Chương 6
Đến Sarapul, Maksim rời tàu. Anh ra đi lặng lẽ, không chào ai, dáng điệu nghiêm trang và bình thản. Theo sau anh là mụ đàn bà vui tính vừa đi vừa cười tủm tỉm và cô con gái, váy áo nhàu nát, cặp mắt sưng húp.
Sergei thì quỳ rất lâu trước buồng thuyền, hắn hôn tấm ván cửa, đập trán vào đó mà gào lên:
- Xin ông tha thứ cho con, con không có lỗi. Đấy là Maksim…
Thủy thủ, bọn hầu bàn và cả một vài hành khách tuy biết là hắn nói dối, nhưng cũng khích lệ:
- Cứ thế, cứ thế! Ông ấy sẽ tha tội cho đấy!
Thuyền trưởng đuổi cổ hắn, thậm chí còn lấy chân đạp một cái khiến Sergei ngã lộn nhào, nhưng cuối cùng cũng tha thứ cho hắn. Sergei lập tức lại chạy khắp boong tàu, bưng các khay đựng ấm chén trà tới các bàn và nhìn thẳng vào mặt mọi người với vẻ xu nịnh như cún.
Thế chân Maksim, người ta tuyển một anh lính miền Vyatka nhỏ bé, gầy gò, có cái đầu nhỏ xíu với cặp mắt màu nâu. Người phụ bếp sai anh đi cắt tiết gà. Anh lính cắt được hai con, còn lại thì đánh xổng trên boong. Hành khách chạy đi bắt gà. Ba con gà mái bay ra ngoài thành tàu. Anh lính bèn ngồi ngay trên đống củi cạnh bếp, khóc rưng rức…
- Mày làm sao thế hả đồ ngốc? – Bác Smouri ngạc nhiên hỏi. – Lính tráng mà lại khóc à?
- Cháu ở đại đội hậu cần. – Anh lính khẽ nói.
Việc mất gà và khóc lóc này đã làm hại anh lính. Nửa giờ sau, mọi người trên tàu đều giễu cợt anh, họ đến sát anh, nhìn thẳng vào mặt anh và hỏi:
- Anh chàng này đây à?
Rồi họ phá lên cười rũ rượi, cái lối cười chọc tức thật lố bịch.
Ban đầu anh lính không nhìn ai, không nghe thấy tiếng cười. Anh lấy tay áo bằng vải hoa đã cũ quệt nước mắt, tựa như giấu những giọt nước mắt vào trong tay áo. Nhưng chẳng bao lâu cặp mắt nâu của anh lóe lên vẻ giận dữ, anh cất giọng miền Vyatka líu ríu như tiếng chim ác là:
- Sao các người lại cứ giương nhỡn cầu ra mà nhìn tôi như thế? Đem mà băm vằm các người ra…
Điều đó càng làm đám người thêm nhộn nhạo. Họ chọc vào người anh, túm lấy áo, lấy tạp dề của anh, trêu anh như trêu một con dê và cứ như vậy chòng ghẹo anh cho đến tận bữa trưa. Sau bữa ăn, một người cắm miếng chanh vắt rồi vào đuôi thìa gỗ rồi buộc vào dải tạp dề sau lưng anh lính. Khi anh ta bước đi, cái thìa lủng lẳng sau lưng. Mọi người cười rộ lên, còn anh thì cứ chạy ngược chạy xuôi như một con chuột nhắt bị bắt, không hiểu vì sao người ta lại cười.
Bác Smouri lặng lẽ theo dõi anh lính với vẻ đứng đắn, gương mặt bác giống hệt mặt đàn bà.
Tôi thấy thương hại anh lính. Tôi hỏi bác đầu bếp:
- Có thể bảo anh ấy biết chuyện cái thìa không, bác?
Bác yên lặng gật đầu.
