Chương 2 PHONG VÂN SƠ KÍ
Sau ba ngày tôi trở về cố hương của mình - thị trấn Trình Cương.
Tình yêu cuồng nhiệt và Cách mạng đã bắt đầu một cách vang dội như mưa bão vậy. Ái tình và hủ hóa, giai cấp và tình thân, hận thù và tranh đấu, lí học và Trình gia, pháp luật và Cách mạng, Cách mạng và sản xuất, trung thành và ngu muội, đàn ông và đàn bà, dương vật và bầu vú, xinh đẹp và thô lậu, thức ăn và đói khát, cha và con, con và mẹ; đàn ông và vợ, bí thư chi bộ và thư kí, xiềng tay và dây thừng, rơm rạ và vàng, những thứ này; xét đến cùng đều là thuốc trừ sâu. Bốn biển sôi trào mây nước cuộn, năm châu chấn động chớp ngang trời [8] , tôi rất muốn đem hết chúng quật ngã xuống đất, lại dùng chân dẫm lên, làm cho chúng vĩnh viễn không thể vùng lên được, và còn muốn đái lên đầu chúng.
Nếu như các bạn cho tôi sống để rời khỏi nơi này, việc đầu tiên tôi về đến trấn Trình Cương, chính là móc dương vật ra đái lên đầu những thứ đó, đái lên cái đầu lâu Cách mạng của trấn Trình Cương.
Đầu tiên, tôi phải nói về dãy núi Bả Lâu và thị trấn Trình Cương với lịch sử lâu đời và hào quang chói lọi. Dãy núi Bả Lâu là một nhánh núi trong hệ thống núi Phục Ngưu, phía đông bắt đầu từ gò Trình Gia, phía tây đến núi Bạch Quả, quanh co khúc khuỷu tám mươi dặm, phần nhiều là núi thấp và gò đồi. Độ cao so với mặt biển ở khoảng giữa 250 đến 400 mét, đất đai có đất dốc, đất ruộng bậc thang, đất cao nguyên, đất bằng, tổng cộng 3.4 vạn mẫu. Trong đó đỉnh Lục Hồn, thời Xuân Thu là đất quân sự Lục Hồn, thời Hán thuộc về huyện Lục Hồn, dưới sự cai trị của Hoằng Nông Quân, trong huyện chí còn ghi rất rõ ràng. Đương nhiên, dãy núi Bả Lâu nổi tiếng nhất vẫn không phải là đỉnh Lục Hồn, mà là thị trấn cách quả núi một con suối - trấn Trình Cương.
Trấn Trình Cương vốn gọi là thôn Trình; nhưng không phải là một cái thôn tùy tiện này nọ, hiện nay gọi là trấn Trình Cương, cũng không phải là thị trấn nhỏ đầu thừa đuôi thẹo trong dãy núi Bả Lâu. Thời Tống nó là nhà cũ của "Trình nhị phu tử" Trình Hạo, Trình Di. Nhân Tông thời Nguyên, để tưởng niệm tổ tiên thánh nhân, người ta đã cho xây một ngôi từ miếu ở thôn Trình, qua 6 năm Minh Cảnh Thái, ngôi miếu này kẻ tu người bổ cũng vì giai cấp phong kiến mà thêm gạch thêm ngói, ngôi miếu trở thành đại viện tam tiết: Tiền Tiết có Linh Tinh môn, Thừa Kính môn, Xuân Phong đình, Lập Tuyết các; Trung Tiết có Đạo Học Đường đại điện và hai cánh nhà "Hòa phong cam vũ", "Liệt nhật thu sương"; Hậu tiết thì có Khởi Hiền Đường đại điện, hai cánh đối diện với bốn tòa giảng đường. Tam tiết đại viện này, chiếm 10 mẫu, rường cột trạm trổ, rồng bay phượng múa, bia đá như rừng, tùng bách ngút trời, là tài liệu sống của chủ nghĩa phong kiến.
Năm Thiên Thuận thời Minh, chiếu phong thôn Trình là "Lưỡng Trình cố lí" (quê nhà của hai vị Trình Hạo, Trình Di - N.d), ngoài phía đông thôn một dặm, cho xây một chiếc cổng đá [9] , ở trên khắc hai chữ "Thánh chỉ", ở dưới khắc bốn chữ "Nhị Trình cố lí". Bởi vì cái nét chữ chết tiệt của đích thân thánh thượng đó, giữa đường phải đứng thẳng, người đi ra tất phải như vậy người đi vào cũng tất phải vậy quan văn đi qua cổng phải xuống kiệu, quan võ đi qua phải xuống ngựa, do đó thôn Trình này danh tiếng ngút trời, dường như là Thiên An Môn của dãy núi Bả Lâu Dự Tây. Gò đất vàng ở phía sau thôn Trình là đầu mút phía đông dãy núi Bả Lâu, do đó gò này được dính hời mà gọi là gò Trình Gia, sau này người thôn Trình sinh sôi nảy nở, hòa với người ở trên gò, lúc thôn cải thành thị trấn, hai thôn hợp lại thành một thôn, cho nên trở thành trấn gò Trình, hay còn gọi là trấn Trình Cương.
Tám mươi chín phần trăm người trấn Trình Cương đều là họ Trình, đều là con cháu của Trình Hạo, Trình Di, những người họ Cao như chúng tôi ở đó đều như những hộ biệt lập, có thể sống một nhân vật như tôi, những năm đó có thể đánh dẹp một vùng trời đất, huy hoàng oanh liệt, ở trấn Trình Cương này là có một không hai, vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Trình gia. Điều này tất cả đều phải cảm ơn cuộc Đại Cách mạng tràn đầy ánh sáng đó. Những người bị áp bức bóc lột chỉ có nhờ Cách mạng mới có thể giải thoát, không có Cách mạng thì chỉ có thể sống trong đêm đen. Con đường phía trước đầy gian khó, mà hôm nay ta bước bước đầu tiên [10] . Các bạn đừng ngắt lời tôi, tôi sẽ không đem chủ đề từ núi Đông kéo sang núi Tây đâu.
Bởi vì lãnh đạo phòng vũ trang nhân dân huyện đến phân khu họp không ở nhà, làm cho tôi vì giải quyết thủ tục xuất ngũ mà phải lưu lại huyện thành ba ngày chẵn. Ba ngày đó mắt tôi nhìn thấy Đại Cách mạng ở huyện thành bừng bừng khí thế. Cảm thấy sóng cồn Cách mạng giống như sức của thiên binh vạn mã, cuộn trào dữ dội ở mọi nơi trong cả nước, lao nhanh về phía trước.
Tôi ở huyện thành đứng ngồi không yên.
Cách mạng và tình yêu của trấn Trình Cương đã chờ tôi rất lâu rồi. Sau khi làm xong thủ tục xuất ngũ, tôi lập tức trở lại trấn Trình Cương. Lúc đi xuyên qua dưới cổng đá "Lưỡng Trình cố lí" sau khi trải qua 79 dặm xe bus đường dài, máu nóng trong người tôi sục sôi lên, lòng bàn tay ứa mồ hôi, sự kích động trong lòng giống như thứ ái tình cuồng bạo kì diệu không tên của ba ngày trước ngồi bên đường ray xe lửa ở ngoại thành. Tôi nghĩ việc đầu tiên khi tôi về đến nhà chính là đập vỡ cái cổng đá "Lưỡng Trình cố lí". Cái đền thờ cũ mà vương triều phong kiến lập nên sau mấy trăm năm người dân Trình Cương gặp lúc ma chay và cưới hỏi, lúc qua đường vẫn phải xuống xe, ngừng trống nhạc, đến các xe khách đường dài lúc đi qua cổng đá cũng phải tuýt còi ba lần, để biểu thị lòng tôn trọng và kính ngưỡng hai cha con họ Trình. Tôi không ngờ Cách mạng đã cuộn tung đất đai, ngũ hồ tứ hải của Trung Quốc mà người tài xế xe khách từ Cửu Đô đến vẫn còn ở dưới cổng đá tuýt còi cái còi lễ nghi chết tiệt đó. Tôi không nói gì với người lái xe; trên xe ngồi chật đủ mọi loại người. Tôi biết chỉ cần đập vỡ cái cổng đá đó thì tất cả sẽ kết thúc, tấm màn lớn của Cách mạng sẽ được kéo lên.
