng sức đè nén của sự im lặng.

Để che giấu sự căng thẳng nó làm anh tê liệt, bằng dáng đi ung dung của con mèo, làm như không có chuyện gì xảy ra, anh trở lại phòng khách. Và như mải miết đọc tờ báo buổi chiều, anh liếc mắt nhìn theo em đi xuống bếp và ra khỏi bếp. Em không mỉm cười, nhưng khi em làm việc này việc nọ, không ngừng vận động, em có vẻ mặt như thể em sắp mỉm cười. Đây là vẻ mặt thực sự kỳ diệu nó xuất hiện ở em một cách vô tình, thậm chí khiến anh nảy ra ý nghĩ: phải chăng chính vẻ mặt đó của em, vẻ mặt bất ngờ quyến rũ anh, là nguyên nhân chính khiến anh cầu hôn với em?

(Anh đã viết về điều đó rồi phải không? Thôi được, nếu như lặp lại thì cũng không có gì ghê gớm. Đối với anh, người đi tìm ý nghĩa trong vẻ mặt, điều đó như ánh sáng hải đăng. Ngay cả lúc này khi anh đang viết những dòng này và nghĩ về em thì cái trước tiên hiện ra trước mắt lại vẫn là vẻ mặt của em. Đúng vào giây lát mà trên khuôn mặt bề ngoài thản nhiên của em xuất hiện nụ cười thì trong vẻ mặt em đột nhiên lóe lên một cái gì và mọi vật được chiếu rọi bởi ánh sáng ấy đều cảm thấy vững tâm, cảm thấy sự tồn tại của mình được khẳng định...). Trong lúc hào hiệp ban vẻ mặt đó cho các cửa sổ, các bức tường, các ngọn đèn - tất cả mọi cái xung quanh em, em lại không thể tự ép mình quay về phía anh. Mặc dù anh coi điều đó là hoàn toàn tự nhiên và nói chung anh tuyệt không hy vọng gì, nhưng anh bỗng cảm thấy anh sẽ hoàn toàn mãn nguyện nếu anh có thể bắt em quay về phía anh để anh nhìn thấy vẻ mặt em.

- Ta nói chuyện với nhau một chút.

Nhưng khi em quay lại thì vẻ mặt đó đã biến mất.

- Hôm nay anh vừa đi xem phim.

Em chờ anh nói tiếp, nhìn vào những khe hở giữa các dải băng với vẻ chăm chú đến nỗi không thể coi đó là sự chăm chú.

- Không, không phải vì anh muốn xem phim. Chẳng qua là anh cần bóng tối. Khi ở trên phố với bộ mặt như thế này, ta bắt đầu cảm thấy lòng nặng trĩu vì ý thức rằng ta đang làm việc gì xấu. Nó thật là một vật lạ lùng, cái bộ mặt... Trước kia anh hoàn toàn không nghĩ đến nó, thế mà khi không còn nó nữa thì anh cảm thấy như anh bị tước mất nửa thế giới...

- Phim gì kia?

- Anh không nhớ. Chắc là vì đầu óc anh đã hoàn toàn rối loạn. Thực ra, đột nhiên anh nảy ra ý tưởng dùng bạo lực. Thế là như để trú mưa, anh đâm đầu vào rạp chiếu phim gần nhất...

- Rạp đó ở đâu?

- Ở đâu thì cũng thế thôi chứ. Anh cần là cần bóng tối kia.

Em bậm môi với vẻ chê trách. Nhưng mắt em nheo nheo buồn rầu, chứng tỏ rằng em buộc tội không chỉ riêng mình anh. Anh cảm thấy ân hận vô cùng. Anh không được làm như vậy. Đáng lẽ phải nói chuyện khác kia.

-... Em ạ, chính lúc đó anh đã suy nghĩ. Có lẽ thỉnh thoảng nên đi xem phim, ở đó tất cả người xem dường như đều thuê những bộ mặt của diễn viên và đeo lên mặt mình. Chẳng ai cần bộ mặt của chính mình, rạp chiếu phim là nơi người ta đến để sau khi trả tiền thì được đổi mặt một thời gian.

- Vâng, có lẽ thỉnh thoảng nên đi xem phim.

- Anh cho rằng nên đi, hoàn toàn đúng như thế. Dù sao ở đây cũng tối. Nhưng phim có ra cái quái gì nếu như các bộ mặt diễn viên không được ưa thích? Đúng không? Thì ta đi để thuê những bộ mặt đó và đeo lên mặt mình kia mà. Cho nên nếu những bộ mặt đó không khớp hoàn toàn thì đã mất đến một nửa hứng thú.

- Thế không có phim nào không có diễn viên hay sao? Phim tài liệu chẳng hạn...

- Không có ý nghĩa gì. Dù không có diễn viên đi nữa thì vẫn có những bộ mặt. Ngay cả cá, ngay cả sâu bọ cũng có diện mạo nào đó. Ngay cả cái ghế, cái bàn cũng có bộ mặt của nó mà ta có thể thích hoặc không thích.

- Nhưng liệu có người nào xem phim mà đeo mặt cá hay không?

Thích thú vì câu nói đùa, em run rẩy như con bướm. Cố nhiên em có lý. Hiển nhiên bất cứ sự im lặng nào cũng còn hơn là phơi ra ánh sáng bộ mặt cá ấy.

- Không, em lầm. Đây hoàn toàn không phải là nói về mặt anh. Hiện giờ anh không có mặt, như vậy không thể nói là thích hay không thích nó. Em thì lại là việc khác. Đối với em thì không thể có vấn đề em thích xem bộ phim với những diễn viên nào.

- Anh muốn nói gì thì nói, dù sao em cũng không thích những phim không có diễn viên. Cả bi kịch cũng như hài kịch đều không đem lại cho em sự thích thú nào hết.

- Ờ thế thì tại sao bao giờ em cũng cố nhượng bộ anh!

Bất giác giọng nói của anh trở nên gay gắt, tự dưng anh thấy chấn ngấy mọi thứ, và dưới lớp băng anh nhăn mặt ghê tởm, mặc dù chẳng ai có thể thấy được vẻ mặt đó. Có lẽ vì thời tiết lại bắt đầu nóng, những con đỉa bắt đầu ngọ nguậy, tất cả da mặt xung quanh chúng ngứa ran lên.

Cái đó không phải là sự im lặng có thể khắc phục được bằng cách thức như thế. Mặc dù chúng ta đến gần cuộc nói chuyện từ phía nào, nó luôn luôn đứng lặng vẫn ở một điểm. Anh không đủ gan nói tiếp và anh cũng im lặng. Sự im lặng của chúng ta không phải là tình trạng không lời, vì mọi cái đã nói hết rồi. Đây là sự im lặng cay đắng khi toàn bộ cuộc chuyện trò của chúng ta đã rã ra thành những mẩu nhỏ.