Khi tôi nói cho anh lính biết người ta cười cái gì, anh liền quờ ngay được cái thìa, giật ra, ném xuống sàn và lấy chân giậm lên, rồi anh dùng hai tay túm tóc tôi. Chúng tôi bắt đầu đánh nhau. Đám người đứng xem rất khoái chí, họ lập tức quây tròn lại.
Bác Smouri gạt đám người, tách hai đứa tôi ra và đầu tiên kéo tai tôi, sau kéo tai anh lính. Khi đám người đứng xem trông thấy cảnh anh lính bé nhỏ lắc lư cái đầu và nhảy nhót dưới cánh tay của bác đầu bếp, họ điên cuồng la hét, huýt sáo, giậm chân và cười rũ.
- Hoan hô chú lính! Húc đầu vào bụng lão bếp ấy!
Sự hân hoan mọi rợ của bầy người đó khiến tôi muốn nhảy xổ vào họ, cầm thanh củi và phang thẳng vào những cái đầu bẩn thỉu kia.
Bác Smouri thả anh lính ra rồi chắp hai tay sau lưng, bác đi về phía đám đông như một con lợn lòi, râu vểnh lên, răng nhe ra một cách ghê sợ.
- Ai về chỗ nấy. Bước! Đồ châu Á…
Anh lính lại xông đến chỗ tôi, nhưng bác Smouri dùng một cánh tay kẹp lấy anh, mang đến vòi nước và bơm nước giội lên đầu anh lính, lật ngang lật ngửa cái thân hình ốm yếu của anh ta như vần một con búp bê vải.
Các thủy thủ cùng người hoa tiêu và người giúp việc cho thuyền trưởng chạy đến; đám người lại xúm lại. Ông chủ tiệm đứng cao hơn mọi người đến một cái đầu. Như mọi khi, ông lặng thinh không nói một lời.
Anh lính ngồi thụp xuống đống củi cạnh bếp, hai tay run run tháo đôi ủng và bắt đầu vắt nước ở các miếng giẻ quấn chân. Nhưng những miếng giẻ ấy đều khô, còn nước thì nhỏ từ đám tóc lưa thưa của anh xuống. Cảnh tượng đó lại khiến những người đứng xem phì cười.
- Các người đều cùng một giuộc cả. – Anh lính nói bằng giọng the thé. – Tôi sẽ giết chết thằng bé!
Vừa vịn vai tôi, bác Smouri vừa nói gì đó với người giúp việc thuyền trưởng. Các thủy thủ giải tán đám đông. Khi mọi người đã tản đi hết, bác đầu bếp hỏi anh lính:
- Bây giờ biết xử trí với mày sao đây?
Anh ta lặng thinh, nhìn tôi bằng cặp mắt man rợ, người rung lên một cách lạ thường:
- Nghiê…iêm, thằng động kinh kia! – Bác Smouri nói.
Anh lính trả lời:
- Gì mà la lên như cái kèn ấy? Đây không phải là trong trại lính!
Tôi thấy bác đầu bếp ngớ người ra vì mắc cỡ. Đôi má đang phồng của bác xẹp hẳn xuống và nhăn nhúm lại. Bác nhổ một bãi nước bọt rồi bỏ đi, kéo tôi theo. Tôi bàng hoàng bước sau bác, chốc chốc lại ngoái nhìn anh lính, còn bác Smouri lẩm bẩm, vẻ như băn khoăn:
- Hừ, gớm chửa? Thôi mặc chúng bay…
Sergei đuổi theo chúng tôi và không hiểu vì sao lại thì thầm:
- Nó định cắt cổ tự tử đấy!
- Đâu? – Bác Smouri hét lên và chạy lại.
