Chương 12
Cuối mùa thu, những chuyến tàu thủy chấm dứt, tôi xin vào học việc trong một xưởng làm tượng thánh[112]. Nhưng hai ngày sau, bà chủ – một mụ già mềm mỏng và lúc nào cũng ngà ngà say – bảo tôi bằng giọng miền Vladimir:
- Ngày bây giờ ngắn, đêm thì dài. Cho nên buổi sáng cháu sẽ ra cửa hiệu đứng coi hàng, buổi chiều sẽ học việc!
Và bà giao tôi cho một gã quản lí nhỏ bé. Gã này còn trẻ, chân bước thoăn thoắt, bộ mặt bảnh trai, ngọt ngào. Sáng sáng, trong bóng mờ mờ lạnh lẽo của ban mai, tôi đi với gã băng qua suốt thành phố, dọc theo phố buôn Ilinka còn mơ màng ngái ngủ về phía chợ Nizhny. Cửa hiệu nằm trên tầng hai tòa nhà buôn. Đó là một căn phòng tối, trước từng là kho. Nó có một cửa ra vào bằng sắt và một cửa sổ nhỏ trông ra sân gác có mái che bằng tôn. Cửa hiệu xếp đầy chật tượng thánh đủ cỡ, những tủ đựng tượng, nhẵn có, chạm trổ có, những sách kinh in bằng chữ Slav cổ bìa da vàng. Bên cạnh cửa hiệu của chúng tôi là một cửa hiệu khác cũng bán tượng thánh và sách. Chủ hiệu ấy là một thương gia râu đen có họ với một nhà thông thái nổi tiếng sống phía bên kia sông Volga. Lão thương gia có một đứa con trai trạc tuổi tôi, khô khẳng và linh lợi, khuôn mặt xám nhỏ choắt như cụ già, mắt luôn nhìn ngược nhìn xuôi như mắt chuột.
Mở xong cửa hiệu, tôi phải chạy đi mua nước sôi ở quán ăn. Uống trà xong, tôi dọn dẹp cửa hàng, lau bụi trên hàng hóa. Sau đó tôi đứng ở sân gác và chú ý theo dõi để khách hàng khỏi vào cửa hiệu bên cạnh.
- Khách hàng là một lũ ngốc. – Gã quản lí bảo tôi, giọng đầy tin tưởng. – Họ mua ở đâu cũng được, chỉ cốt rẻ thôi, chứ có biết quái gì đến hàng tốt xấu!
Gõ gõ những tượng thánh bằng gỗ, tự hào về tài nghệ của mình, gã dạy tôi:
- Những hàng này đều là hàng rẻ tiền. Loại 12 x 16 phân giá là… loại 24 x 28 phân giá là… Mày hiểu biết các thánh đấy chứ? Phải nhớ lấy: thánh Vonifaty chuyên trị bệnh nghiện rượu; thánh Varvara tử vì đạo chữa đau răng và đột tử; thánh Vassili hạnh phúc trị cảm, sốt… Các Đức Mẹ mày cũng biết đấy chứ? Nhìn đây này! Đức Mẹ Thương Khó, Đức Bà Ba Ngôi, Đức Mẹ Alaba Báo Mộng, Đức Mẹ Đừng Khóc Con, Hãy An Ủi Con, Đức Mẹ Kazan, Đức Mẹ Pokrov, Đức Mẹ Semistrelnaya…
Tôi thuộc rất chóng giá các tượng thánh, tùy theo cỡ và phẩm chất của chúng, tôi nhớ điểm khác nhau giữa các tượng Đức Mẹ, nhưng khó mà nhớ được tài đức của các vị thánh.
Có khi tôi đang đứng ngoài cửa hiệu, cố suy nghĩ về một điều gì đó thì gã quản lí bỗng thình lình kiểm tra kiến thức của tôi:
- Ai giúp đỡ được những trường hợp khó đẻ?
Nếu tôi lầm lẫn, gã hỏi một cách khinh bỉ:
- Thế đầu óc mày để làm gì?
Đối với tôi, việc mời mọc khách lại càng khó khăn. Tôi không thích những tượng thánh vẽ xấu xí đó và phát ngượng vì phải bán những của nợ này. Theo chuyện bà tôi kể, tôi hình dung Đức Mẹ hiền từ, trẻ đẹp. Trên các tranh trong tạp chí, hình của Đức Mẹ cũng y như vậy. Thế mà những bức tượng ở đây lại trình bày Đức Mẹ già, nghiêm khắc, mũi vừa cong vừa dài và những cánh tay cứng đờ như gỗ.
Phiên chợ thứ Tư và thứ Sáu, hàng bán rất chạy; trên sân gác luôn có những ông bần nông và mấy bà già, đôi khi là toàn thể gia đình. Họ đều là những người dân theo cựu giáo vùng ven sông Volga, những người dân quê mùa ít nói và đa nghi. Có lần tôi gặp một người to lớn nặng nề, quấn da cừu và nỉ dày dệt lấy, đi rón rén trên sân gác như sợ bị ngã xuống dưới. Trước mặt bác ta tôi đâm ra lúng túng, xấu hổ. Thật phải gắng gượng lắm tôi mới dám chặn lối đi của bác, quẩn quanh bên đôi ủng khổng lồ, vo ve như một con muỗi:
- Thưa ngài, ngài muốn mua gì ạ? Xin mời ngài xem, đây là những sách Thánh thi giáo huấn và diễn giảng, đây là sách của Ephrem Siren, của Kyrill, đây là luật Thánh, sách kinh. Đây là các tượng thánh sơn đậm màu, loại tốt nhất, đủ mọi giá, ngài muốn thứ nào cũng có! Theo ý muốn của khách hàng, chúng tôi nhận đặt vẽ tất cả các thánh và tất cả các Đức Bà Đồng Trinh.
Có lẽ ngài muốn đặt một bức cá nhân, hay một bức gia đình chăng? Xưởng chúng tôi là xưởng nổi tiếng nhất nước Nga! Cửa hàng của chúng tôi là cửa hàng lớn nhất trong thành phố!
Người khách hàng khó hiểu và kín đáo ấy im lặng hồi lâu; ông ta nhìn tôi như nhìn một con chó, rồi bỗng đưa cánh tay thô kệch gạt tôi sang một bên, đi vào cửa hàng bên cạnh. Còn gã quản lí thì vừa vân vê đôi tai to vừa giận dữ càu nhàu:
- Mày để lọt lưới mất rồi… Thế mà cũng đòi mời khách…
Từ cửa hiệu bên cạnh vẳng lên một giọng nói mềm mỏng, ngọt ngào, tuôn ra những câu dễ mê hoặc lòng người:
- Anh bạn thân mến ạ, chúng tôi không phải loại buôn da cừu, buôn giày dép. Chúng tôi bán những lời truyền của Chúa, những thứ mà vàng bạc cũng không thể nào đọ được, những vật vô giá…
- Quỷ quái thật! – Gã quản lí của tôi lầm bầm với vẻ ganh tị và khâm phục. – Nó câu bọn bần nông mới giỏi chứ! Mày học lấy! Học lấy!
Tôi học rất tận tình – mọi việc đều cần làm cho ra trò nếu đã bắt tay vào làm. Nhưng kết quả mời chào khách và bán hàng của tôi rất tồi. Những bần nông cau có, lầm lì, những bà già giống như chuột nhắt luôn luôn khúm núm như sợ sệt điều gì làm tôi thấy thương hại, muốn khẽ mách cho họ biết giá thật của các bức tượng thánh mà không lấy một kopek lãi nào. Đối với tôi, tất cả đều có vẻ nghèo đói cùng khổ. Thật lạ khi thấy họ có thể bỏ ra ba rúp rưỡi để mua một quyển Thánh thi – quyển sách được nhiều người mua nhất.
Kiến thức của họ về sách và về giá trị lối vẽ tượng thánh làm tôi rất ngạc nhiên. Một lần, một ông già tóc bạc bị tôi lùa vào hiệu đã nhẹ nhàng bảo tôi:
- Chú em ơi, xưởng làm tượng thánh của chú không phải là xưởng giỏi nhất nước Nga đâu. Xưởng nổi tiếng nhất là xưởng của Rogoshin ở Moskva kia.
Tôi ngượng quá, rút lui. Còn ông ta tiếp tục thong thả đi, không buồn ghé vào cửa hiệu bên cạnh.
