← Quay lại trang sách

Chương 13

Xưởng làm tượng thánh choán hai phòng của một ngôi nhà to, tầng hầm xây bằng đá. Một phòng có ba cửa sổ trông ra sân và hai cửa sổ trông ra vườn. Còn phòng kia có một cửa sổ trông ra vườn và một cửa sổ trông ra phố. Các ô cửa sổ đều bé nhỏ, vuông vắn. Mấy tấm kính cửa sổ vì cũ quá nên nổi vân, miễn cưỡng để lọt vào xưởng một làn ánh sáng mờ mờ, tản mạn những ngày đông.

Cả hai phòng đều chật ních những bàn là bàn. Sau mỗi bàn có một hoặc hai người thợ vẽ tượng ngồi khom khom. Những quả cầu thủy tinh đầy nước treo trên trần, tập trung ánh đèn lại rồi tỏa luồng ánh sáng trắng lạnh xuống những bức tượng gỗ vuông.

Trong xưởng nóng và ngột ngạt. Khoảng hai chục thợ vẽ tượng Chúa ở Palekh, Kholia, Mstir[127] ngồi làm việc. Họ mặc sơ mi vải màu, cổ hở, quần lót chéo go, chân đi đất hoặc những đôi giày rách nát. Một màng khói xám khét mùi thuốc lá rẻ tiền bay trên đầu đám thợ. Căn phòng sực mùi dầu gai, mùi sơn, mùi trứng ung. Một khúc hát buồn buồn của vùng Vladimir thong thả ngân lên như một dòng nhựa chảy:

Thời nay phong hóa suy đồi,

Gái trai tình tự lả lơi giữa đường.

Người ta còn hát nhiều bài không lấy gì làm vui khác; nhưng bài này được hát nhiều hơn cả. Âm điệu ngân nga của bài ca không ngăn cản người ta suy nghĩ cũng như đưa chiếc bút lông chồn nhỏ nhắn trên các bức tượng, tô những nếp áo, thêm những nếp nhăn đau khổ rất nhỏ trên khuôn mặt xương xẩu của các vị thánh. Lão thợ chạm Golovev, một lão già nát rượu có cái mũi xanh to tướng ngồi gõ búa dưới cửa sổ. Tiếng búa khô khan xen đều đều với điệu hát uể oải như tiếng mọt gặm gỗ.

Nghề vẽ tượng thánh này chẳng lôi cuốn được ai. Không biết kẻ thông thái ác độc nào đã xé vụn công việc thành ra một tràng động tác dài, vừa thiếu vẻ đẹp vừa chẳng khêu gợi được chút yêu thích, hứng thứ nào với công việc. Bác thợ mộc lác mắt Panfin, một người độc ác và thâm hiểm, mang tới cho họ những tấm ván trắc bá, ván bồ đề dán đã bào nhẵn đủ các cỡ. Anh thợ lao phổi Davidov phủ sơn lót nền, bạn của anh là anh Sorokin tô thêm màu. Anh Milyashin dùng bút chì vẽ theo bản mẫu. Lão Golovev thếp vàng và khắc hình. Những thợ “phong cảnh” vẽ phong cảnh và quần áo. Sau đó tượng được xếp cạnh tường, không đầu, không tay, chờ “thợ mặt”.

Thật khó chịu khi trông thấy những bức tượng lớn dùng để trang trí bàn thờ và cửa giáo đường xếp cạnh tường, chưa có mặt mũi chân tay, chỉ rặt những nếp viền hoặc binh giáp, áo ngắn của thiên sứ. Từ những tấm gỗ vẽ sặc sỡ đó tỏa ra một cảm giác chết chóc, không gì có thể khiến chúng sinh động lên. Vẻ sinh động dường như từng hiện hữu và đã biến mất một cách kì diệu, chỉ để lại những nét viền nặng nề.

Khi “thợ mặt” đã vẽ xong “thánh thể”, tượng được chuyển đến một anh thợ chuyên “đánh bóng” các hình chạm; chữ cũng do một người chuyên trách, còn tô sơn thì chính tay trưởng xưởng là bác Ivan Larionovich, một người tính tình điềm đạm làm.

Bác có khuôn mặt xam xám, chòm râu mảnh như tơ cũng màu xám; cặp mắt sáng sâu thẳm lạ lùng và đượm vẻ buồn rầu ảo não. Bác cười rất tươi, nhưng không ai cười lại với bác vì họ thấy lúng túng thế nào ấy. Bác giống như tượng thánh Simon Stolpnik – người cũng gầy còm, hốc hác và đôi mắt bất động cũng nhìn xuyên qua mọi người và các bức tường về phía xa xăm một cách lơ đãng.