Rồi trong mấy tuần, anh tiếp tục vận động trong sự im lặng đó, vận động một cách máy móc, như thể cử động bằng những khớp xương đi thuê. Nhưng có lần, anh bỗng nhận thấy cây thông lá rụng ngoài cửa sổ đung đưa những chồi non xanh tươi mảnh mai trước gió, báo tin mùa hè sắp đến. Thế là đột nhiên anh nảy ra một quyết định. Điều đó xảy ra vào một buổi chiều mà, em nhớ chứ, anh bỗng hét lên trong bữa ăn, lấy cớ gì thì anh quên mất rồi.

- Em nói đi, nào, nói cho anh biết đi, cái gì buộc em phải sống với anh! - Anh biết, dù anh quát to đến thế nào đi nữa thì nó cũng chỉ là một phần sự im lặng của anh, và không đủ can đảm nhìn thẳng vào mặt em, anh nhìn chằm chằm vào cái khuyết màu cỏ úa cạnh cái cúc nho nhỏ màu lá mạ trên ngục, cố không lùi bước trước tiếng nói của chính mình, anh tiếp tục gào lên - Trả lời ngay đi, trả lời đi! Tại sao em không ly dị với anh? Bây giờ cần có sự sáng tỏ hoàn toàn, đó là vì lợi ích chung của chúng ta. Chỉ do quán tánh chăng? Nói đi, đừng ngại. Không thể cưỡng ép mình làm cái gì mình không tin chắc.

Khi đã thốt lên một thôi rồi vào phòng làm việc khóa cửa lại, anh ở trong một tình trạng thảm hại như chiếc diều giấy gặp mưa. Có thể có mối liên lạc gì giữa anh - người gây nên màn kịch điên rồ như thế vì một duyên cớ vớ vẩn là bộ mặt, và anh - người lãnh đạo một phòng thí nghiệm, hưởng lương chín mươi bảy ngàn yên? Và càng nghĩ nhiều thì anh càng biến thành chiếc diều thủng lung tung chỉ còn trơ lại bộ khung - giấy bong hết rồi!...

Khi chỉ còn trơ lại bộ khung và đã trấn tĩnh lại, anh hiểu rằng những lời xúc phạm thô lỗ mà anh ném vào mặt em thì phải dùng cho chính anh mới đúng. Đúng thế, chúng ta lấy nhau đã tám năm. Tám năm là một thời kỳ khá dài. Dù sao cũng đủ để ta trả lời thay cho nhau về việc ai thích ăn món gì, ai không thích món gì. Ờ, nếu như chúng ta có thể đại diện cho nhau về mặt khẩu vị thì lẽ nào không thể làm như thế khi nói về bộ mặt? Vậy thì chẳng cần gì phải hoài công đi tìm đề tài cho cuộc chuyện trò trong sự im lặng của chúng ta.

Anh bắt đầu đào bới ký ức. Ở chỗ nào đó nhất định phải có sự ủy nhiệm của em cử anh làm đại diện cho em. Không thể không có. Còn nếu như ngay từ trước khi xảy ra điều rủi ro, chúng ta đã xa nhau như thế thì anh cố sức vãn hồi cái gì khi bày ra tất cả công việc phiền toái này về chiếc mặt nạ? Như vậy thì quả thực là anh chẳng có gì để mà vãn hồi. Bởi vì tuyệt nhiên không có cái gì chúng ta phải che giấu nhau suốt trong tám năm đó, tám năm không hề có biến cố gì, thì anh chẳng cần gì phải hồ nghi điều đó lúc này, khi anh được che chắn bởi sự thiếu vẻ mặt một bức tường còn dày hơn cả những lớp băng của anh. Vì vậy anh đã mất quyền đòi hỏi bất cứ điều gì. Một khi anh đã không mất cái gì thì anh cũng không thể đòi bồi thường. Có lẽ anh nên chịu nhận là diện mạo ban đầu của anh cũng là chiếc mặt nạ và không chống cưỡng lại, bằng lòng với tình trạng hiện nay của mình chăng?

... Vấn đề rất là sâu sắc. Bản thân việc anh coi nó là sâu sắc cũng đã là một điều cực kỳ sâu sắc. Vì vậy, dẫu là vì tự ái đi nữa, anh cũng phải làm tròn sứ mạng của người đại diện. Công việc đó đặc biệt hấp dẫn anh, nhưng anh động viên mọi hồi niệm, mọi ấn tượng, mọi cuộc nói chuyện, tạo nên mô hình của em và cố nhớ xem những đường nét nào của mặt được em ưa thích và đặt mình vào địa vị em, thử hình dung ra vẻ mặt của những người đàn ông khác nhau. Anh cảm thấy ghê tởm như thể có con sâu chui vào cổ áo. Nhưng trước khi định rõ những người đàn ông đó là người thế nào thì anh phải có cách gì nắm bắt cho đích xác hơn em là người thế nào chứ? Tất nhiên thấu kính phải được cố định vững chắc. Nếu nó chòng chành như con sứa thì có ra sức nhìn thế nào đi nữa cũng không thể nhìn thấy gì. Ngay cả lúc này, anh gắng hết sức nhìn em mà em lúc thì biến thành một điểm, lúc thì biến thành một đường, lúc thì biến thành một bề mặt, và cuối cùng trở thành cái trống rỗng không hình thù và lọt qua mạng lưới năm giác quan của anh.

Anh bàng hoàng sửng sốt. Vậy thì anh đã nhìn thấy gì, hướng đến cái gì, sống với tình cảm như thế nào suốt trong quãng thời gian hoàn toàn không phải là ngắn ngủi ấy? Chẳng lẽ anh biết về em ít ỏi đến thế ư? Anh lặng đi vì bối rối trước thế giới nội tâm của em - một miền xa lạ chìm ngập trong sương mù bao là màu trắng sữa. Anh cảm thấy hổ thẹn đến nỗi sẵn sàng quấn lên mặt mình một lớp băng cũng bằng ngần ấy nữa.

Nhưng có lẽ ngược hẳn lại, may mắn thay là đã có lần anh bị dồn vào chân tường như thế này. Anh vứt con sâu khỏi cổ áo, trấn tĩnh lại và trở lại phòng khách - em ngồi úp mặt vào hai bàn tay, trước máy thu hình đã tắt tiếng nói. Chắc em khóc thầm. Chỉ nhìn thấy cảnh đó là anh hiểu ngay rằng có thể có cách giải thích khác về việc anh không đủ khả năng làm người dại diện cho em.