Lúc xuống xe ở nhà ga trấn Trình Cương, cảnh tượng đầu tiên đưa vào mũi tôi là mùi hôi và khí đất của trấn. Xã viên trong trấn đang gánh phân cỏ đổ vào ruộng trong ruộng tiểu mạch để bón thúc, bọn họ tổ chức thành một đội, già có trẻ có, trên mặt đều có chút màu hồng nhạt của sự nhàn nhã ung dung. Đợi họ đi qua rồi, để lại một khung cảnh nhàn nhã trên đường trấn, gà trên phố đang bới đất kiếm ăn, những con vịt đất gò lắc lắc cái mông béo ụ đi từ phó bên này sang phố bên kia. Trong ánh mặt trời dưới bức tường chái nhà của người bạn học Trình Khánh Đông của tôi, có một con lợn mẹ đang nằm ngủ lười, còn có con chó ngủ ở bên con lợn, đầu gối lên trên đùi sau của lợn mẹ. Càng kì diệu hơn là, còn có một con chim sẻ lật lật lông trên bụng lợn mẹ để bắt rận, cảnh tượng đó làm người ta nghĩ tới nơi đây cách Cách mạng còn xa thăm thẳm, ít nhất là bằng từ Diên An đến đảo Hải Nam. Tôi có một cảm giác hẫng hụt không tên, chính là cảm giác giống như từ giữa hạ bước vào đông. Đương nhiên, cũng có cảm giác thân thuộc ấm ấm áp áp. Tôi hiểu rõ tất cả quê hương giống như một người hiểu rõ quần áo và chân tay của mình.
Tôi hi vọng tôi có thể nhìn thấy một chút gì tươi mới và lạ lẫm, ví dụ như trên phố dán vài tờ báo chữ to, có người đeo phù hiệu trên tay áo tất bật qua lại.
Nhưng tất cả những điều này đều không có. Cái gì cũng đều giống như trước đây. Nước chảy thì không bẩn; nước bẩn thì không chảy, nơi đây thật giống như một cái đầm nước chết.
Tôi thực sự đã dẫm lên một đầm nước chết khi trở về trấn Trình Cương. Trấn Trình Cương tổng cộng có bốn con phố, phố Trình trước, phố Trình giữa, phố Trình sau, và phố các loại họ tạp phía sau miếu Trình. Khỏi phải nói, nhà tôi đương nhiên là ở con phố họ tạp phía sau miếu Trình, ngôi nhà ngói đất ba gian đó ở phía tây phố họ tạp, một góc sân đất, cửa đơn hướng về nam, đó là nhà họ Cao phổ thông bình thường. Lúc tôi sắp đến cửa, có một đứa trẻ nhà hàng xóm nhìn thấy tôi, nhìn tôi cười cười, đột nhiên đứng đối diện với cửa lớn nhà tôi gọi to: "thím Quế Chi - chồng của thím đã trở về", sau đó lại chạy đi về phía đầu phố Trình giữa.
Quế Chi không ra cửa đón tôi. Khi tôi đẩy cánh cổng lớn khép hờ đó, vợ tôi Quế Chi đang ở trong sân đãi mạch. Con trai Hồng Sinh đang ở bên cô ta cầm cây gậy liễu đuổi gà lợn và chim sẻ đang vây lấy cái làn mổ mạch, con gái hơn nửa tuổi Hồng Hoa ngủ gật nằm trên đùi mẹ, cảnh tượng này giống hệt như gà, vịt, lợn, chó mà tôi nhìn thấy trên phố. Bầu trời vùng núi chứa đầy tử khí, đất đai hương thôn tử khí nặng nề.
Tôi xách hành lí đứng ở góc sân.
Quế Chi và các con nghe thấy cửa kêu liền quay đầu lại, cô ta không hề đứng lên đi đón hành lí từ trong tay tôi. Cô ta không hề biết một nhà Cách mạng tương lai và nhà chính trị nông thôn đang đứng trước mặt cô ta. Cô ta khẽ ngây ra một chút, nhìn tôi cười cười, nói: "Về rồi sao? Không phải đã nói sẽ về đến nhà từ mấy ngày trước sao?"
Tôi nhớ lại Cách mạng trong huyện thành và màn kịch bên đường sắt ở ngoại ô, nói: "Bị ách lại trong thị trấn".
Cô ta nói: "Vào nhà đi, còn đứng đấy làm gì?"
Lại nói: "Hồng Sinh, gọi thầy con đi? Gọi thầy đi."
Đứa con đã 5 tuổi Hồng Sinh không gọi. Nó và Hồng Hoa đều nhút nhát nhìn tôi, giống như tôi không phải người của cái nhà này. Trong nháy mắt tôi bắt đầu hối hận mãnh liệt vì đã xuất ngũ. Tôi nghĩ đến hai câu mà lãnh đạo ở đơn vị thường nói: "Cách mạng vẫn chưa thành công, đồng chí vẫn còn cần cố gắng [11] . Đem hành lí đặt vào trong nhà, thuận tay tôi đặt vài cái ghế ở chính giữa nhà xếp ngay ngắn vào mép tường, nhìn lướt qua hai gian phòng, rồi nói: "U tôi đâu?",Quế Chi không quay đầu lại, vẫn cứ vo lúa mạch đáp: "Bà ấy muốn yên tĩnh, lại về sống ở trên gò rồi."
Trong lòng tôi đột nhiên đổ ầm một tiếng, giống như có một quả lựu đạn nổ tung trong lồng ngực. Nhưng tôi không nói gì cả, chỉ dùng chân dằn mạnh miết trên đất một cái, rồi đi ra đứng dưới mái hiên, ngước lên phía trên gò phía sau thị trấn, nhưng chỉ nhìn thấy đại điện Khải Hiền Đường ở sân sau miếu Trình cao lớn và một góc của đại điện Đạo Học Đường trong sân Trung Tiết. Chuông gió dưới mái hiên với bốn góc vểnh lên của điện đường kêu tinh tang tinh tang, véo von thánh thót xuyên qua một dãy tường sân vọng lại. Lúc nhìn thấy cái chùa to lớn của nhà họ Trình, lòng tôi chầm chậm lắng xuống, nhất định sẽ có một ngày tôi không chỉ đập vỡ cái cổng đá "Lưỡng trình cố lí" kia, mà còn phải đốt hết cái miếu chùa này, từ lúc tôi từ gò Trình chuyển xuống đã muốn đốt muốn đập cái chùa này rồi, không có lí do gì mà tôi đã muốn đập cái chùa và cái cổng đá đó rồi. Lúc ấy, Hồng Sinh đột nhiên ở dưới người tôi ngẩng mặt lên gọi một tiếng "thầy", trong lòng tôi đột nhiên ấm áp, xoa xoa đầu nó.
Tôi nói: "Gọi là bố". Con à, người thành phố đều gọi là "bố". Hồng Sinh nhìn tôi lắc đầu một cái.
Tôi nói: "Vậy thì gọi thầy cũng được… đi, cái túi màu vàng trong nhà có kẹo ăn đấy."
Có kẹo rồi, Hồng Sinh và Hồng Hoa gọi thầy liền mấy tiếng, giống như là trên thế giới này chỉ có bố mới cho con gái con trai của mình ăn kẹo. Những năm tháng đó, giấy gói kẹo đều là giấy dầu bóng mỏng màu đỏ, trên giấy đều in các loại kiểu như phê phán đấu tố, khi bọn trẻ vứt giấy kẹo vào trong đám cứt lợn, cứt gà trong sân, tôi lại vội vàng nhặt những cái giấy kẹo đó lên, nói đừng có vứt bừa, cố ý là phản động đấy. Chúng nghe không hiểu lời tôi nói, Quế Chi liền quay đầu lại nói: "Đây là dưới thôn, không phải như trên đơn vị các anh dâu." Tôi muốn nói với cô ta, Cách mạng trong huyện thành đều đã long trời lở đất rồi, tôi xuất ngũ trở về chính là vì Cách mạng, nhưng khi tôi nhìn thấy cô ta quay người nhìn tôi, vẻ mặt rất coi thường dày như bức tường chùa miếu, tôi đành nuốt lời không nói nữa. Hơn nữa, mặt cô ta có màu bụi đất lem luốc, giống như không bao giờ có thể rửa sạch được, điều này lại làm cho tôi một lần nữa nhớ lại trò chơi ở bên đường ray ở ngoại thành, đột nhiên tôi không muốn nói gì nữa cả, đột nhiên ngay cả đến nhìn cô ta cũng chẳng muốn nhìn.
Tôi lại nhìn chăm chăm vào góc mái hiên của miếu Trình đang cong vút lên cao giữa không trung.