- Chết cứng lưỡi chứ? – Gã quản lí hỏi tôi với vẻ thâm độc.
- Anh có nói cho em biết xưởng của Rogoshin đâu…
Gã chửi rủa:
- Cái bọn tẩm ngẩm tầm ngầm ấy la lết mọi nơi, cái gì cũng biết, quân vô lại, cái gì cũng hiểu, lũ chó già…
Bảnh trai, no đủ và giàu lòng tự ái, gã rất ghét các bần nông. Trong những phút thân mật, gã than phiền với tôi:
- Tao là một người thông minh, ưa sạch sẽ, ưa những thứ thơm tho như hương hoa, hương nước hoa. Thế mà với phẩm chất như vậy tao phải cúi rạp mình xuống đến thắt lưng trước bọn bần nông hôi hám ấy, để chúng cho bà chủ dăm kopek tiền lãi! Tao còn thích thú làm sao được? Bọn bần nông là cái gì? Đó là một lũ lông lá hôi hám, rận chấy đầy người, ấy thế mà…
Gã lặng im một cách cay đắng.
Tôi thích các bần nông. Ở mỗi người tôi đều thấy có vẻ gì bí ẩn, giống như ở anh Yaakov.
Có lần, một người to lớn khoác áo ngắn bước vào hiệu. Bác ta bỏ cái mũ lông xuống, vừa lấy hai ngón tay làm dấu thánh vừa nhìn về phía góc nhà có ngọn đèn thờ leo lét cháy, cố ý không liếc mắt vào những bức tượng thánh khác rồi lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh:
- Cho một tập Thánh thi diễn giảng.
Bác hất ống tay áo, đọc rất lâu trang đầu, cặp môi xám nứt nẻ đến rớm máu khẽ động đậy.
- Không có quyển cổ hơn à?
- Ông cũng biết đấy, sách cổ giá hàng ngàn rúp cơ…
- Chúng tôi biết!
Bác ta thấm nước bọt vào tay, rồi lật trang khác, chỗ bác ta vừa chạm tới hằn lại vết ngón tay đen sì. Gã quản lí lườm ông khách với một vẻ hung dữ:
- Sách thánh nào cũng đều cổ như nhau, Chúa có bao giờ thay đổi lời phán truyền của Người đâu…
- Chúng tôi cũng đã biết, đã nghe nói như vậy rồi! Chúa không thay đổi, nhưng mà Nikon thay đổi[113].
Rồi ông khách gấp quyển sách lại, lặng lẽ bỏ đi.
Đôi lúc, những con người quê mùa ấy tranh cãi với gã quản lí, và tôi thấy rõ ràng rằng họ giỏi đạo lí hơn gã.
- Thật là giọng lưỡi bọn nhà quê. – Gã quản lí càu nhàu.
Tôi cũng nhận thấy rằng tuy sách mới không được các bần nông thích lắm, họ vẫn kính cẩn nhìn chúng, sờ chúng một cách thận trọng tựa hồ những quyển sách ấy có khả năng bay khỏi tay họ như chim. Tôi rất bằng lòng với sự kính cẩn đó, vì đối với tôi sách là vật kì diệu chứa đựng tâm hồn của người viết. Khi mở sách, ta giải thoát cho tâm hồn ấy và nó bí mật trò chuyện với ta.
Mấy ông bà già thường mang tới hiệu rao bán những bản sách in cổ trước thời Nikon hoặc những bản sao do các bà phước ở Irgiz và Kerjentz chép rất đẹp, bản sao sự tích các thánh chưa bị Dmitry Rostovski sửa chữa, những tượng thánh cổ, thánh giá, thánh tích bằng đồng tráng men được đúc ở vùng biển phương Bắc, các bình bạc mà những ông hoàng ở Moskva tặng cho mấy chủ tiệm rượu. Tất cả những thứ đó được họ bí mật giấu giếm trong áo và nhìn ngó quanh quất rồi mới đưa ra.
Cả gã quản lí của tôi lẫn lão láng giềng đều rình đón những người mang đồ tới bán ấy, ra sức hớt tay trên của nhau. Mua các món đồ cổ đó chỉ mất một vài đến vài chục rúp nhưng bán lại cho những người theo cựu giáo giàu có ở hội chợ có thể lãi hàng trăm rúp.
Gã quản lí dạy tôi:
- Mày phải theo dõi bọn quỷ quái, bọn phù thủy ấy nhé, nhìn cho kĩ vào! Chúng nó mang vận may tới đấy.
Khi có một người đến bán những đồ kể trên, gã quản lí sai tôi đi mời lão già thông thái Pyotr Vassilich, một tay thông thạo sách vở, am hiểu tượng thánh và đồ cổ.
Lão cao lêu nghêu, có bộ râu dài như râu của Vassili Hạnh Phúc, cặp mắt thông minh dễ gây cảm tình. Một bàn chân của lão bị chặt đứt nên lão đi khập khiễng, tay chống một cây gậy dài. Mùa đông lẫn mùa hè lão đều mặc độc chiếc áo dài mỏng nhẹ, trông như áo thầy tu, đội chiếc mũ nhung hình thù kì quái hệt như một cái xoong. Người lão còn dồi dào khí lực, lưng còn thẳng, nhưng khi bước vào hiệu, lão liền xuôi vai, còng lưng, khe khẽ rên rỉ, luôn lấy hai ngón tay làm dấu thánh giá và luôn miệng lầm rầm cầu nguyện, đọc kinh. Sự mộ đạo đó cùng vẻ già yếu của lão dễ khiến những người mang đồ tới bán tin tưởng.
- Có việc gì đấy? – Lão già hỏi.
- A, có bác này mang tượng tới bán, bác ta bảo là của Stroganov.
- Cái gì?
- Của Stroganov.
- À ra thế… Tôi nghe kém quá. Chúa đã ngăn tai tôi nghe những câu ghê tởm của bọn Nikon…
Lão bỏ mũ xuống, để bức tượng nằm ngang, nhìn dọc, nhìn nghiêng, nhìn thẳng các nét vẽ, xem xét cái chốt trên tấm gỗ rồi nheo mắt lại và nói phì phì như mèo:
- Cái bọn Nikon vô đạo, cái lũ quỷ quái biết chúng ta ưa chuộng đồ cổ, chúng bày ra đủ trò giả mạo tinh vi. Chà, bây giờ người ta làm ra những tượng thánh giả mới khéo chứ, khéo lắm! Trông bên ngoài thì hình như đúng là tượng thời Stroganov, Ustiujcki hay Suzdulski. Nhưng nhìn kĩ thì hóa ra là của giả mạo!
Nếu lão nói “của giả mạo” thì có nghĩa là bức tượng vào loại đắt và hiếm. Một số tiếng lóng mách cho gã quản lí biết số tiền cần phải trả để mua bức tượng hay quyển sách. Tôi biết rằng chữ “đáng buồn và đáng giận” có nghĩa là mười rúp, chữ “con hùm Nikon” có nghĩa là hai mươi lăm rúp. Tôi hổ thẹn khi thấy họ lừa dối những người mang đồ tới bán, nhưng cái trò chơi khôn ngoan của lão già thông thái đã lôi cuốn tôi.
- Cái bọn Nikon, lũ con đen đủi của con hùm Nikon ấy có thể làm đủ mọi chuyện. Chúng nó bị quỷ sai khiến mất rồi. Trông nước sơn tưởng như thực, thế nhưng toàn thân thì do một người vẽ, còn khuôn mặt thì cứ nhìn kĩ mà xem, nét bút lại là của người khác. Những thợ vẽ ngày xưa như Semyon Ushakov tuy là kẻ vô đạo nhưng đã vẽ được toàn chân dung từ thân đến đầu, tự tay ông ta bào gỗ quét sơn. Ấy thế mà bây giờ lũ dân vô đạo này không sao làm được như thế! Ngày xưa việc vẽ tượng thánh là một việc thiêng liêng, giờ nó chỉ còn là một nghệ thuật, thế đấy các con ạ!
Cuối cùng, lão thận trọng đặt bức tượng lên quầy hàng rồi đội mũ:
- Thật là tội lỗi!
Câu đó có nghĩa là: Mua được đấy!
Bị ngợp trong những câu ngọt ngào và choáng váng trước kiến thức của lão, người mang đồ tới bán kính cẩn hỏi:
- Dạ thưa cụ, thế bức tượng này thế nào ạ?