Anh lính đứng ở cửa buồng của những người hầu bàn, tay cầm một con dao to. Con dao này người ta thường dùng để chặt đầu gà và chẻ củi nên đã cùn và sứt mẻ như một cái răng cưa. Đám người đứng trước buồng đang theo dõi anh chàng bé nhỏ buồn cười đầu óc ướt đẫm đó. Chiếc mũi tẹt của anh lính rung rung như miếng thịt đông, miệng há hốc vẻ mệt mỏi, đôi môi mấp máy. Anh rống lên:
- Quân hành hạ người… Quân hành hạ…ạ…
Nhảy lên một chỗ cao, qua đầu đám đông, tôi nhìn vào mặt họ. Đám người tủm tỉm, khúc khích cười và bảo nhau:
- Xem kìa, xem kìa…
Khi thấy anh lính đưa bàn tay gầy guộc như tay trẻ con nhét lại phần gấu áo tuột ra ngoài quần, một người đàn ông nom dễ coi đứng bên tôi thở dài:
- Sắp chết mà vẫn còn sửa quần…
Đám người đứng xem liền cười ồ. Rõ ràng không ai tin anh lính có thể tự tử, cả tôi cũng vậy. Bác Smouri liếc anh lính, rồi vừa xô mọi người bằng cái bụng của mình vừa nói:
- Cút ngay, đồ ngốc!
Bác gọi chung mọi người là “đồ ngốc”, rồi bác đi về phía một tốp, quát lên:
- Về chỗ, đồ ngốc!
Câu đó nghe cũng buồn cười, nhưng quả là như vậy: Ngày hôm nay, từ sáng tới giờ, mọi người chỉ rặt một lũ đại ngốc.
Đuổi xong đám đông, bác đi lại phía anh lính và giơ tay ra:
- Đưa con dao đây…
- Tất cả đều cùng một giuộc cả. – Anh lính vừa nói vừa chìa lưỡi dao ra.
Bác đầu bếp dúi con dao cho tôi rồi đẩy anh lính vào buồng.
- Nằm ngủ một lát đi! Sao mày lại thế, hở?
Anh lính lẳng lặng ngồi lên giường.
- Nó sẽ đưa rượu vodka và thức ăn đến cho. Có uống được vodka không?
- Cũng uống được chút ít…
- Mày coi chừng đấy, đừng cố đụng vào nó. Nó có chế nhạo mày đâu, hở? Tao bảo là không phải nó…
- Thế tại sao người ta lại làm tình làm tội cháu thế? – Anh lính hỏi khe khẽ.
Bác Smouri chưa nói ngay, sau một lúc bác cau có trả lời:
- Tao biết đâu đấy!
Khi đi với tôi vào bếp, bác lẩm bẩm:
- Hừ, thật vậy, chúng nó châu đầu vào mà vần thằng khố rách ấy! Mày thấy thế nào? Đấy! Chú em ạ, chúng có thể làm cho người khác phát điên lên được, có thể… Chúng cứ bám lấy như một lũ rệp thế là – tong! Rệp đã thấm vào đâu! Chúng còn độc ác hơn loài rệp nhiều…
Khi tôi mang bánh mì, thịt và rượu vodka tới thì anh lính đang ngồi trên giường, người lắc lư nghiêng ngả và khóc ti tỉ, sụt sịt như đàn bà. Tôi đặt đĩa lên cái bàn con và nói:
- Ăn đi…
- Đóng cửa lại.
- Đóng thì tối om.
- Đóng, không có chúng nó lại mò vào…
Tôi bỏ đi. Tôi không thích anh lính. Anh không gợi được lòng trắc ẩn, lòng thương hại của tôi. Điều đó thật là khó xử, vì bà tôi nhiều lần vẫn dạy: “Phải biết thương người. Mọi người đều bất hạnh, đều sống chật vật…”
- Mang đến chưa? – Bác đầu bếp hỏi tôi. – Thế nào, nó làm gì ở đằng ấy?
- Đang khóc.
- Hừ… Đồ bị thịt! Lính tráng gì nó!
- Cháu không thể thương được nó đâu.
- Thế nào? Mày nói sao?