Tôi tới xưởng được vài ngày thì anh thợ vẽ phướn người Cossack vùng sông Đông tên là Kapendiukhin, một gã đẹp trai, lực lưỡng, say bí tỉ đi vào xưởng. Anh nghiến chặt răng, nheo cặp mắt hiền hậu như mắt đàn bà, chẳng nói chẳng rằng đánh tất cả mọi người bằng những cú thụi nặng như sắt. Người tầm thước, cân đối, anh lồng lộn trong xưởng như con mèo giữa hầm rượu đầy chuột. Mọi người cuống quýt nấp vào các góc nhà và quát nhau:

- Đánh đi!

Anh thợ chuyên vẽ mặt là Evgen Sitanov đã kịp dùng ghế đẩu nện vào đầu tên điên cuồng hung hăng ấy. Anh chàng Cossack ngồi thụp xuống sàn. Người ta lập tức vật ngửa anh ra và dùng khăn mặt trói lại. Anh cắn xé khăn như một con thú dữ. Thấy vậy, anh Sitanov nổi xung, nhảy lên bàn, co tay định nhảy xuống người anh chàng Cossack. Người cao lớn, gân guốc, có lẽ anh giậm vỡ ngực anh Kapendiukhin mất, nhưng vừa lúc đó bác Larionovich đội mũ, mặc áo khoác xuất hiện bên cạnh anh. Bác giơ ngón tay dọa anh Sitanov và bảo những người thợ, giọng bình tĩnh và dứt khoát:

- Mang hắn ra ngoài hành lang cho hắn tỉnh lại đã…

Người ta lôi anh Cossack ra khỏi xưởng, sắp xếp lại bàn ghế và lại ngồi làm việc. Họ trao đổi với nhau những nhận xét vắn tắt về sức lực của Kapendiukhin, đoán trước rằng sẽ có ngày anh ta bị đánh chết trong khi gây gổ.

- Khó đánh hắn chết lắm. – Anh Sitanov nói, giọng rất thản nhiên như nói về một chuyện mình biết rất tường tận.

Tôi nhìn bác Larionovich và thắc mắc: Tại sao những con người lực lưỡng, dữ tợn này lại phục tùng bác dễ dàng như vậy?

Bác thường chỉ dẫn mọi người cách làm việc, đến cả những thợ giỏi nhất cũng vui vẻ nghe theo lời khuyên của bác. Bác chỉ bảo Kapendiukhin nhiều hơn và cặn kẽ hơn những người khác.

- Kapendiukhin, chú tự cho mình là họa sĩ thì chú phải vẽ cho sinh động, theo phong cách của Ý. Nghệ thuật vẽ sơn dầu đòi hỏi sự hòa hợp ở các màu ấm, thế mà chỗ này chú lại cho quá nhiều màu trắng, khiến mắt Đức Mẹ lạnh nhạt, thiếu hẳn thần sắc. Má thì hồng như quả táo, nhưng mắt thì lại trái hẳn với má. Mà vẽ cũng không đúng nữa, một mắt nhìn vào chóp mũi, một mắt hếch lên thái dương, thành ra không phải là một khuôn mặt thần thánh nữa mà là một khuôn mặt trần tục, láu lỉnh. Chú không chịu suy nghĩ gì đến công việc của mình cả, chú Kapendiukhin ạ.

Anh Cossack vừa nghe vừa nhăn mặt. Sau đó anh cười một cách trơ trẽn với cặp mắt đàn bà và nói, giọng rất dễ thương, hơi khàn khàn vì rượu:

- Chà, bố Ivan Larionovich ơi, nghề này có hợp với con đâu! Con sinh ra để làm nhạc sĩ, thế mà lại phải làm anh thầy tu thế này!

- Có công mài sắt, có ngày nên kim…[128]

- Không đâu, con là người như thế nào mới được chứ? Con chỉ cần là một gã đánh xe với ba con ngựa thôi, chà…

Rồi gân cổ lên, anh ngân nga với vẻ tuyệt vọng:

A ha, ta thắng vào xe,

Ba con ngựa hồng thiên lí,

Phóng nhanh trong đêm giá băng,

Thẳng tới nhà em yêu quý!

Ivan Larionovich cười một cách dễ dãi, sửa lại kính trên cái mũi xám thiểu não rồi bỏ đi. Hàng chục giọng đồng thanh cất lên, ngân theo bài hát, hòa thành một dòng chảy hùng mạnh như muốn nâng bổng cả xưởng lên không và nhịp nhàng đung đưa:

Theo lối quen, ngựa đã biết,

Nhà nàng ở nơi nao…

Pashka[129] Odintzov, thợ học việc, cũng ngừng đập trứng, mỗi tay cầm một mảnh vỏ, miệng hát bè đệm với giọng cao vút hay tuyệt.