Có lẽ không thể khẳng định rằng với tư cách người đại diện, anh là người lý tưởng. Dù sao có thể nói chắc rằng sự tiếp xúc của anh với em mang tính chất một chiều, thậm chí anh không tưởng tượng nổi là em có thể bộc lộ hứng thú đặc biệt đối với bộ mặt đàn ông. Điều đó dẫn tới cái gì? Bây giờ anh buộc lòng phải trở thành hoàn toàn như một kẻ mối lái! Chẳng phải hình thức bình thường của hôn nhân là khi mà ngay từ đầu người ta đã vứt bỏ vấn đề vợ mình có sở thích như thế nào đối với những khuôn mặt đàn ông hay sao? (khẩu vị ăn uống lại là chuyện khác). Khi người đàn ông và người đàn bà kết hôn, họ phải vứt bỏ mối ngờ vực và tò mò tương tự. Nếu không nhất trí về điều đó thì đừng lao vào một việc phiền toái như thế còn hơn!

Khe khẽ, để em khỏi nhận thấy, anh tiến đến từ phía sau - có một mùi như mùi đường nhựa sau trận mưa. Có lẽ đấy là mùi tóc em. Em quay lại, khịt mũi mấy lần như bị cảm lạnh, và để xua tan ảo tưởng của anh, em nhìn anh bằng cái nhìn sâu xa, sáng rõ, nó như cái nhìn trên tranh vẽ. Vẻ mặt hoàn toàn trong sáng, xa vắng, - những tia nắng xuyên qua cánh rừng trụi lá trong gió thu lạnh lẽo cũng giống như thế...

Chính lúc đó đã xảy ra chuyện ấy. Một cảm giác bừng bừng choán lấy anh. Có lẽ là ghen chăng? Có thể. Bên trong anh có một cục giống như quả ngưu bàng có gai, nó bắt đầu to lên chừng bằng con nhím. Liền sau đó, anh bỗng phát hiện ra rằng tiêu chuẩn của vẻ mặt, đứa con lưu lạc tưởng như đã mất hẳn, hiện đang đứng cạnh anh. Thật là bất ngờ. Thậm chí anh không nhận rõ được sự bất ngờ đó. Nhưng anh không ngờ rằng anh ngạc nhiên đến như thế. Làm sao trước kia anh không hiểu rằng ngoài câu trả lời đó ra, không thể có câu trả lời nào khác? Đó chính là điều mà anh cảm thấy là không hợp lý.

Anh gác sang bên cái “làm sao” ấy và sẽ bắt đầu bằng cái kết luận mà anh sẽ đi tới. Mặt nạ của anh theo sự phân loại của Blăng, phải thuộc kiểu thứ tư. “Kiểu không hai hòa, hướng ngoại”. Mặt nhọn về phía trước ở gần mũi... Theo quan điểm hình thái tâm lý, đó là bộ mặt cương nghị, hoạt động...

Tất cả những cái đó là quá ít ỏi, anh cảm thấy mình gần như bị lừa. Nhưng nghĩ cho kỹ thì có thể tìm ra cách giải thích. Thì khi biến thái, con nhộng vừa vẫn ở nguyên một trạng thái vừa chuẩn bị chuyển sang trạng thái mới. Sau khi anh vấp phải sự thay đổi đột ngột ý nghĩa của bộ mặt thì nó từ chỗ là cái mà anh lựa chọn, lại biến thành cái người ta lựa chọn cho anh, anh chỉ còn cách chăm chú theo dõi em, đi lần mò như một kẻ ở trong bóng tối mà dù mở mắt hay nhắm mắt, nhìn sang bên phải hay bên trái vẫn chỉ thấy tối đen. Tuy sự cần thiết phải theo dõi em - sự cần thiết giờ đây đã xuất hiện - làm tổn thương đến lòng tự ái của anh, khiến anh đâm nóng nảy, tức giận, cảm thấy bị hạ nhục, tuy anh đã mệt mỏi vì những ý nghĩ triền miên của mình, anh vẫn không thể rời mắt khỏi em lấy một phút.

Anh khao khát nhích lại gần em đồng thời lại khao khát rời xa em. Anh muốn biết rõ em, đồng thời lại cưỡng lại điều đó. Anh khao khát nhìn thấy em nhưng nhìn em anh cảm thấy nhục. Trong trạng thái như thế, khi sự nứt rạn giữa chúng ta ngày càng sâu, anh không còn cách nào khác ngoài cách dùng hai tay áp chặt chiếc cốc vỡ, khó nhọc bảo toàn hình dáng của nó.

Tất cả những điều đó anh hiểu rất rõ. Anh hiểu rằng đó là sự dối trá lộn xộn do anh bầy đặt ra và rất thuận tiện cho anh, - tuồng như em là một nạn nhân bị xích vào anh, kẻ đã không còn quyền gì đối với em. Và em cam phận, tự ý gánh chịu cái số kiếp đó. Và cái ánh hào quang thoáng hiện trên mặt em khi bộ mặt nghiêm trang trở nên cười cợt, ánh hào quang ấy có dính đáng gì đến chính bản thân em không? Vậy là nếu muốn em có thể ruồng bỏ anh bất cứ lúc nào. Nhưng em có hình dung được điều đó đối với anh khủng khiếp thế nào không? Em có một nghìn vẻ mặt, còn anh không có vẻ mặt nào cả. Chỉ cần anh nhớ ra rằng dưới bộ kimônô của em là tấm thân, sống động và làn da mềm mại có một không hai, với một nhiệt độ có một không hai là anh bắt đầu suy nghĩ nghiêm chỉnh về việc những dằn vặt của anh sẽ không bao giờ hết chừng nào anh chưa cắm vào cơ thể em một chiếc kim khổng lồ - cho dù như thế sẽ làm em thiệt mạng, - và biến em thành hiện vật của bộ sưu tập.

Tất cả là vì trong nội tâm anh có hai khuynh hướng giằng xé nhau: ý muốn khôi phục con đường mòn giữa chúng ta và lòng hận thù khiến anh muốn tiêu diệt em. Rốt cuộc, anh không còn phân biệt nổi đâu là tình cảm này, đâu là tình cảm kia, và cái tư thế mà mũi tên trên cánh cung của anh luôn luôn nhắm vào em đã trở thành tư thế quen thuộc hàng ngày, rồi sau đó trong tim anh không ngờ đã khắc sâu bộ mặt của người đi săn.

Mặt người đi săn không thể thuộc loại “hài hòa hướng nội”. Với bộ mặt như thế, hoặc anh sẽ biến thành bạn của những con chim non, hoặc trái lại, thành mồi của những con thú dữ. Trong hoàn cảnh như thế, quyết định của anh chẳng những không có gì là bất ngờ, mà có thể nói là không tránh khỏi. Có lẽ anh bị quáng lòa bởi tính chất nước đôi của mặt nạ - phủ định mặt đồng thời tạo nên mặt mới, - nên anh đã quên mất cái cơ bản: ngay cả sự quáng lòa đó cũng là một hình thức hành động, có lẽ vì thế, đi đường vòng là điều không tránh khỏi đối với anh.