- Thế nào à? Đó là tượng thời Nikon.
- Vô lí! Cha ông, cố kỉnh nhà cháu đều thờ tượng thánh này…
- Nikon còn sống trước cả cụ cố nhà bác nữa cơ đấy. – Lão già gí bức tượng vào sát mặt người mang bán rồi nghiêm nghị giảng giải. – Bác thử nhìn xem, khuôn mặt tươi cười như thế này, như vậy mà gọi là tượng thánh à? Đó chỉ là một bức tranh, một lối vẽ vô nghĩa, một trò đùa của bọn Nikon. Bức tranh chẳng có thần thái gì cả! Chẳng lẽ tôi lại nói điêu? Tôi đã già rồi, chỉ biết có sự thật mà thôi. Tôi cũng sắp đến ngày về chầu trời, còn nói dối làm gì cơ chứ!
Lẩy bẩy vì già yếu, lão đi từ cửa hiệu ra sân gác, làm bộ bực mình vì người ta không tin vào sự đánh giá của mình. Gã quản lí trả vài rúp để mua bức tượng. Người bán tượng cúi rạp xuống chào lão Pyotr Vassilich rồi đi ra. Người ta sai tôi đến quán ăn mua nước sôi về pha trà. Khi trở về, tôi đã thấy lão già đầy phấn chấn vui vẻ. Lão thích thú ngắm nghía món hàng mới mua được và dạy gã quản lí:
- Nhìn xem, bức tượng rất trang nghiêm, nét vẽ rất nhã, đầy lòng thành kính Chúa, không có một chút nào phàm tục…
- Ai vẽ thế? – Gã quản lí sung sướng nhún nhảy.
- Anh chưa cần biết cái đó vội.
- Thế bọn sành chơi sẽ trả được bao nhiêu tiền?
- Tôi biết thế nào được! Anh đưa tôi, tôi muốn cho một vài người xem đã…
- Chà, cụ Pyotr Vassilich…
- Nếu bán được, tôi sẽ đưa cho anh năm chục, còn lại bao nhiêu là phần của tôi!
- Chà…
- Chỉ cần anh đừng có la lên như vậy thôi…
Họ uống trà và mặc cả một cách trắng trợn, nhìn nhau với cái nhìn của những tên lừa đảo. Gã quản lí đã hoàn toàn đuối lí trước lão già, điều đó thật rõ ràng. Khi lão già ra về, gã bảo tôi:
- Mày liệu hồn đấy, đừng có nói gì với bà chủ về bức tượng này, nghe chưa!
Quy định xong với nhau về việc bán tượng, gã quản lí hỏi:
- Có tin gì mới trong thành phố không, cụ Pyotr Vassilich?
Lão già đưa bàn tay vàng khè lên vuốt râu, để hở ra cặp môi nhờn mỡ và bắt đầu kể chuyện đời sống của các thương gia giàu có: Chuyện buôn bán phát tài, chuyện ăn chơi hoang phí, chuyện ốm đau, chuyện cưới xin, chuyện phụ tình vợ chồng… Lão thêu dệt các câu chuyện phong phú ấy một cách nhanh chóng và khéo léo như một mụ bếp giỏi nướng bánh, và chen vào giữa những câu chuyện ấy mấy tiếng cười khe khẽ. Bộ mặt tròn trĩnh của gã quản lí xám lại vì thèm thuồng và khâm phục, cặp mắt gã phủ một vẻ mơ màng. Gã vừa thở dài vừa rền rĩ:
- Người ta sống như thế đấy! Vậy mà cháu thì cứ vất vưởng thế này đây…
- Số kiếp mỗi người một khác. – Lão già thông thái nói, giọng trầm trầm. – Người thì được thiên thần dùng búa bạc rèn cho một số phận tốt đẹp, kẻ thì do quỷ sứ lấy đầu rìu đẽo…
Lão già rắn rỏi, quắc thước ấy cái gì cũng biết. Lão biết mọi sinh hoạt trong thành phố, mọi điều bí mật của các thương gia, quan lại, cha cố và tiểu thị dân. Không việc gì lọt qua con mắt ác điểu của lão. Trong người lão hòa trộn nét tính cách của cáo và chó sói. Tôi luôn muốn trêu tức lão, nhưng lão nhìn tôi với vẻ xa lạ tựa như qua một lớp mây mù. Đối với tôi, lão như bị bao bọc trong một khoảng không trống rỗng, nếu đến gần lão thì sẽ lăn tõm vào khoảng không đó mất. Tôi có cảm giác trong người lão có cái gì giống anh thợ đốt lò Shumov.
Tuy gã quản lí khâm phục trí thông minh của lão trước mặt cũng như sau lưng, nhưng cũng như tôi, có những lúc gã muốn trêu chọc, làm ông già tức mình.
- Nhưng bác cũng là một tay lừa đảo! – Gã bỗng nói và nhìn thẳng vào mặt lão với vẻ thách thức.
Lão già uể oải cười nhạt:
- Chỉ có mình Chúa là không lừa đảo thôi. Còn chúng ta sống với những kẻ ngu ngốc, nếu không lừa những thằng ngốc thì chúng còn có tác dụng gì nữa cơ chứ?
Gã quản lí hăng lên:
- Bọn bần nông không phải đều ngu ngơ cả đâu. Ngay bọn thương gia cũng xuất thân từ bần nông mà ra chứ còn từ đâu nữa?
- Chúng ta không nói đến bọn thương gia làm gì! Bọn ngu ngốc không biết lừa đảo. Chúng là những ông thánh, trí óc của chúng không hoạt động…
Lão nói mỗi lúc một uể oải, điều đó dễ làm người nghe nổi cáu. Tôi có cảm giác như lão đứng trên một mỏm đất, còn xung quanh lão toàn đồng lầy. Không thể nào khiến lão tức giận được. Lão không bao giờ nổi cáu, hoặc có thể là lão biết cách tự chủ.
Nhưng cũng có nhiều lúc chính lão khiêu khích tôi. Lão đến sát tôi, nụ cười tủm tỉm lấp ló sau bộ râu:
- Cháu gọi cái anh chàng viết văn người Pháp ấy là gì – Ponoss[114] phải không?
Tôi rất ghét cái lối xỏ xiên xuyên tạc tên người ấy nhưng cũng kịp giữ bình tĩnh:
- Ponson de Terrail.
- Mất[115] ở đâu?
- Ông đừng có vớ vẩn! Ông có phải là trẻ con nữa đâu!
- Đúng, ông có phải là trẻ con nữa đâu. Cháu đọc gì đấy?
- Sách của Ephrem Siren.
- Thế cái anh người Nga ấy với cái anh người Pháp kia ai viết hay hơn?
Tôi nín thinh.
- Người Nga chúng ta hay viết về chuyện gì nhiều nhất? – Lão vẫn gặng hỏi.
- Họ viết về đủ mọi chuyện trên đời.
- Tức là họ viết cả chuyện chó chết[116] nữa à, chuyện ấy cũng có đấy.
Gã quản lí cười rống lên. Tôi tức quá, cảm thấy nặng nề, khó chịu, nhưng nếu tôi tìm cách lảng đi thì gã quản lí liền ngăn:
- Mày đi đâu?
Còn lão già tiếp tục hành hạ tôi:
- Nào, con người có học thức, cháu thử giải câu đố này xem nào: Trước mặt cháu có một ngàn người đứng trần truồng – năm trăm đàn bà, năm trăm đàn ông. Trong số họ có Adam và Eva. Đố cháu làm thế nào để nhận ra được Adam và Eva?
Lão truy hỏi tôi rất lâu và cuối cùng đắc thắng tuyên bố:
- Chú ngốc ơi, Adam và Eva không do ai đẻ ra, mà do Chúa tạo nên, như vậy tức là họ không có rốn!
Lão già biết vô số những loại “câu đố” như trên. Lão có thể làm khổ tôi mãi với những câu đố ấy.
Trong thời gian đầu đứng trông hàng, tôi thường kể cho gã quản lí nghe nội dung một vài quyển truyện mà tôi đã đọc. Bây giờ họ dùng những câu chuyện ấy phản lại tôi; gã quản lí kể lại cho lão Pyotr Vassilich nghe, nhưng cố tình lầm lẫn và xuyên tạc một cách đê tiện.