Lúc đó, đứa trẻ vừa mới chạy đi sang đầu kia của ngõ lại đột nhiên chạy vào nhà tôi gọi: "chú Ái Quân - ông bí thư chi bộ gọi chú đến ngay;"
Quế Chi đặt nắm mạch còn ướt đẫm vớt lên từ chậu nước đặt trên mép chậu, dường như quên mất một việc lớn như trời, đột nhiên được đứa trẻ gọi làm nhớ lại, mặt cô ta tràn lên một vẻ tươi mới và sinh động, cao giọng lên nói với tôi:
"Đi ngay đi, thầy em bảo anh về thì đi gặp ông ngay, em mải đãi mạch mà quên mất." Lại hỏi: "Anh mang gì cho thầy em thế? Ông ấy thích ăn bánh ngọt, hoa quả dầm trong thị trấn." Còn nói: "Hồng Sinh, Hồng Hoa, cùng với thầy các con đi thăm ông ngoại đi, hỏi ông ngoại có ăn mì trứng không, ăn xong cơm trưa u sẽ bưng qua cho."
2. Một đoạn lịch sử hôn nhân ngoài Cách mạngTôi vẫn chưa nói với các bạn nhạc phụ của tôi cũng là một nhà Cách mạng của trấn Trình Cương, đã từng đi đưa thư cho Bát Lộ Quân [12] , sau giải phóng ông ta làm chức bí thư thôn. Mười mấy hộ gia đình của gò Trình vốn là một đội sản xuất độc lập, do đại đội làng Triệu ở năm dặm ngoài quản lí. Lúc đó thôn Trình chỉ có một cái chợ, là đất sở tại của Ủy ban xã. Xã trưởng là Trình Thiên Dân, hậu duệ đời thứ hai mươi mấy của dòng tộc Trình gia. Nhưng đến năm 1964, chính phủ muốn đổi thôn Trình thành một trấn, đổi thành trấn thì phải mở rộng thôn Trình một tí, thế là xã trưởng Trình Thiên Dân và bố vợ tôi Trình Thiên Thanh liền mở một cuộc họp, quyết định đem mười mấy hộ tạp họ của gò Trình nạp vào thôn Trình, thôn Trình liền đáp ứng được một khoản trong chính sách đổi xã thành trấn của cấp trên. Người ở gò Trình đều từ trên gò chuyển xuống, xây một dãy nhà ở vùng đất hoang sau chùa Trình, một con phố họ tạp đã xuất hiện thêm, đều trở thành người của thôn Trình.
Trở thành người thôn Trình tôi liền trở thành con rể của nhà bí thư thôn. Ngày đó, u và tôi đang thu dọn căn nhà ngói mới xây, cựu bí thư khoan khoan thai thai tiến vào. Ông ta không ngồi trên chiếc ghế mà tôi kéo ra, cũng không uống bát nước mà u tôi rót. Ông ta chắp hai tay sau lưng, xem tường, xem đất, xem đòn nóc và xà nhà trong căn nhà mới, rồi dùng tay sờ lên hai cây bào đồng to bằng cái bát vốn có trước đây trong sân, nói: "Theo lí thì cây này phải là của nhà nước, bây giờ thì coi như của nhà họ Cao các bạn."
U tôi vui mừng nhìn ra phía ngoài rồi lại nhìn ông bí thư: "Như thế có được không hả bác?"
Bí thư nói: "Tôi nói được là được, ai bảo tôi làm bí thư thôn, lại thân thiết với bố thằng bé. Người anh em không còn nữa, tôi không quan tâm đến hai u con chị thì ai quan tâm?"
U vội vàng đổ bát nước ông ta không uống đi, lại vào bếp đun một bát trứng trần nước sôi, trong bát trứng còn cho đường cát đỏ vào. Bí thư ăn xong bát trứng trần, nhìn hết thân trên rồi lại thân dưới của tôi một lượt, rồi nói: "Mười tám tuổi rồi? Ở thị trấn học trung học? Nghe nói còn thuộc tốp đầu trong lớp?" Lúc đó tôi còn nhỏ dại, không biết bí thư muốn tôi làm con rể của ông ta, đỏ mặt xấu hổ đáp lời ông, không ngờ đến đêm thì có người mối lái đến nhà tôi.
Bà mối nói với u tôi: "Đại hỷ rồi, bí thư ưng Ái Quân nhà chị đấy."
Sau khi tốt nghiệp trung học, tôi liền kết hôn. Quế Chi là con gái thứ ba của nhà bí thư, trong số các chị em của cô ta, vẻ ngoài của cô ta liễu không xanh, tùng không thắm, vàng vọt xấu xí, nhỏ hơn tôi một tuổi, nhưng nhìn như là lớn hơn tôi đến năm ba tuổi. Tôi không biết vì sao nhìn cô ta lại như lớn hơn tôi năm tuổi, bởi vì dáng người thấp? Vì da đen? Hay là vì bố cô ta là bí thư, cho nên cô ta béo, ngay đến tóc cũng như là cả ngày không chải, hơn nữa trên mặt lại chi chít những nốt đen nhỏ. Cái ngày mà tôi gặp cô ta lần đầu, bị bà mối dắt như dắt lừa đến nhà của ông bí thư. Đó là phòng của cô ta, trên tường dán đầy những báo cũ, chiếc chăn hoa xếp thành một cuộn dài, giống như một con đê to dựa vào tường. Lúc nhìn thấy cô ta, cổ họng tôi giống như bị nhét một cục bông muốn nhổ ra ngoài, nhưng lại không dám nhổ ra. Bí thư theo sau con gái của ông ta đi vào, nói các con nói chuyện đi nhé, thầy là Đảng viên, là cán bộ, cái đạo lí hôn nhân tự do trong các cuộc họp xã viên lúc nào thầy cũng nói đến. Nói Ái Quân này, ta thấy thầy con chết sớm, con có thể xem là thế hệ sau của Cách mạng, trong thị trấn học trung học thành tích rất tốt, mới đồng ý cho Quế Chi và con đính hôn, kết hôn xong sinh con đẻ cái thầy sẽ đưa con vào bộ đội, vào Đảng ở đơn vị, khi trở về thầy sẽ bồi dưỡng cho con trở thành cán bộ thôn.
Cô ta nói: "Sao anh lại không nói gì?"
Tôi ngẩng đầu nhìn cô ta.
Cô ta nói: "Ghét tôi trông xấu gái? Không đồng ý thì cứ nói thẳng ra, tôi thì ghét nhà anh nghèo rớt mùng tơi."
Tôi nói: "Sao cô lại không đi học?"
Cô ta nói: "Tôi nhìn thấy đám chữ đen trên quyển sách giống như nhìn thấy một đám muỗi đang bay trước mặt, đọc vài câu thì đầu óc kêu vo ve."
Tôi nói: "Thầy cô có thật là sẽ bồi dưỡng tôi thành cán bộ không?"
Cô ta nói: "Vừa nói rồi anh không nghe thấy sao, lấy nhau sau một năm, tôi sinh con đẻ cái thầy tôi sẽ đưa anh vào bộ đội."
Tôi nói: " Tại sao lại phải sinh con đẻ cái mới được nhập ngũ?"
Cô ta nói: "Không sinh con đẻ cái có thể buộc chặt được tim anh sao?"
Tôi nói: "Lúc nào thì kết hôn?"
Cô ta nói: "Ngày tháng do tôi định, là tháng giêng năm nay."
Tôi nói: "Tháng giêng lợn nhà tôi nuôi vẫn chưa được to, chưa nuôi được to thì không có tiền lấy vợ đâu."
Cô ta nói: "Đồ cưới nhà tôi đã chuẩn bị hết rồi, nhà anh thiếu gì đều do tôi chi trả, nhưng có một điều, sau khi kết hôn phải nghe theo tôi, u anh làm tôi giận tôi dám đập vỡ bát trước mặt anh đấy, anh làm tôi giận tôi dám treo cổ chết trước mặt anh đấy."
Tháng giêng năm đó, tôi kết hôn.
3. Lần đầu vào chùa TrìnhTôi rất nhanh dẫn con trai từ nhà bố vợ đi ra. Bố vợ ngồi trên chiếc ghế xích đu chìm trong ánh mặt trời, vừa hút thuốc vừa lấy chân đùa đùa với con chó nhà (địa chủ của xã hội cũ có phải trông giống thế này không), nhìn tôi xách đến cho ông ta mấy gói bánh ngọt, hộp hoa quả dầm hỏi: "Của Cửu Đô làm hay của huyện ta sản xuất đấy?"
Tôi nói: "Mua ở trên bách hóa Cửu Đô, nơi sản xuất là ở tỉnh Trịnh Châu."