Say sưa với âm thanh, mọi người quên tất cả, như thở chung một lồng ngực, sống chung một tình cảm và đều liếc nhìn anh Cossack. Khi anh hát, cả xưởng xem anh như thủ lĩnh. Mọi người hướng về anh, theo dõi nhịp tay phóng khoáng của anh. Anh dang cánh tay như muốn bay bổng. Tôi tin chắc rằng nếu đột nhiên anh ngừng hát và quát lên: “Đập phá tất cả đi!” thì mọi người, kể cả những người thợ đứng đắn nhất, đều có thể đập phá tan tành cả xưởng chỉ trong giây phút.

Kapendiukhin không hay hát, nhưng sức mạnh của những bài hát sôi nổi bao giờ cũng quyến rũ và lấn át tất cả. Dù mọi người đang ở trạng thái nặng nề đến thế nào anh cũng kích thích được họ và làm cho họ phấn khởi hẳn, trở nên hào hứng và trở thành một sức mạnh ào ạt giữa bao nhiêu tình cảm nồng cháy đang tan hòa với nhau.

Những bài hát đó gợi lên trong lòng tôi cảm giác háo hức ganh tị với người hát, với cái quyền lực to lớn của anh trước mọi người. Một điều gì cảm động, bồi hồi lan vào tim tôi, làm tim giãn nở đến nhức nhối. Tôi muốn khóc, muốn kêu to với đám người đang hát:

“Tôi yêu các người lắm!”

Anh Davidov lao phổi, da vàng vọt, người lởm chởm những lông cùng lá, há miệng giống hệt như một con quạ đen nhỏ vừa mới phá vỏ trứng chui ra.

Chỉ khi nào anh Cossack cất giọng, mọi người mới hát những bài hát vui vẻ, hùng tráng. Còn không, họ ngân nga những bài buồn buồn “Thời nay phong hóa suy đồi”, “Trong khu rừng nho nhỏ” hoặc về cái chết của vua Aleksasha đệ nhất – “Aleksasha của chúng ta duyệt binh”.

Đôi khi, theo đề nghị của bác Jikharev, thợ vẽ mặt giỏi nhất xưởng, mọi người cũng thử hát thánh ca, nhưng ít khi hát được đạt. Bác Jikharev lúc nào cũng đòi hỏi mọi người phải theo một kiểu đặc biệt mà chỉ mình bác hát được và cản trở mọi người hát.

Bác Jikharev trạc bốn mươi lăm tuổi, gầy gò, đầu hói, có một vành tóc đen quăn như tóc dân Tzigane[130], cặp lông mày đen to như ria mép. Chòm râu rậm tỉa nhọn tô điểm thêm cho khuôn mặt thanh tú, ngăm ngăm đen không giống người Nga. Bộ ria cứng nhô ra dưới cái mũi gãy đâm ra thừa dưới cặp lông mày. Đôi mắt xanh của bác không đều: Mắt trái to hơn mắt phải một cách rõ rệt.

- Pashka! – Bác quát thằng bạn học việc của tôi bằng giọng nam cao. – Nào, mày bắt đầu đi: “Hãy ngợi ca!” Các bạn, chú ý nhé!

Pashka chùi tay vào tạp dề, cất tiếng hát:

- “Hãy ngợi… ca…a…”

- “… da…anh Chúa…”

Một vài giọng cất lên hòa theo nhưng bác Jikharev hốt hoảng kêu:

- Evgen, hát thấp xuống! Phải hạ giọng xuống tận đáy lòng…

Anh Sitanov bỗng rống lên ồm ồm như người gõ thùng:

- “Hỡi bầ…ầy tôi của Chúa…”

- Không phải thế! Chỗ này phải bắt vào như thế nào để cho đất đai rung chuyển, để cho tất cả các cửa ra vào, các cửa sổ phải mở toang ra!

Bác Jikharev toàn thân nhún nhảy trong một trạng thái khích động khó hiểu. Cặp lông mày kì diệu của bác rướn lên, nhíu xuống trên trán. Giọng bác lạc đi, những ngón tay của bác như đang gảy một chiếc đàn gusli[131] vô hình…

- “Lũ bầy tôi của Chúa”, hiểu chưa? – Bác nói, giọng bao hàm nhiều ý nghĩa. – Phải hiểu điều đó, không chỉ qua vẻ ngoài mà tận trong tâm can. “Lũ bầ…ầy tôi, hãy ngợi ca Chúa!” Có thế mà các cậu không hiểu sao?

- Bác đã thấy đấy, không bao giờ chúng ta hát nổi đâu. – Anh Sitanov lễ phép.

- Ừ, thì thôi vậy!

Bác Jikharev giận dỗi, tiếp tục làm việc. Bác là một thợ giỏi, có thể vẽ được các kiểu mặt theo phong cách Byzantine, Pháp, Ý… Khi nhận những đơn đặt tượng cho bàn thờ, bác Larionovich đều hỏi ý kiến bác Jikharev vì bác này rất sành tượng cổ. Mọi phiên bản đắt tiền của các tượng thánh Đức Mẹ Peodorov, Kazan Màu Nhiệm và các tượng khác đều qua bàn tay bác cả. Nhưng vừa loay hoay với những nguyên bản, bác vừa làu bàu ầm lên:

- Những nguyên bản này bó tay ta quá! Phải nói thẳng là: Chúng trói tay mình lại!