Lão già khéo léo giúp đỡ hắn bằng cách đặt những câu hỏi nhảm nhí. Miệng lưỡi bẩn thỉu của họ tuôn ra rặt những câu bình phẩm hỗn láo về Eugénie Grandet, Ludmilla, Henry IV.
Tôi hiểu họ làm điều đó chỉ vì vô công rồi nghề chứ không có ác tâm gì, nhưng tôi vẫn không kém phần đau khổ. Sau khi khoắng bùn lên, họ sục sạo trong chỗ bẩn thỉu ấy như những con lợn và rống lên thích thú vì được bôi nhọ, được chế giễu những điều đẹp đẽ nhưng quá xa xôi, khó hiểu và buồn cười đối với họ.
Các thương gia và quản lí của khu buôn bán đều sống một cuộc đời bất thường, đầy trò tiêu khiển ngu xuẩn, trẻ con, nhưng lúc nào cũng độc ác. Nếu có bần nông nào từ xa đến hỏi thăm đường, bao giờ người ta cũng chỉ cho anh ta hướng ngược lại. Chuyện đó quen thuộc đến nỗi bản thân kẻ nói dối cũng chẳng lấy làm thích thú gì với trò đùa của mình. Bắt được một đôi chuột cống, họ buộc đuôi chúng lại, thả ra ngoài đường rồi thích thú đứng xem chúng giằng co và cắn xé nhau. Đôi khi họ tẩm dầu hỏa lên mình chuột rồi thiêu sống chúng. Họ còn lấy một cái xô sắt tây buộc vào đuôi chó; con vật điên cuồng sợ hãi vừa chạy vừa sủa giữa tiếng loảng xoảng, còn họ thì đứng nhìn, cười hô hố.
Những trò tiêu khiển tương tự nhiều vô kể. Tôi có cảm giác như mọi người – nhất là những người dân quê – sống chỉ để làm trò tiêu khiển cho khu buôn bán này. Bọn con buôn luôn muốn đem con người ra giễu cợt, làm anh ta lúng túng, đau đớn. Một điều lạ là các sách mà tôi đã đọc qua đều không nói đến khuynh hướng đốn mạt rất phổ biến ấy.
Có một trò tiêu khiển của khu buôn bán khiến tôi thấy vô cùng bực tức và khó chịu.
Lão chủ một hiệu bán đồ len và giày ủng dạ ở dưới cửa hiệu của chúng tôi có nuôi được một anh quản lí nổi tiếng khắp chợ Nizhny về tính phàm ăn. Lão khoe khoang đặc điểm ấy của người giúp việc như người ta khoe tính hung dữ của chó hoặc sức khỏe của ngựa. Lão hay đòi đánh cược với các nhà buôn bên cạnh:
- Ai dám đặt cược mười rúp nào? Tôi cam đoan thằng Mishka sẽ ăn hết mười funt giăm bông trong hai giờ đấy!
Nhưng mọi người đều biết rằng Mishka có khả năng ăn hết nên họ nói:
- Đánh cược làm gì. Nhưng có thể mua giăm bông về đây để xem nó ăn ra sao thì cũng được đấy!
- Nhưng cần phải mua tuyền thịt nạc, chứ không được có xương đâu nhé!
Họ uể oải tranh cãi một lúc. Và thế là từ căn nhà kho tối om om xuất hiện một thanh niên gầy còm, cằm không râu, gò má to. Anh mặc áo va rơi, quấn thắt lưng vải đỏ lấm tấm, người dính đầy những mẩu len. Trịnh trọng trật mũ khỏi cái đầu bé nhỏ, anh đưa đôi mắt sâu hoắm sững sờ nhìn khuôn mặt tròn, đỏ như gấc và râu ria tua tủa của lão chủ.
- Cậu có chén hết được tảng[117] thịt này không?
- Trong bao lâu ạ? – Anh Mishka nhỏ nhẻ hỏi, vẻ thông thạo.
- Trong hai tiếng đồng hồ.
- Thưa, cũng khó đấy!
- Có gì mà khó!
- Xin cho thêm hai chai bia nữa ạ!
- Được. – Lão chủ nói và khoe khoang. – Các ngài đừng nghĩ rằng hắn đói đâu nhá. Từ sáng hắn đã ngốn hai funt bánh mì, buổi trưa cũng đã ăn như thường lệ…
Người ta mang giăm bông tới. Khán giả quây lại. Tất cả đều là những thương gia béo tốt, quấn chặt trong áo khoác lông nặng nề như những quả tạ khổng lồ. Bụng phình to, mắt ti hí, người nào cũng có những báng mỡ và bứt rứt không yên bởi những nỗi buồn tẻ đang vây bọc họ như một đám mây mù chập chờn.
Tay luồn vào ống tay áo, họ vây thành một vòng tròn chật ních quanh anh quản lí đang cầm con dao và một tảng bánh mì đen to tướng. Anh thành kính làm dấu thánh giá rồi ngồi lên một bao len, đặt tảng giăm bông lên cái thùng bên cạnh và đưa cặp mắt lờ đờ như ước lượng món ăn.
Sau khi cắt một miếng bánh mỏng và một miếng thịt dày, anh cẩn thận chồng chúng lên nhau rồi dùng cả hai tay nâng lên miệng. Môi rung rung, anh thè cái lưỡi dài như lưỡi chó ra liếm môi, để lộ hàm răng nhỏ và nhọn, rồi vục xuống miếng thịt một cách khéo léo.
- Bắt đầu rồi!
- Nhìn đồng hồ đi!
Mọi con mắt nghiêm chỉnh hướng về anh quản lí, vào hàm dưới và những u tròn nổi quanh tai anh. Người ta nhìn vào cái cằm nhọn đang đều đặn nâng lên hạ xuống và uể oải trao đổi:
- Nó ăn cứ như gấu ấy!
- Thế bác đã thấy gấu ăn thế nào chưa?
- Dễ thường tôi sống trong rừng đấy hẳn? Chẳng qua là người ta thường ví: “Ăn như gấu”.
- Người ta hay nói “ăn như lợn” chứ.
- Lợn không ăn thịt lợn đâu…
Họ cười gượng gạo và ngay lúc đó một người hiểu biết trong bọn chữa lại:
- Giống lợn ăn đủ thứ. Nó ăn cả con nó, cả chị em của nó…
Bộ mặt anh quản lí sẫm dần, tai xám ngắt, cặp mắt sâu lồi ra khỏi hốc. Anh thở một cách nặng nhọc, nhưng cằm anh vẫn chuyển động đều đặn.
- Cố lên, Mishka, chú ý đến thời gian đấy! – Người ta khuyến khích anh.
Anh bồn chồn lấy mắt ước lượng khối thịt còn lại, uống bia và lại nhai tóp tép. Người xem nhốn nháo, mỗi lúc càng năng nhìn vào chiếc đồng hồ trong tay lão chủ của Mishka.
Họ dặn nhau:
- Cầm lấy đồng hồ kẻo ông ấy vặn lùi lại đấy!
- Chú ý nhìn Mishka, khéo nó bỏ thịt vào ống tay áo đấy!
- Nó ăn không kịp đâu!
Lão chủ của Mishka nói to, vẻ thách thức:
- Đánh cược hai mươi lăm rúp nào! Mishka, đừng phụ lòng tao nhé!
Mọi người cũng thách thức lão chủ, nhưng không ai nhận đặt cược với lão cả.
Mishka vẫn cứ điềm nhiên nhai không biết mỏi. Mặt anh đã giống chiếc đùi lợn. Cái mũi nhọn sần sùi thở phì phò một cách thiểu não. Trông anh thật khiếp. Tôi có cảm giác anh sẽ khóc òa và rên lên: “Hãy thương tôi một chút…”
Hoặc anh sẽ nhét thịt xuống tận cuống họng rồi đập đầu vào chân khán giả mà chết.
Cuối cùng anh ăn hết sạch, giương tròn cặp mắt say rượu lên và thều thào mệt nhọc:
- Cho xin hụm nước…
Còn lão chủ của anh thì nhìn đồng hồ, càu nhàu:
- Chậm mất bốn phút rồi, thằng đốn mạt…
Mọi người chế giễu lão:
- Tiếc rằng không đánh cược với bác, không thì bác thua rồi còn gì!
- Dầu sao thằng bé cũng khỏe như một con thú ấy!
- Ừ, cho nó đi làm xiếc được đấy…
- Chà, Chúa có thể làm cho con người đến nông nỗi thế ư?