Ông ta nhận đổ từ tay tôi, cầm bánh ngọt nhấc lên gần mũi ngửi ngửi giống như là chó nói: "Được lắm, mùi vị rất thơm." Rồi lại nói: "Con xách mấy đồ này sang miếu một chút, đi thăm bác Thiên Dân của con một chút, ông ta đã thôi giữ chức trấn trưởng rồi, muốn tìm sự yên tĩnh nên vào ở trong miếu, ngày nào cũng xem sách cổ." Tôi đã đi ra khỏi nhà bố vợ tôi. Ông ta không nhắc đến việc sắp bồi dưỡng tôi trở thành cán bộ thôn, không nói đến Cách mạng và tình hình như một cái đầm nước chết ở trong thôn, thậm chí không cho tôi ngồi một chút, không cho cháu ngoại Hồng Sinh của ông ta ăn cái gì, càng không hỏi một chút nào về những biểu hiện và sự nỗ lực của tôi trong quân đội, đã bảo tôi đi ra khỏi nhà, đã bảo tôi và con trai đi đến chùa miếu của nhà họ Trình. Cách mạng không phải là mời khách ăn cơm [13] , không phải là mời khách biếu quà, không phải là nâng nâng đỡ đỡ, đề đề bạt bạt, không phải là vẽ tranh thêu hoa. Nhưng tôi không thể không đi thăm Trình Thiên Dân, ông ta là cựu trấn trưởng, là niềm tự hào của nhánh nhà Trình Hạo này tổ tiên từng đỗ tiến sĩ, bậc tiền bối là tú tài nhà Đại Thanh, đến ông ta, trước giải phóng từng làm hiệu trưởng trường Huyện Dân. Năm giải phóng đó, ông được chính phủ xem là nhân sĩ dân chủ có tiếng ngoài Đảng được bổ nhiệm chức cục trưởng cục giáo dục đầu tiên của huyện. Nghe nói khi chính phủ yêu cầu ông ta đảm nhận chức huyện trưởng danh giá đó, ông ta tự mình cảm thấy sự gian khó và phức tạp của Cách mạng, nên đã từ chối về làm xã trưởng của xã này. Đến nay, từ thảo nguyên rộng lớn của vùng Nội Mông, đến làng cá nhỏ của đảo Hải Nam, từ sa mạc Gô bi của vùng Tây Bắc, đến mảnh đất trù phú quê hương của gạo và cá - vịnh Bột Hải, Cách mạng đều đã gió giục mây vần, cờ đỏ bay phấp phới, tiếng kèn lệnh đã tấu lên, nhưng chính lúc này ông ta lại chủ động xin thôi chức trấn trưởng, bởi vì sợ sóng gió Cách mạng sao? Hay là lùi để mà tiến, thỏ khôn ba lỗ? Trước kia (khi đó tôi còn nhỏ như một con kiến), lúc tôi theo u đi chợ ở thôn Trình, gặp ông ta ở đầu phố, u kéo tay tôi nấp ở bên đường, chờ ông ta đi qua rồi, chỉ vào sau lưng ông ta nói với tôi: "Con trai, đó chính là xã trưởng, sau này lớn lên con phải có một chút học vấn bằng nửa người ta để làm cán bộ thôn, cả đời u mới có thể coi như không bõ công ở góa." Sao lại biết tôi không làm nổi cán bộ thôn? Sao lại cho rằng tôi không thể làm thôn trưởng, trấn trưởng, hay huyện trưởng, chuyên viên địa khu nhỉ? Trong giờ học môn giáo dục truyền thống và môn giáo dục thời sự Cách mạng trong quân ngũ, người phụ đạo, giáo viên chẳng phải không ngừng nói Lâm Bưu chỉ hai mươi mấy tuổi đã trở thành SƯ đoàn trưởng sao? Thế giới là của các người, và cũng là của chúng tôi. Chúng tôi giống như mặt trời lúc 8, 9 giờ sáng, còn các người nếu không phải mặt trời sắp lặn thì cũng là mặt trời lúc tà dương?
Chùa Trình nằm ở đoạn cuối của trung tâm phố Trình sau, Hồng Sinh xách hai hộp bánh ngọt, tôi xách bốn hộp hoa quả dầm, từ hai con ngõ của phố Trình giữa xuyên vào phố Trình sau. Những người trên phố nhìn thấy tôi đều hỏi đi hỏi lại một câu giống nhau: "Ái Quân, xuất ngũ rồi à?" Tôi làm ra vẻ cười cười, gật gật đầu với tất cả mọi người, từ túi áo móc ra một cây thuốc lá "hoàng kim diệp" đưa cho họ. Lại hỏi: "Đi đâu đấy?" Tôi đáp: "Cựu trấn trưởng đợi tôi trong miếu, tôi đi thăm một chút." Họ lại nói: "Ái Quân, làm cán bộ thôn rồi phải quan tâm nhiều hơn đến anh em nhé." Tôi nói: "Anh xem trên trấn chứa đầy khí chết thế này; tôi có thể làm cán bộ thôn sao?" Lúc đó, chỉ cần gặp một người có học vấn biết chữ, anh ta nhất định sẽ nói với tôi: "Chỉ cần thực hiện Cách mạng tam kết hợp, anh sẽ chắc chắn sẽ trở thành cán bộ thanh niên!"
Tôi thì nghĩ, khi tôi nắm quyền rồi, nhất định tôi sẽ tốt hơn một chút với người này, chỉ cần gia đình anh ta không có vấn đề gì về chính trị, lúc tưới tiêu có thể cho nhà anh ta dùng nước trước, lúc mua phân hóa học cho nhà anh ta mua nhiều hơn mấy chục cân. Nhất định rồi. Nhất định là như vậy và nhất định chỉ có thể như vậy. Vì sao ư? Bởi vì Cao Ái Quân tôi đây là một người Cách mạng đầy lương tri.
Bây giờ là trước bữa trưa, đàn ông ra đồng phần lớn vẫn chưa về, phụ nữ đều đang nấu cơm ở nhà. Đi trên phố Trình sau, có thể nhìn thấy tiếng ống bễ của các nhà giống như con chuột chuồn ra từ khe cửa, từng làn từng làn khói bếp làm cho bầu trời xanh ngọc như được bao phủ trong làn mây trắng, giống như một khuôn mặt đầy ưu sầu (của ai đây). Tôi kéo tay của con trai Hồng Sinh, nó không ngừng cúi đầu xem hai hộp bánh ngọt trong tay giấy bóng trên hộp bánh ngọt giống như hai hòn lửa lắc lắc lư lư trong ngõ nhỏ. Tôi biết nó khao khát được ăn hộp bánh ngọt đó, lúc không có người tôi mở hộp bánh ra, lấy vài miếng trong mỗi hộp ra rồi bọc lại. Lúc nó ăn bánh, trên mặt ngời lên ánh sáng hạnh phúc, rạng rỡ nhai từng miếng, ánh sáng đó rớt xuống mặt đất của phố Trình sau. Tường sân ở hai bên dãy phố, tường sân và đầu chái nhà làm cho phố Trình sau dồn lại có chút hẹp, làm cho con phố đó giống như một con mương khô. Từng mảng từng mảng tường bị tróc rơi xuống chân tường, lúc nghe tiếng rơi không ngừng của vỏ tường, bùn đất xuống đất và nhìn con trai ăn bánh ngọt như nuốt cả sơn hà, tôi nói:
"Hồng Sinh, có ngon không?"
Nó nói: "Ngon, còn ngon hơn cả thịt."
Tôi nói: "Thầy sắp Cách mạng rồi, Cách mạng thành công rồi, ngày nào thầy cũng cho con ăn bánh ngọt."
Nó không hiểu ngẩng đầu nhìn tôi.
Tôi giống như một nhân vật lớn vỗ vỗ đầu nó. Lúc này, chùa miếu của Trình gia phu tử bỗng chốc hiện ra ngay trước mắt. Chiếc cổng lầu cao được che bằng ngói xanh gạch cổ đó, hai chữ tô vàng "Chùa Trình" to như cái làn ở dưới cổng lầu, và cánh cửa đinh to sơn đỏ dưới bảng chữ, chúng không biết sau này chúng sẽ bị phá hủy dưới tay tôi, luồng hơi mát không ngừng tỏa về phía tôi. Lúc này, tôi không hề biết tình yêu của tôi đang đợi tôi trong ngôi miếu đó, khi đến trước miếu, ngay đến quần áo, cúc áo của tôi cũng không chỉnh tề, lúc vừa rồi mở gói bánh ngọt ra, bơ vẫn còn dính trên tay tôi. Tất cả đều không chút chuẩn bị, đều là số mệnh giống như tháp lũy mà gạch ngói bày sẵn hết ra rồi. Tôi từ phía trước tường bao của miếu đi ra, đường gạch được nối liền bởi những viên gạch vuông mười mấy cân thẳng như căng chỉ đó lùi về phía sau tôi, sau đó là đến cổng lớn của chùa Trình, hai con sư tử đá ngồi trước cửa đón tiếp tôi. Tôi xoa xoa tay còn dính bơ lên đầu con sư tử đó, con trai kéo kéo tay tôi, dè dặt nhìn phía sau.