Tuy giữ vai trò quan trọng trong xưởng, bác ít kiêu căng hơn những người khác. Đối với học trò – tôi và Pavel – bác rất âu yếm. Bác muốn dạy nghề cho chúng tôi, điều mà ngoài bác không ai nghĩ tới.

Bác là người khó hiểu. Nói chung thì tính bác không vui, đôi khi bác làm việc lặng lẽ hàng tuần như người câm. Bác nhìn mọi người với vẻ ngạc nhiên và xa lạ như lần đầu tiên gặp họ. Và tuy bác rất thích hát, trong những ngày đó bác không hát, thậm chí gần như bác không nghe thấy tiếng hát nữa. Mọi người vừa nháy nhau nhìn về phía bác vừa chú ý theo dõi bác. Bác gò lưng nhìn bức tượng đặt nghiêng trên đầu gối, phần giữa bức tượng tựa vào thành bàn. Cây bút lông nhỏ của bác nắn nót tô vẽ khuôn mặt mờ tối xa lạ, cũng xa lạ mờ tối như chính bản thân bác.

Bỗng nhiên bác thốt lên, giọng rành rọt, bực tức:

- “Tiền nhân” là cái gì? Tiếng cổ thì “tiền” có nghĩa là “trước”. “Tiền nhân” là “người lớp trước”, có phải thế không?…

Không khí trong xưởng bỗng lắng hẳn. Mọi người tủm tỉm cười, liếc nhìn bác Jikharev. Trong không gian vẫn vẳng lên những câu nói kì lạ:

- Phải vẽ ông ta có cánh chứ không phải là mặc áo da cừu…

- Bác nói với ai đấy? – Người ta hỏi bác.

Bác lặng thinh vì không nghe thấy câu hỏi hoặc vì không muốn trả lời. Rồi những lời của bác lại rơi tõm vào khoảng không lặng lẽ:

- Cần phải biết sự tích các thánh, nhưng ai biết những sự tích ấy? Chúng ta biết được những gì? Chúng ta sống thật quá tầm thường… Còn đâu là tâm hồn? Tâm hồn ở đâu rồi? Nguyên bản thì có đấy, nhưng trái tim thì không…

Những suy nghĩ nói lên thành tiếng đó khiến mọi người, trừ anh Sitanov, mỉm cười vẻ giễu cợt; gần như lúc nào cũng có người nào đó đắc ý thầm thì:

- Thứ Bảy này lại rượu rồi…

Anh Sitanov, một thanh niên khoảng hai mươi hai tuổi, cao lêu nghêu, gân guốc, có khuôn mặt tròn trĩnh, mày râu nhẵn nhụi, đăm đăm nhìn vào góc nhà với một vẻ nghiêm trang buồn bã.

Tôi còn nhớ sau khi sao xong hình Đức Mẹ Peodorov để đem đến Kungur thì phải, bác Jikharev đặt bức tượng lên bàn và nói to, giọng cảm động:

- Thế là xong tượng Đức Mẹ! Mẹ như một chiếc cốc, một chiếc cốc không đáy, trong đó những giọt nước tâm tình cay đắng của loài người bây giờ sẽ nhỏ vào…

Rồi quàng lên vai áo khoác của ai đó, bác đến quán rượu. Đám thanh niên huýt sáo, cười ầm ĩ. Mấy người đứng tuổi thở dài tị nạnh nhìn theo bác. Còn anh Sitanov thì đến cạnh bức tượng, nhìn chăm chú và nói:

- Tất nhiên là bác ấy sẽ uống đến chết thôi vì phải nộp công trình này thì thật là đáng tiếc. Lòng tiếc rẻ ấy dễ mấy người có được…

Những trận say túy lúy của bác Jikharev thường bắt đầu vào những ngày thứ Bảy. Phải nói thêm rằng bác không phải kẻ nát rượu. Lần nào cũng như lần nào: Buổi sáng bác viết một mẩu giấy và sai Pavel mang đi, rồi tới trước bữa ăn trưa, bác nói với bác Larionovich:

- Hôm nay tôi đến nhà tắm đây.

- Có lâu không?

- Còn nhờ Chúa…

- Thôi được, nhưng không được muộn quá thứ Ba đấy!

Bác Jikharev gật gật cái sọ nhẵn nhụi ra chiều đồng ý; cặp lông mày của bác rung rung.

Ở nhà tắm về, bác đóng bộ, áo sơ mi hồ cứng, buộc khăn chéo vào cổ, đính một dây bạc dài trên cái áo ghi lê xa tanh rồi lặng lẽ bỏ đi sau khi bảo tôi và Pavel:

- Chiều này dọn xưởng cho sạch sẽ nhé. Cái bàn lớn kì cọ và rửa ráy cẩn thận vào!