- Thôi, đi uống trà chứ?
Họ lũ lượt kéo nhau vào quán ăn như đám thuyền trôi dạt.
Tôi muốn hiểu điều gì đã tập hợp được những con người nặng nề phục phịch ấy lại xung quanh anh chàng bất hạnh kia, tại sao tính phàm ăn xấu xí của anh lại khiến họ thích thú đến vậy?
Trong dãy hành lang hẹp xếp chật ních len, da cừu, dây gai, dây thừng, ủng dạ, yên cương ngựa… trông thật tối tăm, ảm đạm. Những cột gạch thô kệch, vụng về ngăn cách hành lang với vỉa hè bị thời gian gặm mòn và bụi bẩn của đường phố phủ lên. Mọi hòn gạch, mọi khe hở đã được tôi thầm đếm đi đếm lại hàng ngàn lần và cái mạng lưới nặng nề đầy hình thù quái gở ấy vĩnh viễn khắc ghi trong trí nhớ của tôi.
Khách bộ hành thong thả bước trên vỉa hè. Những chiếc xe ngựa, xe trượt tuyết chở hàng chậm rãi di chuyển trên phố. Phía sau dãy phố, giữa những khối cửa hiệu hai tầng bằng gạch đỏ là quảng trường ngổn ngang thùng hộp, rơm rác, giấy bọc nhàu nát, bị những lớp tuyết bẩn thỉu phủ đầy.
Tất cả những cảnh vật đó, cùng với người và ngựa, tuy di chuyển nhưng trông như không nhích thêm một chút nào, chỉ lười biếng xoay quanh một chỗ. Sự dịch chuyển như bị gắn chặt vào chỗ ấy bằng những sợi dây vô hình. Tôi bỗng cảm thấy cuộc sống đó như thể không có lấy một tiếng vang, nó nghèo nàn âm thanh đến gần như câm lặng. Thanh trượt của xe trượt tuyết kêu ken két, cửa các hiệu đập thình thình, những người bán bánh nướng, chè đường rao hàng, nhưng tiếng của họ vang lên buồn buồn, miễn cưỡng. Mọi âm thanh ấy đều đơn điệu khiến ta nghe chóng quên và không chú ý tới chúng nữa.
Tiếng chuông nhà thờ ảo não như đưa tang. Tiếng ngân ai oán ấy lúc nào cũng như còn vọng mãi trong tai. Dường như từ sáng đến tối nó không ngớt chơi vơi trong khoảng không gian của khu chợ. Nó phân chia mọi ý nghĩ, mọi xúc cảm thành từng lớp và như những lớp cặn đồng nằm chặn trên mọi cảm tưởng.
Sự buồn chán lạnh lẽo tỏa lên từ khắp mọi nơi: Từ mặt đất phủ đầy tuyết bẩn, từ những đống tuyết xám trên mái nhà, từ các viên gạch đỏ bầm của mấy ngôi nhà lớn. Nỗi buồn tỏa ra từ các ống khói trong làn khói xám tràn kín bầu trời ảm đạm, thấp và trống rỗng. Nỗi buồn tỏa ra trong hơi thở của người và ngựa. Nó có mùi vị riêng, một mùi nặng nề phảng phất của mồ hôi, của mỡ, của dầu gai, của bánh nướng và của khói. Mùi vị đó siết chặt đầu ta như một chiếc mũ ấm và chật, nó ùa vào ngực khiến ta choáng váng, gây cho ta mong muốn nhắm tịt mắt, la hét một cách tuyệt vọng rồi bỏ chạy và theo đà mà đâm đầu vào bức tường đầu tiên.
Tôi chăm chú nhìn những gương mặt phì nộn của các thương gia đang bị băng giá giày vò, chúng mọng căng những tia máu ngầy ngậy và bất động như đang ngủ. Họ hay ngáp, miệng há hốc như cá bị quẳng lên bãi cát khô.
Mùa đông, hàng quán thưa khách, trong ánh mắt của các nhà buôn không còn vẻ gian giảo, đề phòng như mùa hè nữa. Áo lông nặng khiến họ cử động khó khăn và kéo người họ khom thêm xuống đất. Các thương gia trò chuyện với vẻ uể oải. Khi nào nổi cáu thì họ tranh cãi ỏm tỏi. Tôi nghĩ rằng họ cố tình làm vậy cốt để tỏ cho nhau biết mình đang còn sống.
Tôi thấy rất rõ nỗi buồn đè nặng lên họ, khiến họ mòn mỏi, đần độn. Chỉ có kinh qua cuộc đấu tranh vô ích với sức mạnh toàn năng của nỗi buồn đó tôi mới tự giải thích được nguyên nhân những trò tiêu khiển ngu xuẩn và tàn nhẫn của họ.
Đôi lúc tôi nói ý nghĩ đó với Pyotr Vassilich. Tuy nói chung lão hay giễu cợt, chế nhạo tôi, nhưng lão thích tính ham mê đọc sách của tôi và nhiều lần lão nói với tôi bằng một vẻ nghiêm trang, dạy dỗ.
- Cháu không thích những nhà buôn sống như vậy. – Tôi nói.
Lão lấy ngón tay dài quấn một mớ râu lại rồi hỏi:
- Làm sao cháu biết được họ sống như thế nào? Hay là cháu thường được đến chơi với họ? Cậu cả ạ, đây là đường phố, mà trên đường phố thì không có ai ở cả. Người ta buôn bán hoặc đi lại trên đó chốc lát rồi lại trở về nhà. Khi đi ra phố, mọi người ăn mặc chỉnh tề, nhưng sau lớp quần áo ấy ai biết được họ như thế nào. Con người ta chỉ sống cởi mở ở nhà, trong bốn bức tường. Họ sống ở đấy như thế nào thì làm sao cháu biết được!
- Nhưng mà ý nghĩ của họ thì dù ở nhà hay ngoài phố cũng đều giống nhau cả?
- Ai biết được người láng giềng của mình có những ý nghĩ gì? – Lão trợn tròn mắt vẻ nghiêm khắc và nói bằng giọng trầm trầm xác đáng. – Các cụ vẫn nói: Ý nghĩ cũng giống như rận, không sao đếm xuể! Có thể khi về nhà người ta sẽ quỳ xuống, kêu khóc và cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa tha cho con những tội lỗi con đã phạm trong ngày tốt lành của Chúa!” Có thể nhà của anh ta là một tu viện và anh ta sống ở đó một mình với Chúa. Có thể như vậy đấy! Mỗi con nhện cần biết xó nhà của mình đã, có chăng lưới thì cũng phải biết liệu trù sức nặng sao cho mình đỡ được…
Khi lão nói nghiêm trang, giọng lão thấp xuống, trầm hơn, như muốn báo những tin bí mật và quan trọng.
- Đấy, cháu hay suy luận, nhưng việc suy luận đối với cháu còn sớm quá. Tuổi cháu chưa phải tuổi sống bằng trí óc, mà bằng con mắt. Nói thế có nghĩa là cháu cứ quan sát và nhớ lấy mọi sự việc, nhưng cứ ngậm miệng đã. Lí trí dùng để làm việc, còn đối với tâm hồn thì cần có lòng tin. Cháu hay đọc sách, đó là điều tốt, nhưng cái gì cũng phải có chừng mực: Có kẻ đọc nhiều quá hóa điên, có kẻ trở thành vô đạo…
Đối với tôi, lão trở nên bất tử. Thật khó hình dung được lão có thể già và thay đổi thêm nữa. Lão thích kể chuyện về các thương gia, về bọn ăn cướp, về những tay làm bạc giả mà trở nên những nhân vật nổi tiếng. Những chuyện ấy tôi đã nghe ông ngoại kể rất nhiều. Ông kể hay hơn lão già thông thái này, nhưng ý nghĩa các câu chuyện tương tự nhau: Sự giàu sang luôn được đạt bằng con đường tội lỗi, cả với người và với Chúa. Pyotr Vassilich không thương hại con người, nhưng lão nhiệt tình nói về Chúa, vừa thở dài, vừa như giấu mắt đi.
- Thế đấy, chúng lừa dối cả Chúa. Còn Chúa thì trông thấy tất cả những điều đó và Chúa than khóc: “Các con ơi, những đứa con đáng thương của ta ơi, địa ngục đang chờ các con đó!”