Tôi nói: "Hồng Sinh, lau đi, không sợ, thầy sắp làm Cách mạng rồi."
Đứa trẻ lắc lắc đầu, lau sạch tay trong túi quần.
Tôi nói: "Sợ gì? Thầy sắp Cách mạng rồi."
Cha con chúng tôi sải bước vào sân Tiền Tiết của chùa Trình. Nền của sân Tiền Tiết là những viên gạch vuông vức tám tấc, trên mặt đường từ Linh Tinh môn đến Thừa Kính môn đã bị mấy đời hậu thế nhà họ Trình lúc đốt hương khấu đầu dẫm lên để lại những dấu chân sâu, con đường đó hai bên có vài cây bách chọc trời xanh tốt, bóng cây che rợp góc sân. Rễ cây làm cho những viên gạch vuông phồng lên nứt tách ra, dưới bóng cây đó, những viên gạch vuông luôn hiện ra màu đen ẩm ướt, có lớp rêu kết thành một tầng xanh mươn mướt trên nền gạch, giữa những kẽ gạch mọc lên rất nhiều cỏ xanh, làm cho mặt sân dường như đã lâu đời mà không hề yếu ớt, tràn đầy màu sắc và mùi vị của giai cấp thống trị phong kiến, làm cho người ta cảm thấy một sự áp bức bóc lột lặng lẽ mà thần bí. Tôi kéo tay con trai đi trên nền gạch đó, nó nhìn quanh bốn phía, trên bàn tay nhỏ có hơi chút lạnh vì sợ sệt trước miếu chùa. Trên xà nhà và cột đứng Xuân Phong đình và Lập Tuyết các ở hai cánh đông và tây sân, những tranh rồng và thần ma đã phai màu, còn có tranh bột màu vàng hổ và sư tử, lúc này đang nhe răng múa vuốt nhìn chúng tôi.
Tôi nói: "Hồng Sinh, con sợ không?"
Nó nhìn tôi lắc đầu một cái, nhưng tay thì lại bám chặt hơn vào ngón tay tôi.
Tôi nói: "Đừng sợ, sẽ có ngày thầy đập hết cái chỗ này."
Đứa trẻ nhìn tôi không tin.
Tôi nói: "Không phá thì không dựng được. Lớn lên con sẽ hiểu điều thầy nói."
Đứa trẻ nhìn tôi càng không hiểu.
Lúc này - sau rất nhiều năm trôi qua, khi nghĩ lại, tôi đều cảm thấy đó là giây phút thần bí nhất của cuộc đời mình, giây phút làm động lòng người nhất, vĩnh hằng nhất, Sau này, rất nhiều năm cùng em trải qua một tình yêu kinh thiên động địa, trải qua nỗi hận long trời lở đất, đều không có khoảnh khắc nào làm cho tôi cảm thấy kì diệu và khó quên, không có một sự ấm áp, mỹ diệu nào làm cho tôi cảm thấy thần bí, rung động lòng người đến thế, giống như có mạch nước thần chảy tí tách tí tách trong tim tôi. Tôi cả đời chưa nhìn thấy lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch, nhưng tôi nghĩ nếu như tôi thật sự nhìn thấy Mao Chủ tịch, kể cả khi Mao Chủ tịch đích thân rót nước cho tôi, đồng chí Giang Thanh tự tay nấu cho tôi một bát canh trứng trần, cảm giác đó cũng không cảm động và sâu sắc bằng phút giây này. Nước mà Chủ tịch Mao rót vẫn là nước, canh trứng trần mà Giang Thanh nấu vẫn là nước trứng luộc mà thôi. Nhưng giây phút đó, sự tuyệt diệu thẩn kì đó, điều gì có thể so sánh nổi đây? Trời cao đất dày cũng không lớn bằng ân tình của Đảng, nước sâu biển sâu cũng không sâu bằng ấn tượng của phút giây này.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân. Tiếng bước chân giống như sương mù bay trên sân chùa, ướt át, nặng chình chịch, nhưng lại vẫn trôi chầm chậm khoan thai trên không trung. Bởi vì sự trống trải và vắng vẻ của chùa Trình, bởi vì ngôi chùa đó ngoài vị cựu trấn trưởng ra không có ai nữa cả. Không đến xuân sang tết đến, không đến sinh nhật hay ngày kỉ niệm Trình Hạo, Trình Di, ngôi chùa đó cực ít người bước vào, cũng cực ít người được giao cho quyền tự nhiên ra vào. Nghe tiếng bước chân dường như không phải một người, lộn xộn loạn xạ, dường như ít nhất cũng phải có hai người. Tôi ngẩng đầu lên nhìn về phía Thừa Kính môn, nhìn thấy tiếng bước chân đen đậm như sơn, có một luồng hơi ẩm mốc xen lần trong tiếng bước chân, bước cao bước thấp, còn có âm thanh như ngâm như hát.
Tôi nhìn thấy em. Một tay em kéo một bé gái ba tuổi, một tay xách hộp cơm tròn ba tầng bằng nhôm, em vẫn mặc chiếc áo màu hồng phấn đó, giày vẫn là đôi giày nhung miệng vuông có chiếc cúc nhôm mạ vàng, quần vẫn là chiếc quần giả quân tự cắt. Tất cả giống hệt như lần gặp đầu ba ngày trước ở đường tàu ngoại ô, trên khuôn mặt thanh tú có một lớp mỏng mệt mỏi và ưu sầu, làm cho làn da mịn màng của em hiện lên một lớp mỏng có phần vàng vọt. Cửa Thừa Kính không to bằng cửa lớn của chùa Trình, nhưng mỗi viên gạch quanh ba bên viền cửa đều được nung hoa văn hình hoa sen, liền thành một khối, giống như cây sen mắc trên khung cửa của Thừa Kính môn. Em đứng dưới khung cửa đó, miệng nửa khép nửa mở, một chân ở trong cửa, một chân ở bên ngoài. Qua khoảng từ dưới khung cửa và trên đầu em, có thể nhìn thấy giàn nho trong sân Trung Tiết lá vẫn còn chưa trưởng thành, nhưng đã che rợp cả trời, điều này làm cho em ở trong khung cửa, giống như được nạm vào một bức tranh nền tối. Em thật giống như một bức tranh. Những năm tháng đó ai nói ai tốt, ai khen ai thanh tú, chỉ có thể so sánh người đó như một bức tranh, không có so sánh nào khác có thể nói hết được vẻ thanh tú và xinh đẹp của em lúc ấy.
Không cần nói, lúc tôi nhìn thấy em, em cũng nhìn thấy tôi. Ánh mắt của chúng tôi chạm vào nhau loảng xoảng trong không trung của sân Tiền Tiết, có chùm hoa lửa như ánh sáng của điện hàn tóe lên trong miếu. Sau đó, không gian trong chùa đông cứng lại, những đốm mặt trời rớt xuống từ kẽ lá cây bách cổ thụ cũng không dao động nữa. Tôi nhìn thấy chiếc hộp cơm nhôm mà em xách chạm vào khung cửa phía bên trái, làm cho lớp nước sơn ở trên khung cửa bị rớt một miếng, có vài hạt bụi nhỏ từ trên khung cửa rơi xuống đỉnh đầu và dưới chân em. Khuôn mặt em trở nên vàng sậm, môi mím căng lại thành một đường màu đỏ viền trắng bên ngoài. Tim tôi đập dồn dập, mồ hôi trong tay mênh mông như có thể chèo thuyền. Tiếp sau đó, chúng tôi vẫn nhìn lẫn nhau như vậy, con quạ đang làm tổ trong tán cây bách trên đỉnh đầu, nhánh cỏ và tiếng kêu của chúng rớt xuống từng chiếc từng chiếc như là xà nhà rợi xuống từ không trung.
Tôi ngẩng đầu liếc lên cây một cái, lúc hạ mắt xuống em đã kéo đứa con gái nhỏ (em mà có con gái sao, ba ngày trước em một chút cũng không hề giống một người phụ nữ đã có con) vừa chạm vào vừa trốn tránh bước qua người tôi, bước chân nhỏ mảnh hơn lúc nãy. Hộp cơm trong tay em lắc la lắc lư, kêu lắc ca lắc cắc. Lúc này tôi quay người lại nhìn em, máu đông cứng trong người chầm chậm tan ra, giống như nước lũ đã tràn lên đến đỉnh đầu. Tôi nhìn chằm chằm vào em từ Thừa Kính Môn đi đến Linh Tinh môn, vội vàng bỏ lại Hồng Sinh chạy theo em.