Mọi người đều có vẻ hớn hở như trong ngày hội. Họ chỉnh tề hơn thường khi, quần áo chải chuốt, tắm táp và ăn bữa chiều rất nhanh. Bác Jikharev đến sau bữa ăn chiều với những gói đồ nhắm, rượu vang và bia. Theo sau bác là một người đàn bà tầm vóc cao lớn khủng khiếp. Mụ cao chừng hai mét[132]. Tất cả ghế tựa, ghế đẩu của chúng tôi với mụ đều chỉ nhỏ như món đồ chơi, cho đến cả anh Sitanov cao lêu nghêu cũng chỉ là hạng nhóc khi đứng bên mụ. Người mụ rất cân đối nhưng ngực mụ như quả đồi nhô lên phía cằm. Mụ cử động chậm chạp, vụng về. Mụ trạc ngoài bốn mươi tuổi, khuôn mặt trơ trơ và tròn trĩnh, cặp mắt to tươi mịn như mắt ngựa, cái miệng nhỏ như được vẽ trên mặt một con búp bê rẻ tiền. Mụ mỉm cười yểu điệu, chìa bàn tay to lớn và ấm áp cho mọi người và nói những câu chẳng đâu vào đâu:

- Chào anh. Hôm nay lạnh lắm. Nhà các anh khó thở quá. Đó là mùi sơn đấy mà. Chào anh.

Trông cái vẻ lực lưỡng và điềm đạm như một dòng sông tràn trề nước của mụ thì cũng thấy hay hay, nhưng nghe mụ nói thì chán đến phát buồn ngủ; những câu chuyện của mụ đều vô vị và dễ làm người ta ngán. Trước khi thốt lên một tiếng, mụ làm ra vẻ trịnh trọng, đôi má đỏ tía của mụ căng phồng.

Đám thanh niên cười khẩy, rỉ tai nhau:

- Thật là một cái đầu tàu hỏa[133] nhé!

- Cứ như cái gác chuông ấy!

Mụ chúm môi, tay khoanh dưới ngực, ngồi vào cái bàn đã bày sẵn thức ăn, bên cạnh cái ấm samovar rồi lần lượt nhìn mọi người bằng cặp mắt ngựa hiền lành.

Mọi người đối xử với mụ vẻ kính cẩn, đám thanh niên có phần hơi sợ mụ là khác; một chàng thèm thuồng nhìn cái thân hình to lớn của mụ, nhưng khi cặp mắt anh ta bắt gặp ánh nhìn ôm ấp mơn trớn của mụ, anh ngượng nghịu nhìn xuống. Bác Jikharev cũng kính nể bà khách, gọi mụ bằng kính ngữ, là “kuma”[134]. Khi mời mụ ăn, bác cúi thấp đầu.

- Ông cứ yên tâm. – Mụ ngọt ngào nói, giọng kéo dài. – Ông cứ phải lo lắng làm gì thế, thật đấy!

Chính bản thân mụ cũng chậm chạp, cánh tay mụ chỉ cử động từ khuỷu đến bàn tay, khuỷu tay khép chặt vào sườn. Người mụ tỏa ra mùi men nồng nồng của bánh mì nóng.

Lão Golovev lắp bắp vì khoái trá, ca ngợi sắc đẹp của người đàn bà, trông lão hệt như thầy phụ lễ đọc kinh. Mụ vừa nghe vừa tủm tỉm, vẻ hiền hậu. Gặp lúc lão nói câu nọ xọ câu kia, mụ bèn kể về mình:

- Cái hồi còn con gái, chúng tôi cũng không đẹp đâu. Đó là nhờ cái cuộc đời phụ nữ mà chúng tôi mỗi ngày một khá thêm. Khoảng năm ba mươi tuổi, chúng tôi đã nổi tiếng đến nỗi nhiều nhà quý tộc phải chú ý tới. Có một ông quan huyện đã hứa hẹn một cỗ xe song mã…

Kapendiukhin say ngật ngưỡng, đầu tóc rối bù, nhìn mụ vẻ căm thù và thô bạo:

- Vì cái gì mà hứa hẹn?

- Tất nhiên là vì tình yêu. – Bà khách giải thích.

- Tình yêu. – Kapendiukhin bối rối làu bàu. – Tình yêu gì ở đấy?

- Anh bảnh trai thế kia thì còn lạ gì tình yêu. – Người đàn bà thản nhiên.