Một lần tôi cả gan nhắc lão:
- Nhưng chính ông cũng lừa dối các bần nông cơ mà…
Điều đó không mảy may làm lão tức giận.
- Việc của ông làm thì có nghĩa lí gì? – Lão nói. – Chấm mút dăm ba rúp; quanh quẩn chỉ có thế thôi.
Bắt gặp tôi đang đọc sách, lão giằng quyển sách khỏi tay tôi, hoạnh họe tra hỏi tôi về những điều tôi vừa đọc, rồi ngẩn người ra, vẻ phân vân, bảo gã quản lí:
- Trông kìa, thằng lỏi con này nó cũng hiểu sách đấy chứ!
Và lão giảng giải cho tôi một cách rõ ràng, dễ nhớ:
- Cháu nghe đây, những lời ông nói đều sẽ có ích cho cháu. Có hai Kyrill. Cả hai đều là giáo chủ. Người thứ nhất ở Alexandria, còn người thứ hai thì ở Jerusalem. Người thứ nhất nổi dậy chống lại tên vô đạo đáng nguyền rủa Nestorius. Tên này trắng trợn giảng dạy rằng Đức Mẹ là người trần tục, vì thế không sinh ra Chúa được mà chỉ sinh ra một con người bình thường tên là Jesus, tức là Đấng Cứu Thế. Như vậy thì không nên gọi là Đức Mẹ mà gọi là Mẹ Đẻ Ra Jesus thôi, cháu hiểu chưa? Đó là bọn vô đạo! Còn Kyrill ở Jerusalem thì đấu tranh chống lại tên vô đạo Ari…
Tôi rất phục vốn hiểu biết của lão về lịch sử đạo. Còn lão thì đưa bàn tay ẻo lả như tay cố đạo vuốt râu, vẻ khoe khoang:
- Về mặt này thì ông có thể làm vương làm tướng được. Ông đã từng đi dự lễ Ba Ngôi ở Moskva và tranh luận lí lẽ với bọn theo học thuyết Nikon thâm độc, với các cha cố và cả giới thượng lưu nữa. Chú bé ạ, ông cũng đã từng nói chuyện với các giáo sư nữa đấy! Có một cha cố bị ông dồn cho như roi quất vào mặt đến nỗi chảy cả máu mũi, thật đấy!
Má lão ửng đỏ, mắt sáng lên.
Có lẽ lão cho việc đối phương chảy máu mũi là đỉnh thắng lợi, một viên ngọc đỏ rực rỡ nhất giữa vòng hoa vinh quang vàng chói nên lão thường kể chuyện ấy với giọng say sưa:
- Ông cố đạo ấy người to lớn và đẹp ra phết! Ông ta đứng trước giá kinh giữa giáo đường, còn máu ở mũi thì cứ… tí, tách, tí, tách! Mà ông ta cũng không biết đến cái điều nhục nhã ấy nữa. Ông ta hung dữ lắm, cứ như con sư tử giữa sa mạc vậy. Giọng ông ta sang sảng như chuông! Còn ông thì cứ nhẹ nhàng nói, nói câu nào trúng tim câu ấy, những câu của ông cứ như những ngọn giáo chích vào sườn ông ta… Ông ta thì cứ như một cái lò lửa bừng bừng mấy tư tưởng hằn thù của lũ phản đạo… Chà, chuyện đời còn là lắm thứ!…
Hay đến cửa hiệu còn có vài lão già thông thái khác: Lão Pakhomi bụng to, mắt chột, người béo phị, hay làu bàu trong họng như lợn kêu và lúc nào cũng mặc độc cái áo khoác ngoài nhờn mỡ; lão Lukian nhỏ bé, nhẵn nhụi như con chuột nhắt, tính dịu dàng, hoạt bát. Đi với lão là một người to lớn điệu bộ rầu rĩ, vẻ là người đánh xe ngựa. Người này râu đen, khuôn mặt đờ đẫn, cặp mắt bất động trông đẹp nhưng thật đáng ghét.
Hầu như lần nào tới họ cũng mang đến bán sách, tượng thánh, lư hương và cốc chén cổ. Đôi lần họ dẫn khách bán – mấy ông già bà cả ở bên kia sông Volga. Xong việc mua bán, họ ngồi bên cạnh quầy hàng như lũ quạ đậu trên bờ ruộng, uống trà với bánh mì vòng và đường rồi kể cho nhau nghe mấy vụ bắt bớ do phe đạo Nikon gây ra: Chỗ này người ta khám xét và tịch thu sách kinh, chỗ kia cảnh sát đóng cửa thánh đường và kiện cáo các chủ nhân trước tòa theo Điều luật 103[118]. Điều luật 103 thường xuyên là đề tài trong các cuộc trò chuyện của họ, nhưng họ nói về chuyện ấy với vẻ bình thản như nói về một lẽ tất nhiên, như kiểu mùa đông người ta thường nói về giá buốt vậy.
Những chữ “cảnh sát”, “khám xét”, “nhà tù”, “tòa án”, “Siberia” là những chữ được nhắc tới luôn trong các câu chuyện về việc truy nã những kẻ theo cựu giáo. Những chữ đó thấm vào hồn tôi như những hòn than hồng, nung nấu thiện cảm và lòng thông cảm với mấy ông già đó. Các sách mà tôi đã đọc đều dạy tôi biết kính trọng những người kiên trì để đạt được mục đích, biết quý trọng tinh thần kiên định của họ.
Tôi quên tất cả những điều xấu xa mà tôi đã thấy ở các ông thầy dạy tôi về cuộc đời ấy. Tôi chỉ cảm thấy sự kiên trì bình tĩnh của họ, và phía sau sự kiên trì đó như còn ẩn giấu một niềm tin không gì lay chuyển nổi vào chân lí, thái độ sẵn sàng chịu đựng mọi cực hình vì chân lí của họ.
Sau này, khi được thấy nhiều kẻ bảo vệ cựu giáo tương tự trong dân chúng cũng như tầng lớp trí thức, tôi hiểu rằng sự kiên trì đó là tính thụ động của những kẻ không còn chỗ nào khác để đi. Chính họ cũng không muốn đi đâu vì bị ràng buộc chặt chẽ trong khuôn khổ của những chữ cổ, của những khái niệm đã lỗi thời: Họ trở nên đần độn bởi những chữ và khái niệm ấy. Ý chí của họ bị đóng đinh, không có khả năng phát triển để hướng về tương lai, và khi có đòn tấn công nào từ ngoại cảnh hất họ ra khỏi vị trí quen thuộc, họ lăn lông lốc như một hòn đá từ trên núi xuống. Họ cố bảo vệ cái nghĩa trang của những chân lí lỗi thời bằng thứ sức mạnh đã tàn tạ của những kí ức quá vãng và bằng một tình yêu yếu đuối với sự đau khổ áp bức; nếu bị tước mất khả năng đau khổ thì họ sẽ trở nên trống rỗng và biến mất như những đám mây trong một ngày gió mát.
Lòng tin mà vì nó họ sẵn sàng chịu khổ sở với vẻ hào hứng và hỉ xả lớn lao quả là một lòng tin vững vàng, nhưng nó giống bộ quần áo đã sờn cũ được phủ lớp nhờn bẩn và nhờ thế mà ít bị thời gian hủy hoại. Tư tưởng và tình cảm, một khi đã quen với cái vỏ nặng nề, chật hẹp của những thành kiến, giáo điều, thì cho dù có gãy cánh và mòn mỏi, chúng vẫn sống một cách thoải mái, ung dung.
Lòng tin theo thói quen ấy là một trong những hiện tượng đáng buồn và có hại hơn cả trong cuộc sống của chúng ta. Ở trong phạm vi của lòng tin đó tựa như trong bóng râm của một bức tường đá, những cái mới phát triển một cách chậm chạp, méo mó và lớn lên cằn cỗi. Lòng tin u ám ấy thiếu ánh sáng của tình yêu, chỉ mang nặng những điều nhục mạ, tính độc ác ganh tị cùng lòng căm ghét. Ngọn lửa của lòng tin ấy là những ánh lân tinh ở những nơi thối nát.