- Phải biết thương người…
Bác Smouri nắm lấy tay tôi, kéo lại gần mình rồi trang trọng nói:
- Không nên thương người một cách miễn cưỡng, nhưng nói càn cũng không tốt đâu, hiểu chưa? Cháu không nên nghĩ vớ vẩn làm gì, hãy hiểu lấy mình đã…
Và đẩy tôi ra, bác cau có nói thêm:
- Đây không phải là đất sống của mày đâu! Này, hút một điếu…
Hành vi của đám hành khách dằn vặt tôi, làm tôi bị xúc động mạnh. Tôi cảm thấy trong việc họ chế nhạo anh lính, việc họ cười hô hố một cách khoái trá khi bác Smouri xách tai anh ta, có một cái gì đáng sỉ nhục khó tả, nó đè nặng lên tâm hồn tôi. Sao họ lại có thể thích thú với những trò ghê tởm, đáng thương ấy? Có gì đáng buồn cười một cách khoái trá đến như vậy?
Và giờ đây họ lại đang ngồi hoặc nằm dài dưới mui tàu thấp lè tè, ăn uống, đánh bài, nói chuyện với nhau một cách bệ vệ và hòa thuận, ngắm dòng sông, tựa hồ như không phải họ là những kẻ một giờ trước đã la ó, nhạo báng người khác vậy. Tất cả bọn họ đều có vẻ trầm lặng, uể oải như mọi khi. Từ sáng đến chiều họ chậm rãi chen chúc trên tàu như lũ ruồi con hay đám bụi trong tia nắng. Và đây, hàng chục người đang chen nhau ở cầu tàu, vừa làm dấu vừa lên bến. Và từ bến tàu lại có những người giống hệt như họ đang xô vào họ để xuống tàu, những người này cũng còng lưng dưới sức nặng của bị, bọc, hòm xiểng, cũng ăn mặc y như vậy…
Sự thay đổi hành khách thường xuyên đó không ảnh hưởng tí nào tới cuộc sống trên tàu. Những hành khách mới sẽ nói những chuyện mà các hành khách trước đã nói: Chuyện ruộng đất, chuyện công ăn việc làm, chuyện Chúa, chuyện đàn bà – và cũng với những lời lẽ như vậy.
- Chúa đã bắt phải chịu đựng thì con người phải chịu đựng! Số phận của chúng ta là như thế, biết làm sao được…
Những lời nói ấy nghe thật buồn tẻ và làm tôi rất bực tức. Tôi không thể nào chịu đựng được sự nhơ bẩn, tôi phẫn nộ trước những thái độ độc ác, bất công, sỉ nhục tôi. Tôi cảm thấy rõ ràng tôi không đáng phải chịu những điều như thế. Và anh lính cũng không đáng phải chịu. Có thể là chính anh ta muốn trở thành trò cười cũng nên…
Anh Maksim – một thanh niên đứng đắn, hiền lành thì bị người ta đuổi khỏi tàu. Còn Sergei – tên đê tiện thì người ta để lại. Toàn là chuyện ngược đời. Mà tại sao những kẻ có thể làm tình làm tội người ta, khiến người ta gần như phát điên ấy, lại luôn luôn ngoan ngoãn phục tùng tiếng la hét giận dữ của thủy thủ, lại có thể bình thản nghe những lời chửi rủa của họ?
- Gì mà đổ xô ra thành tàu thế này? – Người hoa tiêu quát to, cặp mắt đẹp nhưng dữ tợn nheo lại. – Làm nghiêng cả tàu rồi. Giải tán đi, lũ quỷ mặc áo dạ này…
“Lũ quỷ” liền ngoan ngoãn kéo nhau sang thành bên kia, nhưng ở bên đó người ta lại đuổi họ đi chỗ khác như đuổi một đàn cừu.
- A, cái lũ đáng nguyền rủa này…
Vào những đêm nóng nực, nằm dưới mái tôn bị thiêu đốt suốt cả ngày thật là ngột ngạt. Hành khách như những con gián bò lổm ngổm khắp boong tàu, bạ đâu nằm đấy. Trước khi tàu cập bến, các thủy thủ lấy chân đá họ dậy.