Có những “số ảo”. Những số kỳ lạ mà bình phương lên thì thành số âm. Trong mặt nạ cũng có cái gì giống những số đó: đeo mặt nạ lên mặt nạ thì cũng như chẳng đeo gì cả.

Chỉ cần chọn được kiểu, mọi việc còn lại đơn giản thôi. Chỉ riêng những bức ảnh anh thu thập để làm tài liệu nghiên cứu giúp cho việc phác hình bộ mặt, anh đã xem qua sáu mươi tám chiếc, và hơn một nửa trong số đó thuộc “kiểu mặt nhọn về phía trước ở gần mũi”. Mọi việc đã chuẩn bị xong, thậm chí chuẩn bị quá kỹ nữa kìa.

Anh quyết định lập tức bắt tay vào việc. Trong tay anh không có sẵn kiểu mẫu nào, nhưng anh thử vẽ ra trong trí tưởng tượng một số khuôn mặt, như vẽ một bức tranh bằng thứ màu vô hình, chồng hết lớp này lên lớp khác, và cứ như thế, mỗi lần lại mò mẫm xét xem chúng sẽ gây ấn tượng như thế nào đối với em. Trước hết, trên bản sao bằng antimon, anh dùng nhựa gỗ sủi bọt lấp đầy tất cả những chỗ bị lủng xuống bởi những con đỉa. Ở phía trên, thay cho đất sét, anh bắt đầu đặt những dải plaxtic, hết lớp này đến lớp khác theo một hướng nhất định, theo các đường Langhê. Nhờ tập dượt trong nửa năm, các ngón tay anh như ngón tay của người thợ đồng hồ sờ mó mà định được độ cong của sợi dây tóc, biết rõ các chi tiết cực nhỏ của bộ mặt. Màu của mặt thì anh lựa theo màu của cổ tay. Để cho thái dương và cằm có màu sáng hơn, anh dùng vật liệu pha thêm một lượng nhỏ axít tianic để má có màu hơi hồng hồng, anh pha catmi đỏ vào vật liệu. Càng gần tới bề mặt thì anh dùng các chất màu càng thận trọng hơn, đặc biệt cần khéo hết sức để tạo một lớp màng mỏng màu xám nhạt cạnh mũi nhằm diễn đạt về tuổi một cách tự nhiên. Cuối cùng bằng nhựa cây nóng chảy, anh đổ một lớp trong suốt một lớp màng mỏng chứa chất huỳnh quang và có chiết suất lớn, đại loại như lớp kêratin trên đó đã tái hiện bề mặt làn da mà anh đã mua. Tiếp đó, trong một thời gian hết sức ngắn, anh cho lớp vỏ đã thu được chịu tác dụng của hơi nước dưới áp suất lớn, nó co lại và đóng cứng như đổ khuôn. Các nếp nhăn tạm thời chưa có, vì thế da trơn nhẵn, không có vẻ biểu cảm. Nhưng dù sao nó vẫn gây được cảm tưởng một cái gì đang sống, vừa mới lột khỏi một người còn sống.

(Anh đạt được kết quả đó trong thời gian khoảng hai mươi hai - hai mươi ba ngày).

Vấn đề tiếp theo sau; giải quyết như thế nào cái vệt ghép mặt nạ với da? Phần trán sẽ có cách che giấu khéo léo bằng tóc. (May thay tóc anh thừa đủ che và hơi xoăn). Xung quanh mắt, nếu làm nhiều nhiều nếp nhăn mảnh cho màu đậm một chút và đeo kính thì sẽ không ai nhận thấy gì. Môi thì có thể cho vào trong và ria thì gắn vào lợi, hai lỗ mũi sẽ được nối với những ống nhỏ cứng hơn và ống thì đưa vào trong. Khu vực cằm gây nên một số khó khăn. Chỉ có một lối thoát. Giấu nó đi nhờ bộ râu.

Dứt tóc trên đầu và chọn những sợi mảnh nhất, anh cắm từng sợi một vào mặt nạ, cố giữ đúng hướng và góc nghiêng hai ba mươi sợi một centimét vuông. Công việc đó rồi cũng xong xuôi - chỉ riêng việc đó cũng đã mất hai mươi ngày - nhưng anh vẫn bị đày vò bởi cảm giác phản kháng tâm lý. Trong thế kỷ trước, râu là hiện tượng bình thường, nhưng hiện nay, nói gì thì nói, cái đó hơi kiểu cách. Chẳng hạn, chỉ cần anh nghe thấy tiếng “râu” là thật hết sức đáng buồn, tiếng đó khiến anh liên tưởng - em nhớ chứ, - đến viên cảnh sát nọ ở ga.

Tất cả các bộ râu hiện có, tất nhiên không phải chỉ gồm có loại râu kẻ cướp và râu của người anh hùng. Có loại râu của các nhà tiên tri, có những bộ râu như râu Lê-nin, có râu của những người quý tộc châu Âu. Có những bộ râu như râu Ca-xtorô, có loại râu cực kỳ hiện đại, anh không biết gọi là loại râu gì, mà bọn thanh niên muốn làm ra vẻ nghệ sĩ thích để. Tuy khó tránh cái vẻ hơi rởm khi để râu và đeo kính đen nhưng bởi vì không còn cách nào khác, nên ít nhất cũng phải cố làm tất cả mọi việc một cách thật khéo léo, sao cho bộ râu không gây nên ấn tượng khó chịu.

Em đã nhìn thấy hết và chính em biết hết, nên hẳn là không cần nói lại lần nữa về việc công trình của anh thành công như thế nào. Bản thân anh không muốn đánh giá nó mà anh cũng chẳng biết anh có thể làm nó khác đi được không - cái đã đạt được khiến anh hài lòng, của đáng tội, anh đã không tránh được sự cắn rứt lương tâm về một số điều, nhưng...

Anh buột ra mấy tiếng “lương tâm cắn rứt về một số điều...” là hoàn toàn do tình cờ, nhưng nếu nghĩ kỹ thì mấy tiếng đó có ý nghĩa sâu sắc. Ý nghĩ của anh chưa đúc lại được thành lời, chưa xác định. Điều đó gây nên cảm giác hơi khó chịu, như cái mụn ở đầu lưỡi làm anh đau rát, chỉ cần mở miệng ra là cảm giác đau cảnh cáo anh: đừng có ba hoa dông dài...