Tôi gọi: "Này, này."
Em quay đầu lại nói: "Ba hôm trước tôi bị quỷ ám. Từ giờ trở đi anh không nhìn thấy tôi, tôi cũng không nhìn thấy anh. Trước đây chúng ta căn bản không ai biết ai, căn bản cũng không ai quen ai."
Nói xong em ôm con gái vào lòng, sải bước qua cửa lớn của chùa Trình, đi vào phố Trình sau. Đi giống như là chạy trốn kẻ trộm vậy. Hoa hướng dương đón ánh mặt trời, từng đóa hoa không tàn; Hôm nay gieo xuống hạt giống tình bạn, tình Cách mạng bền vững vạn đời. Tôi cứ đứng như vậy ngoài cửa lớn chùa, cứ nhìn theo em xuyên qua con ngõ lúc mà tôi vừa từ đó đến, vừa xoay người đã bước vào phố Trình giữa.
Đây chính là ái tình Cách mạng của tôi, là đời sống tình ái bừng bừng sôi sục của tôi, nó không phải bắt đầu từ hôm tôi nhìn thấy em ở chùa miếu họ Trình, mà đã mở màn từ ba ngày trước. Tôi biết, ái tình Cách mạng của chúng tôi vẫn chưa chính thức bắt đầu. Cuộc sống tình ái của chúng tôi từ sân chùa Trình chỉ có thể coi như vô tình được vén lên một trang mới. Vạn lí trường chinh mới bắt đầu bước đầu tiên, núi tuyết và thảo nguyên đều còn chưa xuất hiện. Cách mạng chưa thành công, đồng chí vẫn cần cố gắng. Khó khăn và phức tạp vẫn đang chờ phía trước.
Con trai gọi tôi phía sau tôi: "Thầy - thầy."
4. Nỗi nhớ của người Cách mạngNếm mật ong rồi thì biết rằng khoai lang không ngọt nữa, nó đã mất đi cái mùi vị mà trước đây chưa từng nếm qua mật mất rồi. Khoai lang chính là khoai lang, khoai lang không bao giờ là mật cả.
Tôi biết em tên là Hạ Hồng Mai, là vợ của con trai trấn trưởng cũ nhà Trình Thiên Dân, nhà mẹ đẻ là người ở huyện thành Đông Quan. Chồng của em tên là Trình Khánh Đông, hồi cấp 2 là bạn học của tôi, sau đó tôi đến huyện thành học cấp 3, anh ta đến trường sư phạm khu vực học. Tiếp sau đó, tôi đi bộ đội vào quân ngũ giữ nhà giữ nước, anh ta thì tốt nghiệp rồi trở về trấn Trình Cương làm giáo viên trung học. Cuộc đời Cách mạng và phản Cách mạng của chúng tôi từ đây mà mỗi người một ngả.
Những tư liệu này tôi từ u tôi mà biết. Tôi đi thăm u ở trên gò Trình. Trên gò vốn có mười mấy hộ chuyển xuống chân gò, có vài gian nhà cỏ muốn đổ mà không chịu đổ đi cho, vẫn vững chãi đứng ở đó, có vài người già vì những nguyên nhân này nọ vẫn ở đó như cũ. Lúc tôi đến gian nhà cũ của nhà tôi, u tôi tóc đã ngả bạc đang bóc ngô, kê, lúa cho gà ăn, nhìn thấy tôi, ngô, kê, lúa trong tay bà rơi xuống đất, vội vàng bước về phía tôi vài bước, lúc dựa vào một thân cây quan sát tôi, mắt bà ngấn lệ.
Tôi nói: "U, con đến đón u về nhà đây."
U tôi nhìn tôi lắc lắc đầu.
Tôi nói: "Trình Quế Chi nếu dám không tốt với u, con sẽ bỏ cô ta."
U tôi nghiêm mắt nhìn tôi.
Tôi nói: "Con là Đảng viên, con phải làm Cách mạng, sau này cái ông bí thư Trình Thiên Thanh cũng phải nghe con."
U tôi nhìn kĩ tôi kinh hoàng không hiểu, như thể con của bà có bệnh thần kinh. Trước khi Cách mạng thành công, gặp phải những điều khó hiểu và chê trách là rất bình thường, đây là kinh nghiệm và bài học mà lịch sử đã chứng minh. Tôi không nói gì với u nữa. U tôi cũng có chỗ lạc hậu và mê muội.
Ngồi cùng với u tôi trước cửa sân, trong lúc mặt trời lặn nhìn toàn bộ cảnh vật của trấn Trình Cương. Từ sông Mười Ba Dặm kia đào lên một con kênh lớn thẳng tắp như chiếc đũa, tiếng nước chảy bốn mùa, từ dưới chiếc gò ở sau trấn chảy đi, giống như một dải lụa xiết lấy dãy núi. Lúc này, tôi nhìn chăm chú vào mặt nước, làm cho mắt giống như được rửa, chờ đến khi sáng mắt sáng lòng, lại đưa ánh mắt nhìn về phía sân Tiền Tiết của chùa Trình, tôi nhìn thấy hộp cơm nhôm của Hồng Mai trong khung cửa làm sướt đi lớp sơn đỏ vẫn lóe sáng trên nền đá dưới chân.
Tôi nói: "Cô ấy tên là gì?"
Người già nói: "Cô ấy tên là Hạ Hồng Mai."
Tôi nói: "Người ở đâu?"
Người già nói: "Người trong thành, nhà mẹ đẻ ở Thành Quan đó."
Tôi nghĩ một lúc, giống như hỏi, lại giống như tự nói với mình: "Sao lại bị gả đến Trình Cương vậy? Người trong thành sao lại bị gả đến cái trấn nhỏ xa xôi hẻo lánh này? Người chọn chỗ cao mà đi, nước chọn chỗ thấp mà chảy, xinh đẹp như cô ấy phải được gả đến thành phố Cửu Đô mới phải chứ."
Người già nhìn tôi. Người già dường như nhìn ra tâm tư của tôi rồi, liền từ từ nói giải đáp câu đố cho tôi, cô ấy còn có thể thế nào nữa, Trình Cương cũng là thị trấn mà, mỗi tháng có đến năm phiên chợ, người từ các xã xung quanh đến đi chợ đều đông nghìn nghịt, không hề ít hơn ngày phiên chợ ở Thành Quan nhà cô ta. Hơn nữa, Khánh Đông người ta học qua đại học ở địa khu, được gọi là tiên sinh, có tiền lương, bố lại là trấn trưởng. Lúc bố người ta làm trấn trưởng ở trấn Thành Quan, bố cô ta ở đâu? Bố cô ta ở trấn Thành Quan quét sân, đun nước, hầu hạ trấn trưởng, cô ta sao lại không thể gả đến trấn Trình Cương? Cô ta sao lại không gả cho cậu Khánh Đông đó đây?
Cách mạng chính là như vậy, không có hiến dâng thì không có nền móng; không có hi sinh thì không có thành công. Em lấy chồng năm đó vẫn chưa đến hai mươi, người mảnh dẻ, trắng nõn nà, là bông hoa quế của trăm dặm quanh đây. Nói năng tự nhiên, làm việc nhanh nhẹn, một ngày có thể dệt được một chiếc áo len theo kiểu phương Tây mà người trong thành phố mặc, nếu như trong thôn có một đám các bà các cô vây lấy em, cầu khẩn vài câu, em sẽ hát cho mọi người bài hát mà chỉ người trong thành phố mới hát, sẽ nhảy điệu nhảy phương Tây mà em học ở trường. Chính là như vậy, đơn giản như hạt đậu gặp nước nảy mầm, cây khô nở hoa khi mùa xuân đến, dục vọng và cái hư vinh mạnh mẽ của em đã chi phối cuộc đời và số mệnh của em, dẫn đến vận mệnh một đời huy hoàng và bi ai của em và tôi. Kì thực là bi tráng.