Cả xưởng rung chuyển trong tiếng cười ầm ĩ, còn anh Sitanov thì càu nhàu với Kapendiukhin:

- Mụ ngốc, không hơn không kém! Ai mà chẳng thấy chỉ khi nào chán chường quá quắt lắm người ta mới có thể yêu được mụ…

Rượu vang khiến mặt anh trắng nhợt, mồ hôi chảy lấm tấm trên thái dương như những hạt trai, cặp mắt thông minh như bồi hồi bốc lửa. Còn ông lão Golovev thì vừa đung đưa cái mũi xấu xí vừa lau nước mắt:

- Chị được mấy cháu rồi?

- Dạ, chúng tôi được một cháu…

Một ngọn đèn treo trên bàn; sau góc lò sưởi là một cây đèn khác. Chúng tỏa sáng một cách yếu ớt; những bóng đen tụ lại ở các góc xưởng – nơi có những hình thù cụt đầu, vẽ dở dang. Trên những đốm xám phẳng phiu ở chỗ lẽ ra phải có tay và đầu như phảng phất điều gì ghê rơn, khủng khiếp hơn mọi ngày. Dường như thân hình các thánh bỗng tan mất một cách kì ảo sau đám quần áo sơn vẽ và biến khỏi căn hầm. Những quả cầu thủy tinh được rút lên sát trần nhà và treo trên móc. Chúng nằm giữa đám khói dày đặc như mây phủ, óng ánh một màu xanh biếc.

Bác Jikharev lăng xăng đi lại quanh bàn, mời mọc mọi người. Cái sọ nhẵn nhụi của bác lúc nghiêng xuống người này, lúc cúi xuống người khác, mấy ngón tay thon nhỏ luôn như đang gảy đàn. Bác gầy hẳn, cái mũi hung dữ như nhọn thêm. Khi bác đứng nghiêng về phía đèn, trên má bác hiện lên bóng đen sì của cái mũi.

- Các bạn, ăn uống đi chứ. – Bác nói, giọng nam cao ngân nga như tiếng chuông.

Còn bà khách thì thánh thót, giọng đảm đang:

- Có gì mà phải lo, ông dượng? Ai chả có tay, muốn ăn gì thì tùy thích. Hơn nữa, có muốn ăn bây giờ cũng không ăn được.

- Hãy nghỉ đã, các bạn ơi! – Bác Jikharev kêu lên, vẻ khích động. – Các bạn thân mến của tôi, tất cả chúng ta đều là bầy tôi của Chúa, vậy ta hãy cùng hát bài “Hãy ngợi ca danh Chúa” nhé.

Bài hát không thành: Mọi người đều chuếnh choáng say vì rượu và đồ nhắm. Kapendiukhin cầm cây đàn phong cầm có hai dãy nút bấm trên tay. Anh Viktor Salautin, một người thợ trẻ, đứng đắn và đen đủi như một chú quạ con, lấy cái trống cơm và rê ngón tay trên lớp da căng. Mặt trong rền lên một âm thanh bùng bục, những cái chuông leng keng inh ỏi.

- Chơi một bài Nga. – Bác Jikharev ra lệnh. – Kumuska, xin mời bà chị!

- A. – Mụ đàn bà đứng dậy, thở dài. – Sao ông cứ phải bận tâm thế!

Mụ bước ra chỗ trống và đứng ở đấy, vững vàng như một cái tháp. Mụ mặc váy nâu rộng, áo cộc vàng bằng vải mịn, đầu trùm khăn đỏ chói.

Tiếng đàn phong cầm dồn dập ngân vang, chuông kêu leng keng. Mặt trống phát ra một âm thanh nặng nề như tiếng thở dài khàn khàn thật khó chịu: Dường như có một người điên đang kêu la, nức nở và đập trán vào tường.

Bác Jikharev không biết nhảy. Bác chỉ chạy lon ton, giậm giậm gót đôi ủng đã được lau chùi bóng loáng, nhảy lên như con dê mà vẫn không sao đúng nhịp với điệu nhạc khích động. Chân bác như chân gỗ chắp vào, người bác uốn éo một cách xấu xí, bác lồng lộn như con ong bò vẽ vướng mạng nhện hay con cá sa lưới, trông chẳng vui vẻ tí nào. Nhưng mọi người, cho đến cả những người say bí tỉ, đều chăm chú nhìn “cơn động kinh” của bác: Họ lặng lẽ theo dõi tay và mặt bác. Biểu cảm của bác tuyệt diệu, lúc dịu dàng, ngượng nghịu, lúc bỗng trở nên kiêu hãnh và cau mày lại một cách nghiêm khắc. Có lúc bác như kinh ngạc vì điều gì đấy, kêu lên, nhắm mắt lại trong giây phút, rồi khi mở mắt ra khuôn mặt bác trở nên buồn rầu, ảo não. Tay nắm lại thành củ thụi, bác rón rén đến gần người đàn bà rồi bỗng giậm chân một cái và quỳ xuống trước mụ. Tay bác dang rộng, lông mày giương lên, bác mỉm cười hiền hậu. Mụ nhìn bác từ trên xuống dưới với một nụ cười hảo tâm và bình tĩnh:

- Ông dượng ơi, ông sẽ mệt đấy!