Đêm hôm ấy, khi rốt cuộc anh đã làm xong chòm râu, trên ngón tay cái bàn tay phải đã có một vết bầm máu do cái kẹp để lại. Cảm giác đau khiến toàn thân anh đẫm mồ hôi, nó như than cháy rực bên trong mắt. Anh lau mãi mà nước mắt vẫn cứ tiếp tục ứa ra, nước mắt dính nhớp như mật ong pha loãng, và mắt nhòa đi như kính cửa sổ bám bẩn. Lúc anh đứng lên để vào nhà tắm tắm rửa thì đã rạng sáng - đêm qua đi lúc nào anh không hề biết. Lúc anh vô tình quay mặt đi tránh những vệt nắng sớm rục rỡ bị cắt ngang bởi khung cửa sổ, một cảm giác mà anh đã có lần trải qua đâm xuyên vào não anh.

Anh nhớ tới một giấc chiêm bao. Đấy là giấc chiêm bao giống như bộ phim câm cũ, mở đầu bằng một cảnh rất hiền hòa: có lần vào cuối mùa hè hay lúc chớm thu, hồi đó anh mười tuổi, hay có khi còn ít hơn, anh lơ đãng nhìn bố đi làm về đang cởi giầy ở phòng ngoài. Nhưng bỗng nhiên thế giới sụp đổ. Thêm một ông bố nữa trở về. Ông bố này, thật kỳ lạ, vẫn chính ông bố trước, chỉ khác cái mũ đội. Ông bố cũ mang mũ rơm, còn ông bố mới thì đội mũ phớt mềm. Thấy ông bố đội mũ rơm, ông bố đội mũ mềm nhìn ông ta một cách khinh miệt và bằng cử chỉ cố tỏ ra thật thô lỗ, tỏ cho ông ta biết là ông ta nhầm địa chỉ. Thế là ông đội mũ rơm hết sức lúng túng, tay cầm chiếc giầy, mỉm cười buồn rầu, gần như chạy, đâm bổ ra khỏi nhà. Tim anh vỡ ra trong lồng ngực lúc anh nhìn theo ông ấy, mà hồi đó anh còn bé lắm... Đến đây phim đứt đoạn. Sau đó chỉ còn lại một dư vị đắng cay.

Có thể gọi nó là tri giác trẻ thơ về sự đổi mùa trong năm... Nhưng nếu sự tình chỉ là thế thôi thì lẽ nào tất cả những cảm giác mà anh trải qua hồi ấy vẫn lưu lại một cách sáng rõ và rành rọt như thế qua hàng chục năm? Không chắc. Hai chiếc mũ mà anh nhìn thấy là một cái gì khác. Có lẽ đấy là tượng trưng cho sự giả dối không thể chấp nhận được trong quan hệ giữa người ta với nhau... Chỉ có thể nói chắc một điều: sự đổi mũ dẫn tới chỗ sự tin cậy của anh trước kia đối với bố hoàn toàn bị phá hủy. Hẳn là từ đó anh luôn luôn cảm thấy xấu hổ thay cho bố.

Nhưng bây giờ, vị trí của chúng ta đã đổi chỗ cho nhau. Bây giờ đến lượt anh bào chữa. Anh ngắm nhìn trong gương bộ mặt đầy những con đỉa đỏ tía, điều đó thôi thúc anh mau mau làm mặt nạ. Dù sao anh cũng không được hổ thẹn. Nếu có những người thực sự đáng phải rầu lòng thì nói cho đúng hơn, đấy là những người không thừa nhận rằng có thể có con người không có mặt - khi mà mặt là cái chứng minh thư của con ngươi, - và bằng cách đó họ đem chôn sống anh. Có phải thế không?

Lại trở về tâm trạng gây hấn, anh trở lại với cái mặt nạ. Cái diện mạo xồm xoàm trơ trẽn... cái diện mạo mang chiếc mũ lù lù... Chỉ có vẻ khiêu khích của nó là đập vào mắt... Ấn tượng khó chịu có lẽ là do nhìn những phần riêng biệt, - anh áp chiếc mặt nạ vào tường, lùi ra xa mấy bước, bắt đầu ngắm nó qua cái ống nhòm tạo bởi hai bàn tay khum vào nhau. Anh không cảm thấy vui sướng vì công việc đã hoàn thành, đúng hơn anh có một cảm giác giống như nỗi buồn, bởi vì khuôn mặt này của người khác đang dần dần làm chủ anh.

Chắc hẳn đó là do quá mệt mỏi, anh tự khích lệ mình. Xưa nay bao giờ anh cũng có cảm giác như thế khi làm xong một công việc lớn. Chỉ có những người không có trách nhiêm gì về kết quả của công việc mới cảm thấy niềm vui sướng khi công việc hoàn thành. Có lẽ trong vô thức, anh vẫn còn chịu ảnh hưởng của thành kiến đối với bộ mặt. Mặc dù anh ra sức đấu tranh chống lại sự thần thánh hóa bộ mặt, không có gì đảm bảo rằng trong đáy sâu của ý thức không còn gốc rễ của sự tệ hại đó. Cũng như thể những người không tin có ma vẫn cứ sợ bóng tối.

Thế là anh quyết định bằng bất cứ phương diện nào cũng bắt mình phải vùi đầu vào công việc. Để quyết định dứt khoát về việc cái mặt nạ nom như thế nào, anh thử đeo nó vào. Thoạt tiên anh lấy nó ra ở chỗ dưới tai, kéo ra ở chỗ cằm, gỡ quãng môi, rút những cái ống ra khỏi lỗ mũi và lấy hẳn nó ra khỏi bản đúc. Nó lủng liểng như cái túi mềm đựng nước đá. Rồi anh căng nó lên mặt theo trình tự ngược lại. Dường như không có những sai lầm kỹ thuật. Như một vật đã dùng lâu, nó hình như khớp với mặt - cái cục mắc trong họng được nuốt tuột xuống.

Anh nhìn vào gương. Một người lạ mặt lạnh lùng nhìn anh. Đúng như anh mong đợi, không một nét nào gợi nhớ đến anh. Biến hóa hoàn toàn, cả màu, cả nước bóng, cả cảm giác đầy đủ về da, - đại loại có thể nói là thành công. Nhưng sao vẫn có vẻ dại dại thế nhỉ? Có lẽ tại gương tồi... Hay ánh sáng chiếu hơi thiếu tự nhiên... Anh giật tung những cánh cửa và ánh sáng mặt trời ùa vào phòng.