Nhưng để hiểu rõ điều đó, tôi còn phải sống qua nhiều năm cay cực, phải khắc phục nhiều điểm yếu trong tâm hồn, phải gạt bỏ nhiều điều ra khỏi trí nhớ. Tuy nhiên, lúc này, khi lần đầu tiên gặp các ông thầy của cuộc sống trong một thực tại tẻ nhạt và bất lương, tôi cho họ là những người có sức mạnh tinh thần to lớn, là những người giỏi nhất trên đời. Hầu hết bọn họ đều can án, bị ngồi tù, bị trục xuất khỏi các thành phố, và cùng với các tù nhân khác, bị giải đi khắp nơi. Họ sống một cách e dè, lẩn tránh mọi người.
Tuy nhiên, tôi chú ý thấy trong khi than phiền về “sự áp bức tinh thần” của phái Nikon, chính mấy ông già này cũng rất sẵn sàng “áp bức” nhau và thậm chí có phần hào hứng với chuyện đó.
Lão già chột Pakhomi khi uống rượu say thường khoe trí nhớ kì dị của mình. Lão thuộc làu làu vài quyển sách như học trò trường đạo Do Thái thuộc Talmud[119]. Lão chỉ tay vào bất kì trang nào và bắt đầu đọc làu những câu tiếp theo kể từ chữ ngón tay lão chỉ với một giọng mũi dịu dàng. Lúc nào lão cũng nhìn xuống sàn. Con mắt độc nhất của lão lo lắng lướt trên mặt sàn như đang tìm kiếm vật gì quý giá. Lão hay giở trò ảo thuật ấy với quyển Dàn nho Nga của bá tước Muishetzki. Đặc biệt lão rất nhớ những “nỗi đau khổ đầy nhẫn nại và đầy dũng cảm của những kẻ đau khổ gan dạ và kì diệu”. Còn lão Pyotr Vassilich thì cố tìm mọi cách bắt lỗi Pakhomi.
- Nói láo! Chuyện đó không xảy ra với Cyprian Chí Cao, mà là với Denis Chí Thánh.
- Denis nào nữa? Dionysius nói rằng…
- Ông không nên bám lấy lời nói!
- Ông đừng có dạy tôi!
Một lúc sau cả hai đều bừng bừng nổi giận, nhìn thẳng vào mặt nhau:
- Đồ phàm ăn tục uống, cái mặt thì trơ trơ ra thế kia, cái bụng thì tọng đẫy…
Pakhomi trả lời như đếm trên bàn tính:
- Đồ hiếu sắc, đồ con dê, đồ nịnh đầm…
Gã quản lí luồn tay vào ống tay áo, mỉm cười vẻ thâm độc và khích lệ những nhà bảo vệ nền cựu giáo như xúi bẩy lũ trẻ con:
- Đúng đấy! Cho ông ấy một trận! Thế!
Có lần mấy ông già đánh nhau. Lão Pyotr Vassilich nhanh như cắt tát vào mặt đối thủ khiến ông kia phải bỏ chạy, rồi mệt nhọc chùi mồ hôi trên mặt, lão kêu với theo:
- Liệu thần hồn. Tội lỗi là ở ông cả đấy! Đồ quỷ quái, làm cho tay của người ta phải phạm giới rồi. Phì…
Lão đặc biệt thích chê bai bạn bè mình rằng họ còn thiếu lòng tin vững chắc và đều rơi vào cái thuyết “phủ định” mất rồi.
- Đó đều là do lão Aleksasha làm các ông lung tung cả lên. Thật là cứ như con gà trống gáy.
“Thuyết phủ định” làm lão bực tức và hình như còn làm lão sợ. Nhưng khi hỏi đến nội dung của học thuyết đó, lão trả lời lơ mơ:
- Bọn theo học thuyết phủ định là bọn vô đạo cay cú nhất, chúng chỉ tin vào lí trí thôi, chẳng tin trời đất gì cả! Như bọn Cossack ấy, ngoài Kinh thánh chúng chẳng tôn trọng gì nữa. Mà Kinh thánh là của bọn Đức ngụ ở Saratov, do Luther[120] viết ra chứ còn ai! Người ta đã nói về Luther như sau: “Cái tên của hắn nghe tưởng tao nhã, nhưng thực ra Luther từ chữ lutui, có nghĩa là hung dữ mà ra!” Tất cả đều tại bọn vô đạo phương Tây.
Lão giậm cái chân tàn tật, nói một cách lạnh nhạt, nghiêm trang:
- Đấy, chính ra phải đuổi cổ bọn tà đạo ấy, phải tiêu diệt và thiêu chết bọn chúng nó, chứ không phải chúng ta! Gốc gác chúng ta là người Nga. Đạo của chúng ta là đạo chính thống, đạo phương Đông, đạo gốc của người Nga. Những trò kia đều là của phương Tây, đều toàn chuyện bịa đặt xuyên tạc cả! Bọn Đức, bọn Pháp có mang lại cái gì tốt đẹp đâu? Đấy, chúng nó hồi năm một ngàn tám trăm mười hai…
Trong lúc cao hứng, lão quên rằng trước mặt lão chỉ là một đứa trẻ: Lão túm lấy thắt lưng tôi bằng bàn tay rắn chắc rồi lúc kéo lại gần, lúc đẩy ra xa. Lão xúc động thao thao một cách nồng nhiệt, như trẻ hẳn lại.
- Trí khôn của con người mò mẫm trong những điều bịa đặt rắc rối. Giống như con chó sói hung dữ lạc lõng nghe lời quỷ sứ mà hành hạ linh hồn con người – linh hồn cao đẹp vốn được trời phú. Cái lũ tôi tớ của quỷ ấy đã bịa đặt ra những gì? Bọn Bogumili[121] cũng giống như bọn phủ định, chúng dạy người ta rằng quỷ Satan cũng là con trời, là anh cả của Chúa Jesus, đấy, chúng nó tệ đến thế thì thôi! Chúng còn dụ người ta cãi lời người trên, bỏ công ăn việc làm, bỏ vợ bỏ con. Con người không cần gì, không phải theo tôn ti trật tự nào cả. Cứ để cho con người sống theo ý mình, quỷ bảo sao tao làm vậy. Đấy, cái lão Aleksasha lại xuất hiện, ôi, cái lũ sâu bọ này…
Có lần, giữa lúc ông lão say sưa nói, gã quản lí sai tôi đi làm việc khác. Tôi rời đi, còn lại một mình ngoài hành lang, lão vẫn tiếp tục trò chuyện với khoảng không trước mặt:
- Ôi, cái lũ tầm thường, cái bọn mèo mù từ khi mới đẻ, ta bỏ các người để đi đâu đây?
Rồi lão chống tay vào đầu gối, ngửa đầu ra và lặng thinh hồi lâu, mắt chăm chú nhìn chòng chọc vào bầu trời đông xám ngắt.
Lão chú ý hơn đến tôi và đối xử dịu dàng hẳn. Thấy tôi đọc sách, lão vỗ vai tôi:
- Cứ đọc đi chú bé ạ, cứ đọc đi, cái đó sẽ có lợi cho cháu. Hình như cháu cũng có trí khôn đấy. Chỉ tiếc là cháu không chịu kính trọng người lớn, đối với ai cũng bốp chát, thẳng thừng. Cháu nghĩ xem, cái tính tinh nghịch đó sẽ dẫn cháu tới đâu? Chú bé ạ, cái tính đó chẳng có ích gì, chỉ tổ dẫn cháu vào vòng tù tội. Đọc sách thì cứ đọc, nhưng sách vở là một chuyện, biết suy nghĩ theo ý mình lại là một chuyện khác. Đấy, có một tay trưởng giáo thuộc giáo phái Khlyst[122] tên là Danilo. Lão ta cho rằng các loại sách cả cũ lẫn mới đều không cần thiết. Lão tịch thu sách thành một đống rồi đem quăng hết xuống sông. Thật đấy… Tất nhiên, đó cũng là trò ngu xuẩn mà thôi! Đấy, cái lão Aleksasha, cái đầu óc chó má ấy đang đi khuấy động…
Càng ngày lão già càng hay nhắc đến cái ông Aleksasha đó, cho đến một hôm nọ, lão đến hiệu với vẻ lo âu, cáu kỉnh. Lão bảo gã quản lí:
- Lão Aleksasha Vassiliev hiện đang ở đây, trong thành phố này. Lão đến từ hôm qua. Tôi tìm lão mãi mà vẫn chẳng thấy đâu. Lão trốn biệt! Ngồi chờ đấy một lát xem lão có ghé qua không…
Gã quản lí đáp lại với vẻ thiếu thiện ý:
- Tôi không biết chuyện gì và cũng không biết ai đâu!