- Ê, sao lại nằm ườn cả ra lối đi thế này! Cút về chỗ ngay…
Họ dậy và mơ màng di chuyển về phía mà người ta đẩy tới.
Những người thủy thủ cũng giống như họ thôi, chỉ ăn mặc là khác, nhưng lại chỉ huy họ như những viên cảnh sát vậy.
Điều nổi bật dễ nhận thấy nhất trong những con người ấy là cái vẻ lặng lẽ, rụt rè, phục tùng một cách thảm hại. Và cũng thật lạ lùng, thật đáng sợ khi thấy dưới lớp vỏ của sự phục tùng đó bỗng nhiên nổ ra một trò tinh quái tàn nhẫn, vô nghĩa và hầu như luôn là những trò đùa đáng buồn. Tôi có cảm giác rằng họ không biết người ta sẽ chở họ tới đâu. Người ta cho họ lên bến nào họ cũng chẳng cần. Họ có lên bến nào đi chăng nữa thì sau một thời gian không lâu ở trên bờ, họ lại xuống tàu này hay tàu khác để đến nơi nào đó. Họ như những kẻ lạc đường, không người thân thích. Mọi bến bờ đều xa lạ đối với họ. Và tất cả bọn họ đều hèn nhát đến mức không thể tưởng tượng được.
Một lần, vào lúc quá nửa đêm, trong máy có một bộ phận nào đó bị vỡ và nổ, nghe như súng đại bác. Lập tức boong tàu bị bao phủ bởi một đám hơi nước dày đặc trắng như mây từ hầm máy tỏa lên, lọt qua mọi khe ngách. Một người đứng khuất đâu đó kêu thất thanh:
- Gavrilov, sơn đỏ và nỉ…
Tôi ngủ gần buồng máy, trên cái bàn vẫn dùng làm chỗ rửa bát đĩa. Khi tiếng nổ và sự rung chuyển làm tôi thức giấc, trên boong hãy còn yên lặng. Hơi nóng phun phì phì trong máy, tiếng búa đập hối hả. Chỉ một phút sau, tất cả hành khách trên boong đã rống lên, la ó hỗn loạn khiến cho tình hình bỗng chốc trở nên vô cùng khủng khiếp.
Trong đám sương mù trắng xóa đang tan rất nhanh, đàn bà để đầu trần, đàn ông quần áo tả tơi, mắt tròn xoe như mắt cá, chạy nhốn nháo, xô nhau ngã dúi dụi. Mọi người lôi tay nải, bao bị, hòm xiểng, chẳng biết đưa đi đâu. Họ vừa vấp ngã vừa cầu Chúa, vừa cầu thánh Nikolai thần thông vừa đánh lẫn nhau. Cảnh tượng thật là khủng khiếp nhưng đồng thời cũng rất thú vị. Tôi chạy theo mọi người và luôn theo dõi xem họ làm những gì.
Lần đầu tiên tôi được thấy cảnh hốt hoảng ban đêm như thế và không hiểu tại sao tôi biết ngay là hành khách đã hoảng sợ một cách vô lí.
Tàu thủy vẫn chạy với tốc độ như cũ, không hề chậm lại. Rất gần phía bên phải thành tàu, những đống lửa của mấy người cắt cỏ đang cháy. Mặt trăng tròn lơ lửng giữa bầu trời trong sáng.