U nói tiếc là cô ta bị mắc chứng cuồng Cách mạng. Lúc bệnh phát không chỉ không nấu cơm, giặt quần áo cho cựu trấn trưởng mà còn đem bát đũa mà trấn trưởng đã dùng vứt khắp nơi. Nói cựu trấn trưởng bị cô ta làm cho tức giận đến mức phải đến sống trong chùa miếu. Nói vài ngày trước cô ta bỏ con, bỏ chồng mà đi, trở về nhà mẹ đẻ trong thành ở vài ngày lúc trở về không nói cô ta về nhà mẹ đẻ, mà nói cô ta đến Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao, nói Chủ tịch Mao còn nắm tay cô ta. Bắc Kinh ở chỗ nào? U hỏi tôi, nhưng lại tự mình trả lời, Bắc Kinh ở phía bắc, ngàn dặm vạn dặm, cô ta có thể đến được không? Hơn nữa, Mao Chủ tịch là ai chứ? Đó là hoàng thượng, cô ta có thể gặp được không? Có thể cầm tay ông ta không? Nói cô ta lúc về thị trấn gặp ai cũng duỗi tay ra cho người ta nhìn, nói Mao Chủ tịch đã cầm chính bàn tay này. Như thế bàn tay đó của cô ta không cầm đũa nữa, không chạm vào nước rửa tay nữa, nói hơi ấm từ bàn tay Mao Chủ tịch vẫn còn ở trong tay cô ta cơ đấy. Con xem cô ta không phải bị mắc bệnh điên sao? U hỏi tôi, cô ta có phải đã trở thành người điên không? Nói trấn trưởng sai Trình Thiên Thanh đi mời bác sĩ đông y dùng 3 người đàn ông ấn cô ta trên giường, bác sĩ tiêm hơn hai mươi mũi trên đầu, trên tay cô ta, làm cô ta run lẩy bẩy một thời gian dài, sau đó vừa rút kim ra, cô ta liền không điên nữa, không bị thần kinh nữa, lúc nấu cơm thì nấu cơm, lúc cho lợn ăn thì cho lợn ăn, lúc đi đưa cơm cho bố chồng trong miếu thì đi đưa cơm.
Có lẽ tôi cũng bị điên rồi, Cách mạng làm tôi điên rồi, Hạ Hồng Mai làm tôi điên rồi. Tôi mắc hai chứng điên là Cách mạng và ái tình. Hôm nhìn thấy Hạ Hồng Mai ở chùa Trình đó, trong đầu tôi không ngừng hiện ra tiếng nói và bóng hình em. Chỉ cần loa phát thanh trên phố phát, cho dù là bài hát hay là kịch nêu gương, cả người tôi đập rần rật không ngừng, đế giày, ống quần, đũng quần, và áo lót, toàn thân trên dưới giống như một ngọn lửa. Lúc đó màn kịch ở đường ray ngoại thành lại hiện lên rõ ràng trong não tôi, làm cho tôi cả đêm khó ngủ, tinh thần ủ rũ, đêm ngủ không yên, ăn không ngon miệng, ý chí Cách mạng như đám dây gai rối bị dao sắc chặt tan tành, hoàn toàn giải thể. Có một đêm, tôi muốn dập tắt ngọn lửa rừng rực trong mình, tôi dùng tay cấu vào đùi tôi, cấu vào thân trên tôi, cấu đến mức dương vật ra máu, nhưng vẫn không thể xua đuổi được hình ảnh của Hồng Mai ra khỏi tâm trí tôi, không thể khép lại màn kịch ở bên đường ray ấy.
Bệnh của tôi nguy kịch rồi, vô phương cứu chữa rồi. Tôi biết trên thế giới này chưa bao giờ có Chúa cứu thế, không có thần tiên và hoàng đế, chúng ta chỉ có thể tự mình cứu lấy chính mình. Tôi cũng chỉ có thể tự mình cứu lấy mình thôi. Lúc ban ngày, tôi chạy đông chạy tây trong thôn, đến trước cửa nhà Hạ Hồng Mai ở phố Trình trước lang thang dạo chơi, hi vọng có thể bất chợt nhìn thấy em, không nhìn thấy em thì tôi có ý rời xa trấn Trình Cương. Có tháng tôi xuống thôn đi thăm nhà các cô dì tôi từ sớm, trời chưa tối thì chưa trở về trấn Trình Cương. Tôi còn ở nhà cậu tôi lao động hai ngày;, nhà cậu xây nhà, tôi ở đó xây cùng với thợ xây hai ngày trời. Nhưng lúc trở về trấn, Xích Huyện [14] đêm trường khó ngủ, đến nửa đêm tôi không thể không trèo lên người Quế Chi vợ tôi. Trèo lên người Quế Chi bởi vì tôi đã coi cô ấy là Hạ Hồng Mai, sờ đầu cô ta, sờ mặt cô ta, sờ những ngón chân vừa thô vừa ngắn và những chiếc móng chân có mùi hôi của cô ta. Lúc đó cô ta bật đèn lên, nửa thức nửa ngủ hỏi tôi: "Cao Ái Quân, anh không phải là lại muốn em sinh con đấy chứ?"
Tôi đáp: "Anh muốn có thêm một đứa con nữa."
Cô ta nói: "Vậy anh làm đi, đừng có sờ đi sờ lại trên người em, sờ có thể sờ ra trẻ con sao?"
Cô ta không biết rằng sau khi nói xong câu đó tôi liền hối hận, không biết rằng tôi nghe lời cô ta nói xong thì lửa trong người vụt tắt. Đây đã là tháng thứ hai tôi trở về trấn Trình Cương, chút hứng thú với Quế Chi đã sớm hết sạch sành sanh rồi. Nhưng lúc đó tôi là một con lợn, tôi là một con chó, tôi không phải là một người Cách mạng với ý chí kiên định nữa, tôi không thể không làm việc đó với cô ta, không thể không trèo lên người cô ta. Cô ta thổi tắt đèn, mỗi lần làm việc đó cô ta đều thổi tắt đèn dầu như vậy. Ánh trăng ngoài cửa sổ xuyên vào, hơi lạnh từ ngoài cửa sổ cũng thấm vào trong. Hơi cháy của đèn dầu sau khi tắt làm trong phòng có mùi cháy khét, có mùi hương xanh mát của mùa xuân, còn có cả mùi bụi đất và ẩm mốc của cái chăn cần phải phơi nắng rồi mà vẫn chưa phơi. Con trai Hồng Sinh và con gái Hồng Hoa ngủ ở đầu kia giường, cánh tay của Hồng Hoa vắt trên ngực Hồng Sinh. Quế Chi đi ra đắp lại chăn cho chúng, sau khi tắt đèn thì lại giống như ngày trước ngồi ở mép giường cởi quần lót của cô ta ra đặt ở trên đầu giường, vén chăn lên và nằm xuống, nói anh làm đi, anh muốn em sinh con gái hay con trai nữa? Tôi nói gái trai đều được cả. Cô ta nói tôi làm đi, còn đứng ở trong phòng làm gì nữa? Tôi nói cửa sổ hút gió, tôi chắn cửa sổ cái đã. Sau đó tôi chậm rì rì lấy một cái áo mắc lên cửa sổ, che ánh trăng lại, che chỗ rách của giấy dán cửa sổ lại. Cô ta nói anh làm đi, anh không phải muốn có con sao? Hồng Hoa có thể chạy khắp nơi rồi, em cũng muốn sinh thêm đứa nữa. Tôi không thể không chầm chập đi về bên giường. Tôi dường như không thể không đi về bên giường, dường như không đi thì ánh mắt của cô ta không chịu ngừng soi xét, lật núi xuyên hang, nhìn thấy tâm can tôi, nhìn thấy màn kịch kinh hồn động vía của tôi và Hồng Mai ở ngoại thành. Hoa hồng mai nở, đóa đóa rực sắc màu. Nhưng lúc đó, ham muốn của tôi lại giã từ sự nghiệp khi đang ở đỉnh vinh quang, người vừa lạnh vừa run giống như có một thùng nước giếng dội từ trên đầu xuống, cái đó mềm như một đoạn cỏ đẫm sương đêm. Tôi muốn nói với cô ta thôi đi, để dịp khác lại làm. Muốn nói với cô ta rằng tôi dường như có bệnh rồi, vừa rồi còn cứng, bây giờ đột nhiên gió đến, cây đổ, chim bay đi rồi. Tôi vui mừng vì sự thất bại và đổ sụp của mình, vui mừng vì tôi không cần trèo lên người cô ta để nhớ Hồng Mai, nhớ đến thân thể và sự trắng ngần của em, nhớ đến cặp vú cao vút như núi và khe núi ấy của Hồng Mai, nhớ đến khuôn mặt thanh tú và mái tóc cắt ngắn của Hồng Mai, còn có mười móng chân đỏ như trái hồng của em nữa. Sau khi cây đổ thì sư tử về hang, đêm nay tôi có thể yên yên ổn ổn mà ngủ rồi. Nhưng mà lúc này, khi mà tôi sắp ngủ thiếp đi, không biết tiếng loa vút cao từ đâu vọng lại.