Lão già gật đầu:
- Thế cũng phải. Đối với anh thì ai cũng là kẻ mua hoặc người bán, chứ còn loại người nào khác đâu? Thôi mang trà ra đây mời khách chứ…
Khi tôi mang ấm nước sôi to bằng đồng tới thì trong cửa hiệu đã có thêm khách: Lão già Lukian tươi cười vui vẻ và một khách lạ ngồi trong góc tối phía sau cửa. Ông ta mặc áo bành tô, đi ủng dạ, thắt lưng bằng vải xanh. Ông đội mũ chụp tới lông mày, trông thật vụng về. Mặt ông không có gì đặc biệt: Ông có vẻ hiền lành, khiêm tốn, trông giống một viên quản lí vừa bị đuổi việc và đang đau khổ.
Lão Pyotr Vassiliep không nhìn người lạ mặt; lão nói gì đó với vẻ quả quyết, nghiêm khắc. Còn ông khách lạ cứ lẩy bẩy đẩy mũ bằng tay phải, cánh tay đưa lên như định làm dấu thánh, nhưng cuối cùng chỉ đẩy mũ, cái mũ mỗi lúc một cao, ngược lên tận đỉnh đầu, rồi lại bị kéo úp chặt xuống đôi lông mày một cách vụng về. Dáng điệu lẩy bẩy như động kinh ấy khiến tôi nhớ đến lão già ngốc nghếch Igosa “Thần Chết trong túi”[123].
- Đủ loại cá chuối bơi trong khúc sông đục này của chúng ta, chúng chỉ tổ làm nước đục thêm. – Lão Pyotr Vassiliep nói.
Người trông giống viên quản lí bình thản hỏi nhỏ:
- Anh nói về tôi đấy à?
- Ừ thì cứ cho là nói về anh đi…
Người đó bèn hỏi tiếp, giọng nhỏ nhưng rất chân thành:
- Thế thì anh sẽ nói về bản thân mình như thế nào, anh bạn?
- Về bản thân thì tôi chỉ nói với Chúa thôi. Đó là việc của tôi.
- Không anh bạn ạ, đó cũng là việc của tôi nữa. – Người lạ mặt nói, giọng trịnh trọng và rắn rỏi. – Đừng có lảng tránh sự thật, cũng đừng tự tiện làm mê muội bản thân, đó là một tội rất lớn đối với Chúa và với mọi người!
Tôi thích người đàn ông đó khi thấy ông gọi lão Pyotr Vassiliep là “anh bạn”. Giọng nhỏ nhẻ, trịnh trọng của ông khiến tôi cảm động. Cách nói chuyện của ông giống cách cha cố đọc kinh “Lạy Chúa, chủ sinh mệnh của con”; người ông mỗi lúc một nghiêng về phía trước, ông tụt khỏi ghế và vung tay ra.
- Đừng có buộc tội tôi, tội của tôi cũng không nhơ bẩn hơn anh đâu.
- Lại phun ra như ấm nước sôi rồi. – Lão già thông thái thốt lên, vẻ miệt thị.
Ông khách vẫn tiếp tục nói, không chú ý tới lời của lão:
- Chỉ Chúa mới biết ai là kẻ khuấy đục nguồn nước thánh thiêng liêng. Có thể đó là lỗi của các anh, những con người chỉ chăm chăm biết đến sách vở, còn tôi thì không phải loại người giấy tờ sách vở, tôi chỉ là một con người bình thường sinh động…
- Tôi đã được biết cái bình thường của anh, đã nghe đồn về nó khá nhiều rồi.
- Chính các anh đã dẫn mọi người lầm đường lạc lối, các anh bẻ quặt những tư tưởng chính đáng, các anh là bọn mọt sách, bọn đạo đức giả… Tôi nói như thế đó, anh thử trả lời đi!
- Đồ vô đạo! – Lão Pyotr Vassiliep nói.
Người lạ mặt giơ bàn tay ra trước mặt như để đọc điều gì viết trong lòng bàn tay rồi hăng hái nói:
- Anh tưởng rằng chăn dắt con người từ chuồng này sang chuồng khác có thể giúp họ sung sướng hơn hay sao? Tôi nói rằng: Không! Tôi nói rằng: Phải giải thoát con người khỏi tất cả ràng buộc, anh bạn ạ! Nhà cửa, vợ con, của cải của anh đối với Chúa có nghĩa lí gì đâu? Anh bạn ạ, phải thoát khỏi tất cả những gì khiến người ta đâm chém, cắn xé lẫn nhau, khỏi mọi bạc vàng của cải, đó đều là những thứ thối rữa, những thứ đê mạt! Cứu vớt linh hồn con người không phải ở trên mặt đất trần tục này mà ở trên những thung lũng thiên đường kia! Phải từ bỏ tất cả, tôi nói như vậy đấy, hãy cắt đứt hết mọi dây nhợ liên quan, hãy phá hủy mọi màng lưới trên cõi đời này đi. Những đầu mối đó đều phản lại Chúa… Tôi đi trên con đường thẳng, không hề quanh co ngoắt ngoéo, không hề tiếp nhận những cái mờ ám…
- Thế anh có tiếp nhận bánh mì, nước uống, quần áo không? Đó đều là những đồ trần tục cả đấy thôi! – Lão già nói vẻ cay nghiệt.
Nhưng những lời nói đó không làm Aleksasha sờn lòng, ông tiếp tục nói, giọng mỗi lúc một chân thành. Tuy giọng ông không to nhưng có cảm giác ông đang thổi một cái kèn đồng.
- Anh bạn ạ, điều gì thân thiết với anh? Chỉ có Chúa thôi. Hãy đứng trước Người với một tâm hồn trong sạch không màng điều gì khác, hãy dứt bỏ mọi xiềng xích trần tục trong lòng, và lúc ấy Chúa sẽ thấy: Chỉ có mình anh trước Chúa, có thế anh mới gần Chúa được. Đó là con đường duy nhất để đến với Người! Muốn được giải thoát thì phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mọi thứ kể cả con mắt, nếu mắt anh cám dỗ anh thì hãy móc vứt nó đi! Vì Chúa, anh hãy tiêu hủy mọi thứ, chỉ giữ lại linh hồn. Linh hồn anh sẽ đời đời sáng chói…
- Có lũ chó mới nghe được anh. – Lão Pyotr Vassiliep đứng dậy. – Tôi cứ tưởng rằng từ năm ngoái đến nay anh đã khôn ra, ai ngờ mỗi ngày anh lại đổ đốn thêm…
Lão lắc lư rời khỏi cửa hiệu. Điều đó khiến Aleksasha lo lắng. Ông ta vội hỏi:
- Anh đi đấy à? Sao… lại thế?
Nhưng lão già Lukian hiền lành nháy mắt an ủi ông và lên tiếng:
- Không sao đâu… Không sao đâu…
Ông Aleksasha liền chồm sang lão:
- Còn ông nữa. Một người trần tục vất vả ngược xuôi như ông mà cũng gieo rắc những lời vô bổ ấy à, liệu có mang lại lợi ích gì không? Nào những “Lạy Chúa tôi”, nào những…
Lão Lukian tủm tỉm rồi cũng chuồn ra sân. Còn mình ông khách lạ, ông quay sang gã quản lí, nói với giọng tự tin:
- Bọn họ không sao chịu được tính tôi. Thế là lại bỏ đi như mặt trăng mặt trời…[124]
Gã quản lí lườm ông, lạnh nhạt:
- Tôi không biết đến chuyện ấy.
Người lạ mặt dường như xấu hổ, ông ta đẩy mũ lên, lẩm bẩm:
- Sao lại có thể không biết được? Đó là những vấn đề… đòi hỏi phải đi sâu…
Ông ta ngồi cúi đầu, lặng yên một lúc; sau đó các lão già gọi ông và cả ba người, không chào hỏi ai, kéo nhau ra khỏi hiệu.
Con người đó xuất hiện trước mắt tôi như một ngọn lửa bừng sáng trong đêm tối: Nó cháy rực rồi tắt ngóm, tôi cảm nhận được một sự thật nào đó trong thái độ phủ nhận cuộc sống của ông ta.
Buổi chiều, chờ dịp thuận tiện, tôi say sưa kể lại cho bác Ivan Larionovich, một bác thợ cả tính hiền lành và dịu dàng của xưởng làm tượng thánh.