Những mảnh tia sáng sắc nhọn rung động như xúc tu của sâu bọ thọc vào mọi ngóc ngách của mặt nạ. Trên bề mặt nổi lên rõ mồn một những lỗ chân lông những hư hại nhỏ nhặt, thậm chí cả những nhánh mạch máu li ti. Nhưng không thể phát hiện thấy chỗ nào có khuyết tật gì cả. Thế thì cái gì tạo nên cảm giác không thỏa mãn? Phải chăng vì mặt nạ bất động nên thiếu vẻ biểu cảm? Nom nó như bộ mặt người chết đánh phấn hồng cho có vẻ còn sống, cái đó gây nên cảm giác khó chịu kinh khủng. Nên thử vận động một bắp cơ nào chăng? Vì anh chưa làm được một chất đặc biệt để gắn mặt nạ vào mặt, anh định dùng một cái gì tương tự như nhựa băng dính, nhưng ít đậm đặc hơn, nên anh không thể dùng mặt nạ tái hiện chính xác sự vận động của các cơ, có lẽ anh sẽ chỉ làm được điều đó ở vùng mũi và miệng, ở đó mặt nạ tương đối ăn sát với mặt.

Trước hết anh làm căng các khóe miệng ra và thử nhếch mép về bên phải và bên trái. Khá lắm. Thật không uổng công khi anh chú ý hết sức đến vấn đề giải phẫu đã gây cho anh bao nhiêu phiền toái - chồng hết lớp này lên lớp kia một thứ vật liệu có hướng nhất định. Phấn chấn, anh quyết định thử mỉm cười thật sự. Nhưng mặt nạ chẳng mỉm cười tí nào. Chỉ hơi méo đi. Và méo đi một cách kỳ dị đến nỗi thậm chí anh nghĩ không biết có phải chính gương bị méo không. Lúc này cảm giác nó là vật chết càng rõ hơn khi nó bất động. Anh bối rối, anh có cảm giác như sợi chỉ gần các nội tạng của anh đã đứt, và trong ngực trở nên trống rỗng.

... Nhưng anh không muốn bị hiểu sai. Ngay trong ý nghĩ anh cũng không chủ bụng làm ra bộ bi thảm, buôn bán những đau xót của mình. Dù khá hay kém, nhưng đấy là chiếc mặt nạ anh tự chọn lấy. Đấy là bộ mặt mà anh đã chọn sau nhiều tháng thực nghiệm. Nhưng nếu vấn đề không ở chỗ cái mặt nạ làm khá hay kém thì anh phải làm gì đây? Liệu rồi anh có thể cầm lòng chấp nhận đấy là mặt anh và chấp nhận nó vô điều kiện không?

Ngay lúc ấy anh cũng cảm thấy rằng cái cảm giác trống rỗng khiến anh hoàn toàn mất tinh thần không phải chỉ do bối rối trước khuôn mặt mới, mà phần chính là do nỗi tuyệt vọng về sự tan biến, dường như anh nhìn thấy hình ảnh của chính anh lẩn trốn anh nhờ chiếc mũ tàng hình. Nếu vậy thì liệu anh có thực hiện được những kế hoạch tiếp theo nữa không?

Vẻ mặt cũng tương tự như những vòng tuổi do cuộc sống ghi tạc lại, và có lẽ anh thử cười ngay tức thời là nhầm. Hoàn cảnh sống tạo nên sự lặp đi lặp lại những vẻ mặt này hay vẻ mặt khác, và chúng đọng lại chẳng hạn dưới dạng những nếp nhăn, dưới dạng những nếp gấp. Bộ mặt mỉm cười thường xuyên quen với nụ cười tự nhiên. Trái lại bộ mặt cáu kỉnh quen với vẻ cáu kỉnh. Nhưng trên chiếc mặt nạ của anh, cũng như trên mặt trẻ sơ sinh không ghi lại một vòng tuổi nào cả. Đứa trẻ mang bộ mặt của người bốn mươi tuổi thì dù mỉm cười thế nào đi nữa cũng sẽ giống như một kẻ càu quạu. Tất nhiên! Nhất thiết là thế! Cho nên việc đầu tiên anh sẽ đưa vào kế hoạch sau khi lánh vào nơi trú ẩn của mình sẽ là tập cho mặt nạ quen với những nếp nhăn. Nếu việc đó thành công thì mặt nạ sẽ trở nên thân thuộc, tiện lợi đối với anh. Nói chung, ngay từ đầu anh đã giả định một cái gì tương tự, bởi vậy lúc này không có căn cứ gì để thất vọng. Thế là, khéo léo đánh tráo một vấn đề bằng vấn đề khác, chẳng những anh không lắng nghe sự trách móc của lương tâm, mà trái lại, dần dà ngày càng sa lầy sâu hơn.

Vậy là anh đã đến gần nơi ẩn trốn ở nhà S mà anh nói đến ngay ở đoạn mở đầu những ghi chép của anh. Anh đã đi lạc đề ở chỗ nào nhỉ?... À phải, từ chỗ anh còn lại một mình và bắt đầu tháo băng... Thôi được, bây giờ anh sẽ viết tiếp chính từ chỗ ấy.

Việc đầu tiên mà anh làm ở nơi ẩn trốn của mình cố nhiên là tập cho mặt nạ có những nếp nhăn. Chẳng cần những thiết bị đặc biệt nào cả - đấy là một việc cực kỳ lớn lao, tỉ mỉ đòi hỏi tập trung toàn bộ ý chí, tính tự chủ, sự chủ tâm.

Thoạt tiên anh bôi lên khắp mặt một chất dính. Nên đeo mặt nạ từ mũi. Anh luồn khít những ống thở vào mũi, rồi gắn phần tiếp giáp với môi của mặt nạ vào lợi, rồi đập đập nhẹ cho nó dính sát vào mũi, má và cằm, chú ý sao cho không chỗ nào bị gấp nếp. Chờ cho mặt nạ ăn sát vào mặt, anh dùng đèn hồng ngoại làm cho nó nóng lên và trong thời gian còn duy trì được một nhiệt độ nhất định, anh lặp đi lặp lại cùng một điệu mặt. Vật liệu làm mặt nạ có tính chất là khi nóng lên quá một nhiệt độ nhất định thì tính đàn hồi của nó giảm hẳn, vì thế theo một hướng đã tạo cho vật liệu, tức là dọc theo các đường langhe, tự nhiên tạo nên những nếp nhăn tương ứng với vẻ mặt này hay vẻ mặt khác.