Âm nhạc từ tiếng loa phát thanh truyền lại là ca khúc "Hành khúc chiến đấu". Tôi không biết tiếng nhạc đó là từ phương nào truyền đến, nhưng lại có thể nghe ra chiếc loa phát ra bài hát đó dường như trên ống loa nứt toác ra một cái lỗ, hoặc là nó đã treo ở trên cây lâu rồi, sau dầm mưa dãi gió trên ống loa gỉ ra một cái lỗ, làm cho âm nhạc trở nên có chút khàn khàn, như thể tiếng nhạc đó là tiếng hạt đậu vứt vào trong ống trúc phát ra từ khe trúc nứt, đau tai thì đau tai, nhưng lại lưu loát đến mức không có cách nào nói được, tiết tấu và nốt nhạc sáng sủa, đám mây hoa ngũ sắc hiện ra, chui vào khe cửa nhà tôi, đẩy cánh cửa gỗ liễu đến mức kêu kẽo cà kẽo kẹt; chui vào từ lỗ vỡ cửa sổ, làm cho chiếc áo mắc trên cửa sổ lật lên lúc hạ lúc bay; thổi vào từ kẽ nứt của tường sau, làm cho chăn trên giường bị thổi run phần phật; dồn vào từ kẽ mái ngói và cỏ tranh trên mái nhà, đập đến mức làm cho bắp thịt toàn thân tôi nhảy tinh tang tinh tang. Tôi bị những ca khúc và tiếng nhạc đó cổ vũ, người dần dần khó chịu như có một đàn kiến bò trong huyết quản, máu bị đốt nóng lên, mọi ngóc ngách trên tay, trên chân, trên tóc, cổ và chỗ kín đều dính dòng dòng mổ hoi. Tôi biết tôi sắp điên lên rồi, cảm thấy có vô số sức mạnh từ tứ chi bắt đầu chạy đến tập trung ở chỗ giữa hai đùi, cái đó của tôi lại hiên ngang bừng bừng, thanh xuân vô hạn, nó giống như một cây gỗ dựng đứng lên, khi bài hát phát đến đoạn "tôi đả đảo một đứa, bắt tù một đứa, thu được vài khẩu súng Mỹ", tôi nhìn thấy hai thanh ray đường sắt từ một nơi xa xôi duỗi đến, bên đường ray là bạt ngàn những ruộng hoa màu, Hồng Mai hoàn toàn trần truồng nằm trên phiến mạ non đã bị dẫm đổ hướng về tôi vẫy vẫy. Quế Chi trở nửa mình trên giường, hỏi: "Anh có làm không? Không làm thì em đi ngủ đây này." Tôi nhìn Quế Chi gật đầu, đi về phía Hồng Mai đang nằm. Tôi nhìn thấy Hồng Mai trong ánh mặt trời, cả thân mình phát ra ánh sáng, tôi ngửi thấy mùi hương nồng đậm của lúa mạch non lần trong mùi thơm của da thịt tươi non trên thân thể Hồng Mai. Tôi đến bên mép giường. Tôi cởi dép ra, bỏ những đồ quân dụng và cởi dây lưng ra, tôi cởi quần ra.
Thế nhưng, bài hát phát ra từ loa phát thanh vù một tiếng rồi dừng lại, bặt im như dây đàn bị đứt.
Quế Chi từ từ ngồi dậy trên giường, mặc quần lót rồi châm đèn lên:
"Cao Ái Quân, anh có bất lực thì cũng không được làm em tỉnh dậy, sáng sớm mai em phải dậy nấu cơm rồi, làm sao có thể ngày ngày thế này? Việc này có thể thay cơm ăn, thay áo mặc không? Mới từ bộ đội về em bảo anh có đến mấy lần, anh thì lại dây dưa không dứt, bất lực mà còn muốn cái việc đó! Đã về trấn hơn một tháng rồi, anh nên xuống ruộng làm gì đó đi, không phải là gia đình quân nhân nữa, không được quan tâm nữa rồi, không đi kiếm công điểm thì cả nhà chỉ có đi uống gió Tay Bắc thôi?"
5. Nhạc Cách mạng lại một lần nữa vang lênĐương nhiên là không phải đi uống gió Tây Bắc. Làm ruộng có cơm ăn, Cách mạng cũng có cơm ăn như vậy. Chính bởi vì không có cơm ăn mới cần Cách mạng. Trước khi tôi nhập ngũ Trình Thiên Thanh đã nói sau khi tôi xuất ngũ về sẽ cho tôi làm cán bộ thôn, chính bởi vì ông ta nói cho tôi làm cán bộ tôi mới kết hôn với con gái Quế Chi của ông ta. Hứa cho tôi làm cán bộ là ông ta nợ tôi của hồi môn, nhưng bây giờ, tôi làm cho Quế Chi nhà ông ta sinh hai đứa con rồi, tôi đã xuất ngũ về quê rồi, đã đến lúc phải yêu cầu ông ta trả tôi món của hồi môn đó. Không làm cán bộ thôn, tôi làm sao có thể hô phong hoán vũ Cách mạng trong thôn đây? Không thể hô phong hoán vũ, không lãnh đạo xã viên tôi làm sao có thể lãnh đạo Cách mạng đây?
Tôi quyết định một lần nữa đi tìm bố vợ tôi. Tôi phải đòi nợ.
Ăn xong cơm sáng Quế Chi nói: "Anh đi đâu đấy? Hôm nay đội sản xuất đến đầu thôn sửa mương." Tôi không đáp lại cô ta. Ngay cả nhìn tôi cũng chẳng thèm nhìn cô ta một cái. Nhưng lúc tôi từ nhà đi ra, cô ta lại chạy theo nhét chiếc xẻng vào tận trong tay tôi.
"Thiếu đi nửa ngày là bốn công đấy."
Tôi vứt cái xẻng xuống đất.
Tôi đi rồi.
Quế Chi vẫn đứng ngẩn ra đó.
Ánh mặt trời trong ngõ thôn sáng như pha lê, sáng như trái tim người Cách mạng. Hàng xóm láng giềng đã ăn xong cơm, chống xẻng và cuốc đứng ở cửa chờ tiếng chuông của đội sản xuất vang lên. Tôi đi qua trước mặt họ, muốn để cho cái dũng khí Cách mạng dưới chân tôi đội lòng bàn chân lên để tôi được đẩy lên trong không trung. Người trong thôn hỏi: "Ái Quân, ăn cơm chưa?" Tôi nói: "Ăn cơm rồi, đi tìm bí thư thôn." Lại cười nói: "Bí thư thôn không phải bố vợ của anh sao?" Tôi nói: "Trong nhà là bố vợ, ngoài thôn là công việc." Bọn họ liền cười khì khì sau lưng tôi. Tôi nghĩ các người cứ cười đi, sau Cách mạng sẽ có một ngày tôi cho phép các người cười các người mới có thể cười, không cho các người cười các người chỉ có thể khóc.
Tiếng cười của họ đưa tôi từ phố Trình sau đến phố Trình giữa.
Lúc tôi từ một con ngõ rẽ vào phố Trình giữa, có một luồng sáng đỏ đột nhiên lóe lên. Hồng Mai từ một con phố khác xuất hiện, em và chị đằng nhà mẹ Quế Chi - Ái Cúc vai kề vai, trong tay vẫn xách hộp cơm bằng nhôm đó, khỏi phải nói cũng biết là đến đưa cơm cho bố chồng ở miếu Trình. Lúc này tiếng chuông đi làm của đội sản xuất thứ hai vang lên, rất nhiều xã viên đang khiêng vác đi ra ngoài thôn, em bị kẹp giữa vài xã viên nữ trẻ tuổi. Tim tôi bắt đầu đập loạn lên ầm ầm, tôi nhớ đến ca khúc "Hành khúc chiến đấu" mà loa phát thanh hôm qua bất ngờ phát ra, nhớ đến sự cương cứng và mềm yếu của mình, không biết nên làm thế nào để đón trước bọn họ, giữa hai đùi có chút bối rối nhè nhẹ, nhưng bước chân không hiểu vì sao lại nặng trình trịch. Thật cảm ơn cái sáng rõ của ban ngày và tiếng cười cười nói nói của các xã viên, không phải những thứ đó áp chế ngọn lửa cuồng thịnh trong tim tôi, ai mà biết được tôi sẽ làm gì trước mặt Hồng Mai.
Đầy là lần thứ hai tôi gặp em sau khi trở lại thôn. Quần áo của em đã hoàn toàn thay đổi, em mặc một chiếc áo kiểu Tây màu xanh da trời, mặc một chiếc quần lao động rất thịnh hành ở thành phố lúc bấy giờ, chân đi đôi dép giải phóng cao su đen đang thịnh hành. Còn tôi thì vẫn mặc bộ quân phục xanh lá cây sáng chói hào quang. Các cô gái đi về phía tôi, tôi đút hai tay vào túi quần, cố ý dùng nắm tay