Trên boong, người ta nhốn nháo mỗi lúc một dữ hơn. Những hành khách ở các phòng hạng nhất lao lên boong. Một người nhảy ùm xuống sông, người thứ hai nhảy theo, rồi người nữa… Hai người đàn ông và một thầy tu cầm những thanh củi ra sức phá long cái ghế dài gắn ở boong tàu. Phía đuôi tàu, người ta quăng một cái lồng gà lớn xuống nước. Giữa boong tàu, bên cạnh cái thang lên đài thuyền trưởng, một người đàn ông vừa quỳ lạy những kẻ chạy qua trước mặt mình vừa gào lên như một con chó sói:
- Các đồng hữu chính giáo ơi, tôi là kẻ có tội…
- Cho thuyền lại đây, lũ quỷ sứ kia! – Lão quý tộc to béo mặc độc một cái quần, cởi trần, nắm tay đấm vào ngực, quát tháo.
Các thủy thủ chạy lại, túm cổ áo từng người, nện lên đầu họ rồi quật họ xuống sàn tàu. Bác Smouri khoác áo bành tô ra ngoài bộ đồ ngủ, vừa đi đi lại lại nặng nề, vừa thuyết phục mọi người bằng một giọng oang oang.
- Các người không biết xấu hổ à? Chuyện gì mà làm loạn cả lên thế? Tàu đã dừng lại rồi, nó vẫn đứng yên, có việc gì đâu! Đấy, bờ sông kia kìa! Cái bọn ngu ngốc vội nhảy xuống sông đã được những người cắt cỏ vớt và lôi lên rồi. Kìa, họ kia kìa! Hai chiếc thuyền đấy, có thấy không?
Còn đối với hành khách hạng ba thì bác lấy nắm tay nện vào đầu họ, họ lặng lẽ ngã lăn quay trên sàn tàu như những cái bao tải.
Cuộc hỗn loạn chưa yên thì một bà mặc áo choàng dài, tay cầm thìa xúp, nhảy xổ lại phía bác Smouri, vung thìa sát vào mũi bác ta, kêu lên:
- Mày dám nói như thế à?
Một ông ướt lướt thướt giữ bà ta lại, vừa liếm hàng ria mép vừa bực tức bảo bà:
- Thây kệ cái lão ngốc ấy…
Bác Smouri buông hai tay xuống, nhấp nháy mắt với vẻ lúng túng và hỏi tôi:
- Thế là thế nào, hở? Tại sao mụ ấy nhảy xổ vào tao? Xin đa tạ! Đúng là tao mới thấy mụ lần đầu!…
Một người đàn ông khác khạc ra một cục máu, kêu lên:
- Con người như vậy đấy! Thật là lũ ăn cướp!
Suốt mùa hè, tôi đã hai lần thấy cảnh tượng kinh hoàng như vậy trên tàu thủy, và cả hai lần đều không phải do mối hiểm nguy trực tiếp gây nên mà do sự khiếp sợ trước khả năng có thể xảy ra tai nạn. Lần thứ ba, hành khách tóm được hai thằng ăn cắp, một trong hai đứa ăn mặc như khách lữ hành. Họ bí mật đánh chúng suốt gần một tiếng đồng hồ không cho thủy thủ biết. Khi thủy thủ dẫn bọn ăn cắp đi, họ liền chửi cả thủy thủ.
- Ai còn lạ gì, phường ăn cắp lại bao che cho phường ăn cắp!
- Chính các người cũng là bọn lừa đảo nên các người phải dung túng cho bọn lừa đảo…
Hai tên ăn cắp bị đánh đến ngất đi. Khi người ta trao chúng cho cảnh sát ở bến tàu kế tiếp thì chúng đứng không vững được nữa.
Và còn rất nhiều sự kiện như vậy, khiến tôi vừa lo lắng vừa không sao hiểu được tâm địa con người – không biết họ lành hay ác? Ôn hòa hay quật khởi? Và tại sao đang giận dữ tàn nhẫn họ bỗng trở nên nhịn nhục một cách đáng hổ thẹn nhanh dường vậy?