Nội dung và sự phân phối các vẻ mặt theo tỷ lệ phần trăm có thể trình bày như dưới dây:

Chủ tâm - 16%

Tò mò - 7%

Đồng ý - 10%

Thỏa mãn - 12%

Cười - 13%

Phủ nhận - 6%

Không bằng lòng - 7%

Gớm ghét - 6%

Nghi ngờ - 5%

Băn khoăn - 6%

Lo ngại - 3%

Giận dữ - 9%

Cố nhiên anh không cho rằng có thể thỏa mãn khi phân tích một hiện tượng phức tạp và tình tế như vẻ mặt thành những yếu tố cơ bản chỉ có như thế. Nhưng nếu pha trộn chúng trên bảng màu theo những tổ hợp khác nhau thì sẽ tạo được bất cứ sắc thái nào. Chắc không cần nói rằng tỷ lệ phần trăm cho thấy tần số của vẻ mặt này hay vẻ mặt khác. Nói vắn tắt, anh tưởng tượng ra một người thuộc loại mà sự biểu hiện cảm xúc diễn ra đại loại theo tỷ lệ như vậy. Cố nhiên nếu hỏi anh rằng lấy gì làm tiêu chuẩn thì anh khó trả lời ngay được. Chẳng qua anh tự đặt mình vào địa vị kẻ cám dỗ và hình dung ra một cảnh tượng trong đó anh đứng trước em - mà em là tượng trưng cho những người khác - và cân nhắc hết vẻ mặt này đến vẻ mặt khác. Như một thằng ngốc, anh cứ luôn luôn lúc thì khóc lúc thì cười, lúc thì lại cáu, cứ như thế cho đến sáng. Vì thế, hôm sau mãi đến gần chiều anh mới thức dậy. Tia sáng lọt qua các khe cửa như lọc qua tấm kính đỏ. Hình như trời đổ mưa, cơn mưa hằng mong đợi từ lâu. Nhưng tâm trạng không sảng khoái hơn chút nào, sự mệt mỏi nồng chát như nước trà hãm làm cả cơ thể tê dại. Hai bên thái dương nóng bỏng và đau nhức. Không phải là ngẫu nhiên. Hơn mười tiếng đồng hồ anh liên tục cử động các cơ điệu mặt.

Hơn nữa, anh không chỉ vận động các cơ đó, mà còn làm căng thẳng thần kinh - khi cười thì cười thực sự, khi nổi cáu thì cáu thực sự.

Dù sao, trong thời gian ấy, ngay cả một nét biểu cảm hết sức nhỏ nhặt cũng ăn sâu vào bề mặt khuôn mặt mới của anh như một biểu trưng không chấp nhận bất cứ sự sửa đổi nào. Nếu như anh luôn luôn mỉm cười giả tạo thì trên mặt nạ của anh sẽ vĩnh viễn giữ lại dấu ấn của một bộ mặt chỉ có khả năng mỉm cười giả tạo. Vì thế, những dấu vết để lại dù chỉ trong khoảnh khắc anh không thể không có thái độ hết sức nghiêm chỉnh đối với chúng, bởi vì biểu hiện ra là hình dạng chúng sẽ được mặt nạ ghi lại như lai lịch của đời anh.

Anh chuẩn bị một chiếc khăn nóng và xoa mặt. Hơi thấm vào da. Da viêm tấy vì anh đã dùng đèn hồng ngoại kích thích các tuyến mồ hôi, còn chất dính bít các lỗ chân lông. Điều đó cố nhiên ảnh hưởng xấu đến các vết sẹo lồi. Nhưng không có gì khủng khiếp hơn sự thể là cái đã từng xảy ra nay lại không thể xảy ra được, và vị tất đã nên quá lo làm gì. Người chết dửng dưng với việc người ta hỏa táng hay chôn mình.

Trong ba ngày, anh lặp đi lặp lại vẫn một việc theo cùng một trình tự. Cái gì cần sửa thì anh đã sửa, mọi cái đã đi vào nề nếp, sang ngày thứ ba anh thử mang mặt nạ mà ăn tối. Đến một lúc nào đó anh sẽ phải đụng chạm với sự cần thiết như thế, nên tốt nhất là thử nghiệm tất cả ngay bây giờ. Bằng cách đó anh sẽ tạo nên những điều kiện tự nhiên nhất. Sau khi chất dính đã đủ đông cứng, anh xoa bù tóc lên và dùng tóc che rìa mặt nạ, đeo kính râm có mắt kính màu nâu để chỗ tiếp giáp của mặt nạ ở xung quanh mí mắt không lộ rõ lắm, và nói chung anh làm mọi việc chuẩn bị như để sửa soạn ra khỏi nhà.

Kìm nén sự cám dỗ nó xui khiến anh nhìn vào tấm gương treo trước mặt, anh đặt lên bàn những món đồ hộp và bánh mì còn lại sau bữa ăn tối hôm qua, và tưởng tượng mình đang ở trong tiệm ăn hay trong một căn phòng nào khác, nơi anh cùng ăn với nhiều người, anh chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn vào gương.

Người kia cố nhiên cũng ngẩng đầu lên và nhìn anh. Rồi theo nhịp cử động của miệng anh, anh ta bắt đầu nhai bánh mì. Khi anh ăn xúp, anh ta cũng ăn xúp. Hơi thở của anh và anh ta trùng nhau, cái đó có vẻ rất tự nhiên, cảm giác môi là môi người khác, thần kinh suy nhụt khiến cho không thể thực sự cảm thấy mùi vị thức ăn, làm cho khó nhai, nhưng nếu quên đi thì có thể quên hết mọi thứ, như người ta quên những chiếc răng giả. Duy có ở mép vẫn chảy ra những giọt nước miếng và những giọt xúp, và anh hiểu rằng cần luôn luôn chú ý đến điều đó.

Bỗng nhiên anh ta đứng lên và nhìn anh với vẻ ngờ vực. Giây lát đó lòng anh bỗng tràn ngập cảm giác về một sự hài hòa nào đó kích động xen lẫn bình yên. Tri giác và say sưa đều nhạy bén - như thể anh uống một liều thuốc ngủ quá lớn và nó ngấm ngay. Có lẽ lúc ấy cái vỏ của anh đã nứt ra ở một chỗ nào chăng? Một thời gian, anh và anh ta nhìn nhau - anh ta mỉm cười trước tiên, anh mỉm cười đáp lại, rồi không gặp sự chống cưỡng nào, anh lẻn vào mặt anh ta. Trong nháy mắt, hai người hòa vào nhau, và anh trở thành anh ta. Anh không cho rằng anh đặc biệt ưa thích bộ mặt ấy, - dù sao bây giờ anh bắt đầu suy nghĩ, cảm giác bằng bộ mặt ấy. Mọi việc tốt đẹp đến nỗi ngay cả anh là người biết mười mươi cái vật giả của mình mà cũng hồ nghi không biết loại vật giả tương tự có tồn tại thật không?

Thực quả mọi việc quá trơn tru. Liệu có nên lo rằng sau này sẽ xảy ra những hiện tượng phụ do anh đã nếm trải tất cả luôn một lúc không? Anh lùi lại dăm sáu bước và nheo mắt. Lợi dụng lúc anh nom có vẻ đặc biệt khó coi, anh mở mắt ra. Nhưng mặt vẫn như trước, như cái âm thoa tiếp tục tỏa ra vẫn nụ cười ấy. Dường như không có sai lầm gì. Muốn gì thì gì, anh coi bộ trẻ ra ít nhất cũng đến năm tuổi.