Mụ cố lim dim mắt một cách duyên dáng, nhưng cặp mắt to bằng đồng xu[135] của mụ không khép lại được, khuôn mặt nhăn nhó của mụ nom thật khó coi.

Mụ cũng không biết nhảy, chỉ lúc lắc tấm thân đồ sộ một cách chậm chạp và lặng lẽ xê dịch tấm thân đó từ chỗ này sang chỗ khác. Tay trái mụ cầm khăn, uể oải phe phẩy. Tay phải mụ chống vào sườn. Tư thế đó khiến mụ giống như một chiếc bình khổng lồ có quai.

Còn bác Jikharev thì cứ vừa đi lại xung quanh pho tượng đá đó vừa thay đổi biểu cảm. Như thể không phải một người mà là hàng chục người luân phiên khiêu vũ: Người này thì dịu dàng, ngoan ngoãn; người kia thì cáu kỉnh, dọa nạt; người thứ ba thì như sợ hãi điều gì, vừa la khe khẽ vừa muốn lén chuồn khỏi người đàn bà to lớn, khó chịu này. Và kia, một người nữa, răng nhe ra và lưng khom run rẩy như một con chó bị thương. Điệu nhảy xấu xí tẻ ngắt đó khiến tôi chán ngán; nó đánh thức những kí ức không lấy gì làm tốt đẹp về những người lính, những mụ bếp và đám thợ giặt, mấy chuyện bù khú tồi tệ.

Những lời nói nho nhỏ của anh Sidorov lại vang lên trong óc tôi.

“Trong việc này mọi người lừa dối nhau tuốt. Đó là việc mà ai cũng thấy hổ thẹn. Có người nào yêu người nào đâu, chẳng qua chỉ là trò đùa đấy thôi…”

Tôi không muốn tin rằng “trong việc này mọi người lừa dối nhau tuốt”, nếu như vậy thì Nữ hoàng Margot sẽ thế nào? Và tất nhiên, bác Jikharev cũng không lừa dối. Tôi biết anh Sitanov đã yêu một cô gái “giang hồ”: Cô này truyền cho anh một căn bệnh thật ô nhục, nhưng anh không vì điều ấy mà đánh đập cô ta, anh thuê nhà cho cô, chữa chạy cho cô và luôn nói về cô bằng giọng dịu dàng, lúng túng.

Người đàn bà to lớn vẫn lắc lư, cười một cách nhạt nhẽo, tay vẫy vẫy khăn. Bác Jikharev vẫn nhảy nhót run rẩy xung quanh mụ. Tôi nhìn và nghĩ bụng, lẽ nào bà Eva lừa dối cả Chúa Trời mà lại trông giống như con ngựa này chăng? Và tôi ghét mụ cay đắng. Các bức tượng thánh cụt đầu dựng bên những bức tường tối om nhìn ra. Bóng đêm nép sát vào các tấm kính. Đèn cháy lù mù trong khoảng không ngột ngạt của gian xưởng. Nếu chú ý lắng nghe thì sẽ thấy giữa tiếng giậm chân nặng nề và tiếng nói ồn ào có tiếng nước nhỏ mau từ chậu rửa mặt bằng đồng xuống thùng nước rác.

Tất cả những cảnh tượng trên chẳng giống cuộc sống mà tôi đọc trong các sách chút nào. Hoàn toàn chẳng giống một chút nào cả. Cuối cũng mọi người cũng đều cảm thấy chán. Kapendiukhin vứt phong cầm vào tay Salautin và quát:

- Chơi đi! Nhanh lên!

Anh nhảy giống anh Vanka Tsiganok[136], người như bay trong không khí. Sau đó đến Pavel Odintzov và anh Sorokin nhảy rất hăng, rất khéo. Anh Davidov lao phổi cũng rê chân trên sàn, ho húng hắng vì bụi, khói, mùi rượu mạnh, mùi xúc xích, mùi da thuộc thường trực.

Họ nhảy, họ hát, họ la hét, nhưng ai cũng nhớ rằng mình đang vui chơi. Tựa hồ họ thi nhau, một cuộc thi tài khéo léo và dẻo dai.

Anh Sitanov say chuếnh choáng, hỏi hết người này đến người khác:

- Có thể nào yêu được người đàn bà như thế kia, hả?

Có lẽ anh sắp khóc òa lên.

Bác Larionovich nhô xương vai nhọn lên trả lời anh:

- Đàn bà nào chả là đàn bà, mày muốn gì cơ chứ?

Những người được nói đến dần dần biến đi đâu mất. Khoảng hai, ba ngày sau bác Jikharev mới trở về xưởng. Bác đến nhà tắm, sau đó hàng nửa tháng bác lại lặng lẽ ngồi làm việc trong góc, vẻ quan trọng, xa lạ với mọi người.