Tôi đem chuyện đó hỏi bác đầu bếp, nhưng bác phả khói thuốc mù mịt rồi thường nói với vẻ miễn cưỡng:
- Xì, chuyện ấy làm mày băn khoăn à? Con người bao giờ cũng vẫn là con người… Đứa này thông minh, đứa kia ngu đần. Mày nên tìm sách mà đọc, đừng có hỏi vớ vẩn. Trong sách, nếu là sách tốt chắc mọi điều đều được người ta nói đến…
Bác không ưa những sách viết về đạo và sự tích các vị thánh.
- Thôi, của này nhường cho các cố đạo, cho con cái cố đạo…
Tôi muốn làm vui lòng bác nên định tặng bác một quyển sách. Tại bến tàu ở Kazan tôi mua quyển Truyền thuyết về chuyện một người lính đã cứu sống Pyotr Đại đế giá năm kopek. Nhưng lúc ấy bác đầu bếp đang say rượu và cáu giận nên tôi không dám tặng bác, đành tự đọc trước quyển ấy đã. Tôi rất thích truyện ấy – thật giản dị, dễ hiểu, lí thú và ngắn gọn. Tôi đinh ninh quyển sách ấy sẽ khiến ông thày của tôi vui lòng.
Nhưng khi tôi mang sách đến cho bác, bác lặng thinh vò nhàu nó trong lòng bàn tay thành một cục tròn rồi ném xuống sông.
- Đấy, sách của mày đấy, thằng ngốc kia! – Bác cau có. – Tao dạy mày như dạy một con chó săn, vậy mà mày vẫn cứ muốn nuốt sống những giống thú săn được à?
Bác giậm chân rồi quát tướng lên:
- Cuốn sách đó là sách như thế nào? Tao đã đọc hết những điều ngu xuẩn ấy rồi. Những gì viết trong đó mày tưởng là thật cả đấy à? Sao, nói đi?
- Cháu không biết.
- Còn tao thì tao biết! Khi một đứa đã bị chặt đầu và ngã lăn từ bậc thang xuống đất, những đứa khác còn dại gì mà leo lên vựa cỏ khô nữa – bọn lính không phải là những đứa ngốc! Chúng nó chỉ việc đốt phăng vựa cỏ đi là xong chuyện! Hiểu chưa?
- Hiểu ạ.
- Thế đấy! Tao biết vua Pyotr mà, với ông ta không thể có những chuyện như vậy được! Thôi, xéo ngay…
Tôi hiểu rằng bác đầu bếp nói đúng, nhưng dầu sao tôi vẫn thích quyển sách ấy. Tôi bèn đi mua một cuốn Truyền thuyết… khác về đọc một lần nữa và ngạc nhiên thấy rằng quyển đó quả thực rất tồi. Điều đó làm tôi bối rối và tôi càng tin bác đầu bếp, chú ý đến bác hơn. Còn bác thì không hiểu sao ngày càng hay nói với vẻ bực dọc:
- Chà, phải làm thế nào cho mày đi học mới được! Đây không phải là đất sống của mày…
Tôi cũng cảm thấy rằng đây không phải là đất sống của tôi. Sergei đối xử với tôi một cách rất khả ố. Đã vài lần tôi thấy hắn ta lấy đồ trà trên bàn tôi và lén lút đưa cho hành khách mà không cho chủ tiệm biết. Tôi hiểu đó là trò ăn cắp. Bác Smouri nhiều lần dặn tôi:
- Coi chừng đấy, đừng để bọn hầu bàn lấy những đồ trà trên bàn cháu!
Còn nhiều chuyện không hay xảy đến với tôi. Tôi thường muốn trốn khỏi tàu thủy, xuống ngay bến đầu tiên và bỏ vào rừng. Nhưng bác Smouri đã giữ tôi lại: Bác đối xử với tôi ngày một dịu dàng. Và việc con tàu không ngừng di chuyển cũng khiến tôi say mê kì lạ. Mỗi khi nó đậu vào bến là tôi lại cảm thấy khó chịu. Tôi chỉ mong xảy ra chuyện gì đấy để chúng tôi rời sông Kama sang sông Belaya, sông Vyatka hoặc đi dọc sông Volga. Tôi sẽ được trông thấy những bến bờ mới, những thành phố mới, những con người mới…
Nhưng việc đó không xảy ra. Cuộc sống lênh đênh trên tàu của tôi bị gián đoạn một cách bất ngờ và nhục nhã. Một buổi chiều, trên đường từ Kazan tới Nizhny, tay chủ tiệm gọi tôi tới. Khi tôi vào, ông ta liền khép cửa lại và nói với bác Smouri đang âu sầu ngồi trên ghế đẩu lót thảm:
- Nó đấy.