Vậy thì lúc đó cái gì làm anh lo lắng đến như thế cho đến ngày hôm qua? Có lẽ anh cứ lý sự về một việc không đáng phải e ngại chi cho lắm - ấy là chuyện da mặt không có quan hệ gì đến tính cách con người - thì chỉ là vì anh bị định kiến trói buộc chăng? So với cái tổ đỉa hay cái mặt nạ bằng băng thì mặt nạ hiện giờ bằng nhựa tổng hợp giống mặt người đang sống hơn nhiều. Nếu cái thứ nhất là cánh cửa trang trí vẽ trên tường thì cái này có thể so sánh với cánh cửa mở rộng qua đó hơi ấm mặt trời tràn vào.

... Tiếng chân ai mà hình như anh vẫn nghe thấy từ lâu mỗi lúc một vang to hơn, lại gần. Khi tiếng đó đến sát cạnh anh thì hóa ra đó là tim anh. Cánh cửa mở hối thúc anh.

Được rồi, anh sẽ đi ra! Qua bộ mặt mới, bộ mặt người khác, anh sẽ đi vào thế giới của những người lạ khác nữa.

Tim đập gấp. Trong tâm hồn anh, hy vọng và lo ngại đấu tranh với nhau như ở đứa trẻ lần đầu tiên được phép đi xe lửa một mình. Nhờ chiếc mặt nạ, cố nhiên mọi cái sẽ thay đổi. Không chỉ riêng anh, thế giới cũng sẽ hiện ra trong bộ trang phục mới. Và sự hổ nhục chẳng mấy chốc chìm lấp mất tăm, nó bị cuốn hút vào cái xoáy của những hy vọng.

Post scriptum. Anh nghĩ rằng cần phải thú thực: hôm ấy anh đã uống một liều thuốc lớn. Không, không chỉ riêng hôm ấy. Từ hồi nào đó, anh đã làm việc ấy thường xuyên. Không phải để làm tê liệt nỗi lo lắng, như thoạt nhìn có thể tưởng nhầm. Xét cho đúng hơn thì mục đích là loạt bỏ sự căng thăng thần kinh không cần thiết và bảo tồn một trạng thái hợp lý hơn. Như anh đã nhiều lần nhắc lại, mặt nạ của anh trước hết phải có ý nghĩa đấu tranh chống định kiến về bộ mặt. Nên anh luôn luôn nhớ đến nó, như thể anh đang điều khiển một cỗ máy hết sức phức tạp.

Còn điều này nữa... Khi anh dùng thuốc ngủ trộn với thuốc an thần theo tỷ lệ nhất định thì suốt mấy phút sau khi thuốc ngấm, anh ở trong trạng thái thanh thản bình yên, như đang nhìn bản thân mình qua kính viễn vọng. Vì cho rằng đấy là trạng thái ngây ngất do thuốc ngủ gây nên, tự nhiên anh tránh viết về nó, nhưng bây giờ anh cảm thấy rằng cái mà anh trải qua trong mấy phút ấy sâu hơn anh tưởng nhiều. Chẳng hạn, một cái gì làm anh đến gần hơn thực chất của mối quan hệ giữa những con người liên kết với nhau, bởi một dấu hiệu tượng trưng mang tên là bộ mặt...

Khi thuốc chỉ mới bắt đầu ngấm, anh có cảm giác như thể anh vấp phải đá. Trong khoảnh khắc nào đó, cơ thể anh bồng bềnh trong không trung và anh cảm thấy hơi choáng váng. Rồi hai lỗ mũi bắt đầu ngứa ngáy vì mùi cỏ đã cắt, trái tim vượt thoát ra ngoài, bay vào khoảng rộng xa xăm. Không, có lẽ anh diễn đạt không chính xác lắm. Đột nhiên dòng thời gian dừng lại, anh mất phương hướng, ngoi ra khỏi dòng. Không phải chỉ có một mình anh ngoi ra, mà tất cả những người bay cùng với anh đều dứt bỏ những liên hệ đã có từ trước và tản tác khắp các ngả. Sau khi vượt thoát ra khỏi dòng, anh có cảm giác được giải phóng, anh trở nên hào hiệp vô cùng, và bằng lòng với tất cả mọi điều, anh nhắc lại cái kết luận vội vã và lạ lùng là mặt anh, hiểu theo nghĩa nó giống mặt Bôđixatva, thì hệt như mặt em. Thời gian anh tuyệt đối dửng dưng với cái mệnh danh là mặt kéo dài chừng bảy tám phút.

Khi dòng thời gian ngừng lại giây lát, anh dường như đã khắc phục được không chỉ riêng những bụi đỉa, mà cả bộ mặt của mình nữa và có thể nhìn mọi vật bằng cặp mắt khác. Hẳn là trong những phút mà anh vứt bỏ những nghi ngờ, tin cậy vào những quan hệ giữa người và người, lọt vào trong qua cái cửa sổ mang tên là bộ mặt thì trước mắt anh thoáng hiện, dù chỉ trong khoảnh khắc, cái tự do mà anh không thể hình dung ra được. Hẳn là anh đã bất ngờ chạm trán với hiện thực khủng khiếp; mọi người đều đóng cái cửa sổ tâm hồn bằng chiếc mặt nạ bằng thịt và dùng nó che giấu những tổ đỉa của mình. Có lẽ do bị mất bộ mặt anh đã có thể tiến sát đến một thế giới khác thực sự, chứ không phải là thế giới vẽ trên cửa sổ. Khi ấy cái cảm giác tự do hão huyền là sự thực. Khi ấy nó không phải là sự lừa dối tạm thời do các chất ma túy đem đến.

Rồi sau đó... Mặc dù điều đó hết sức khó chịu... Cái mặt nạ của anh sẽ có thể dễ dàng đảm nhận vai trò che đậy thật sự... Nghĩ cho kỹ thì không loại trừ một điều là chính ở đây ẩn giấu cái nguyên nhân khiến hồi đó anh xấu hổ về mặt nạ của mình. Nhưng mặt nạ đã che giấu mặt anh. Thêm nữa liều thuốc gần gấp đôi đã bắt đầu có hiệu lực, khiến anh quên cái tự do có được nhờ tình trạng không có mặt. Anh tự nhủ: dù là trong thế giới chuyện cổ tích, con vịt con xấu xí dẫu sao cũng đã được quyền biến thành con thiên nga trắng...

Để biến thành người hoàn toàn khác, đương nhiên cần bắt đầu từ quần áo. Nhưng tiếc thay anh vẫn chưa chuẩn bị cái đó, lại nữa, chiều hôm ấy anh cần đạt được s?