- Họ đi rồi à? – Anh Sitanov tự hỏi, đưa cặp mắt xám xanh buồn bã xem xét khu xưởng.

Khuôn mặt anh không đẹp, trông hơi già, nhưng cặp mắt của anh thì trong sáng và hiền hậu.

Anh Sitanov đối xử với tôi rất thân thiết. Cũng là nhờ quyển vở dày chép những bài thơ của tôi. Anh không tin Chúa, nhưng kể cũng khó mà biết được rằng trong xưởng này ai là người tin yêu Chúa, trừ bác Larionovich ra. Mọi người đều nói về Chúa với một vẻ hời hợt, giễu cợt như khi nói về bà chủ. Tuy vậy, lúc ngồi ăn trưa và ăn chiều, mọi người đều làm dấu, khi đi ngủ họ cầu nguyện, ngày lễ họ vẫn tới nhà thờ.

Anh Sitanov không làm gì trong số những điều kể trên, nên người ta cho anh là vô đạo.

- Chẳng có Chúa đâu. – Anh nói.

- Thế thì mọi vật do đâu mà có?

- Tôi không biết…

Khi tôi hỏi anh tại sao lại không có Chúa, anh giảng giải:

- Thế này nhé: Chúa thì cao siêu như thế này! – Anh giơ cánh tay dài lêu nghêu lên trên đầu, sau đó hạ thấp tay xuống cách mặt sàn chừng một arshin, rồi tiếp. – Còn con người thì thấp hèn như thế này này! Có đúng không? Thế mà lại nói rằng “con người được tạo nên theo hình dáng giống Chúa” như mày biết đấy! Thế lão Golovev thì giống cái gì nào?

Lí lẽ đó của anh đã thuyết phục được tôi: Lão Golovev bẩn thỉu và nát rượu, tuy đã già mà vẫn còn hám của lạ. Tôi lại nhớ đến anh lính người vùng Viatka, gã Ermokhin, bà dì Matryona, họ có nét gì giống Chúa?

- Con người đều loại chó lợn cả, điều đó đã rõ rồi. – Anh Sitanov nói như vậy, nhưng lập tức lại an ủi tôi. – Chẳng sao, Maksimovich ạ, còn có nhiều người tốt nữa chứ!

Nói chuyện với anh thật thoải mái, giản đơn. Khi không biết điều gì, anh thành thật:

- Tao không biết, không hề nghĩ đến chuyện ấy bao giờ!

Đó cũng là điều khác thường, vì trước khi gặp anh, tôi thấy toàn những người cái gì cũng biết, chuyện gì cũng nói được.

Tôi lấy làm lạ khi thấy trong quyển vở của anh, bên cạnh những bài thơ hay, xúc động lòng người, có nhiều bài thơ bẩn thỉu khiến đọc lên phải xấu hổ lây. Khi tôi nói với anh về Puskin, anh chỉ vào bài Gavrialad mà anh đã chép vào vở…

- Puskin thì có nghĩa lí gì? Ông ta chỉ là một người thích bông đùa thôi, chứ còn Benediktov[137] này mới thật đáng chú ý, Maksimovich ạ!

Rồi anh nhắm mắt lại, khẽ đọc:

Hãy ngắm nhìn cô em xinh đẹp,

Bộ ngực mê hồn gợi đắm say…

Và không hiểu tại sao, anh đặc biệt nhấn mạnh ba câu sau, đọc lên với vẻ vui sướng kiêu hãnh:

Nhưng đến cả đại bàng cũng chịu,

Không nhìn qua được cửa thâm nghiêm,

Để mà xem cùng tận trái tim…

- Có hiểu không?

Tôi rất lúng túng thú nhận rằng mình không sao hiểu được điều đã làm anh vui sướng như vậy.

Chú thích:

127) Tên những làng thuộc vùng Ivanov, nổi tiếng vì có nhiều thợ vẽ tượng thánh giỏi. Hiện nay những họa sĩ ở các làng trên cũng nổi tiếng ở nước Nga về phong cách vẽ dân tộc.

128) Nguyên văn: Có cố gắng thì việc gì cũng làm được.

129) Tức Pavel, cách gọi thân mật.

130) Một tộc người du mục.

131) Một loại đàn dây cổ.

132) Nguyên văn: Mụ cao chừng hai arshin cộng thêm với mười hai vershok (1 arshin = 0,71 m, 1 vershok = 4,4 cm).

133) Nguyên văn: Cái máy.

134) Mẹ đỡ đầu cho con mình.

135) Nguyên văn: Đồng ba kopek.

136) Xem chương II, chương III Thời thơ ấu của Gorky.

137) Nhà thơ Nga vào những năm ba mươi của thế kỉ XIX. Những tác phẩm của Benediktov bị nhà phê bình Belinsky phê phán là vô vị, tầm thường.