Bác Smouri hỏi tôi một câu cộc lốc:
- Mày đưa đồ trà cho thằng Seryozhka[57] phải không?
- Anh ấy tự lấy lúc nào mà cháu không trông thấy.
Chủ tiệm khẽ nói:
- Không trông thấy nhưng mà biết.
Bác Smouri nắm tay đấm vào đầu gối mình rồi vừa xoa đầu gối vừa nói:
- Khoan đã, còn kịp…
Và bác ngồi suy nghĩ. Tôi nhìn chủ tiệm, ông ta nhìn tôi, nhưng sau cặp kính hình như ông ta không có mắt.
Ông ta sống lặng lẽ, đi đứng nhẹ nhàng không gây tiếng động, nói năng nhỏ nhẹ. Đôi khi bộ râu cằm đã bạc màu và đôi mắt lờ đờ của ông ta nhô ra từ một xó nào rồi lại biến ngay mất. Trước khi đi ngủ, ông ta quỳ rất lâu trước tượng thánh bên ngọn đèn dầu cháy suốt ngày đêm trong tiệm. Tôi nhìn thấy ông ta qua một lỗ cửa đục giống hình con át cơ, nhưng tôi không thấy được ông ta cầu nguyện như thế nào: Ông chỉ quỳ và nhìn lên bức tượng thánh cùng ngọn đèn dầu, rồi vừa vuốt râu vừa thở dài.
Lặng yên một lúc, bác Smouri lại hỏi:
- Thằng Seryozhka có cho mày tiền không?
- Không.
- Không bao giờ cho à?
- Không bao giờ.
- Nó không nói dối đâu.
Bác Smouri bảo tay chủ tiệm, nhưng ông này khẽ trả lời:
- Dầu sao cũng thế thôi. Anh cứ thế mà làm.
- Thôi đi ra! – Bác đầu bếp quát tôi rồi đi lại phía cái bàn, lấy tay búng khẽ vào đỉnh đầu tôi. – Mày là thằng ngốc! Và tao cũng là thằng ngốc! Lẽ ra tao phải để mắt đến mày…
Đến Nizhny, chủ tiệm tính tiền công cho tôi. Tôi nhận được gần tám rúp – món tiền lớn đầu tiên do công sức lao động của chính mình.
Lúc từ biệt tôi, bác Smouri buồn rầu:
- Thế đấy… Từ nay về sau phải mở mắt ra, hiểu chưa? Đừng có lơ mơ mà chết đấy…
Bác nhét vào tay tôi một cái túi con đính hạt cườm sặc sỡ.
- Cho cháu cái này! Đây là một đồ thêu rất đẹp, do đứa con gái nuôi của bác thêu đấy… Thôi, từ biệt! Hãy đọc nhiều sách vào, đó là điều tốt nhất!
Bác bế xốc nách tôi lên, hôn tôi và thong thả đặt tôi xuống sàn bến tàu. Tôi thấy thương bác và thương cả mình nữa. Suýt nữa thì tôi khóc òa lên khi trông cảnh bác chen lấn những người phu khuân vác để trở về tàu. Trông bác to lớn, nặng nề và cô đơn làm sao.
Sau này tôi còn gặp biết bao nhiêu người hiền từ, cô đơn và tách lìa khỏi cuộc đời như bác!…
Chú thích:
[1] Tức Sergei.