← Quay lại trang sách

Chương 6 CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN CÁCH MẠNG

Quản lí Cách mạng, thúc đẩy sản xuất - đây là trọng tâm công việc của tôi sau khi lên nắm quyền. Nhưng mà, Quế Chi chết rồi, đem đến tổn thất trực tiếp nhất cho tôi là, mỗi ngày ngủ đến nửa đêm, con gái Hồng Hoa đột nhiên tỉnh dậy khóc to đòi mẹ. "U con đâu rồi? Con cần u con" - Những tiếng khóc này nhọn hoắt sắc bén, giống như là đoản kiếm vĩ đại của Lỗ Tấn, xé rách đêm dài đằng đẵng, làm cho tôi suốt đêm không ngủ, ảnh hưởng rất nhiều đến tinh lực của tôi ngày hôm sau.

Tự nhiên, u tôi từ trên gò chuyển xuống, trở về bên các con cháu của bà. Ủy ban trấn mở một cuộc họp quần chúng ở đại đội Trình Cương, sau khi tuyên bố danh sách Hội ủy viên Cách mạng mới, u bưng cơm đến tay tôi, dè dặt hỏi một câu: "Ái Quân, con nói thật với u, bố vợ con xuống đài có phải vì con không?"

Tôi nói: "U, là ông ta tự mình phạm sai lầm. Lúc bệnh nghiện thuốc của ông ta phát lên, dám xé một tờ giấy trong cuốn Ngữ lục Mao Chủ tịch để cuộn thuốc hút; cháu ông ta đi vệ sinh, tìm không thấy giấy và đá, ông ta dám xé một tờ giấy trên sách của Mao Chủ tịch để đưa cho cháu trai lau đít… Sách của Mao Chủ tịch là gì? Nó giống như là thánh chỉ trong quá khứ, u xem trong quá khứ có ai dám đối xử với thánh chỉ như vậy không? Nhìn thấy thánh chỉ ai dám không quỳ? Không quỳ thì sẽ bị giết. Trước mắt là xã hội mới, dân chủ rồi, không cần phải đập đầu trước lời nói của Mao Chủ tịch như với thánh chỉ, nhưng không cần đập đầu thì có thể dám xé ra để cuốn thuốc sao? Có thể xé ra để làm giấy chùi đít cho cháu trai sao?." Tôi nói: "Lại đúng là đoạn mà trên đó viết Cách mạng không phải là mời khách ăn cơm , nếu không phải là ông ta điên rồi, thì việc xử bắn ông ta không phải là không có khả năng xảy ra."

U tôi nửa tin nửa ngờ lại dịch bàn chân nhỡ của bà đi bưng cơm cho cháu trai, cháu gái. Sau đó, người mẹ vĩ đại của tôi đảm đương việc chăm sóc tất cả gánh nặng và nghĩa vụ của gia đình Cách mạng, mỗi lần Hồng Hoa nửa đêm tỉnh khóc, tôi nhìn thấy u tôi kéo Hồng Hoa vào lòng đu đa đu đưa, xem tôi dụi mắt từ phòng tây (tôi một mình dọn vào phòng tây ngủ) đến phòng đông, u tôi liền nói: "Ngủ đi, ngày mai con còn có một đống việc trong thôn, đã làm cán bộ rồi thì phải làm cho tốt."

U tôi chính là người thánh thiện, vĩ đại nhất trong cái thế giới vàng thau lẫn lộn này. Tôi không biết bà dùng biện pháp gì mà làm Hồng Hoa nửa đêm không khóc nữa, làm Hồng Sinh ban đêm ngủ không nghiến răng nói mê nữa. Quế Chi đi rồi, u trở về, nền nhà luôn luôn sạch sẽ, bàn và ảnh Chủ tịch trên bàn, sách Hồng bảo và tranh ngữ lục dán trên tường, đều luôn luôn phát sáng. Chiếu sậy luôn luôn được cuộn dựa vào sau cửa, ghế lúc không ngồi luôn luôn được đặt ở dưới chân tường. Hồng Sinh học lớp 1, sau khi tan học cặp sách luôn vứt ở trong sân hoặc dưới sàn nhà, nhưng không lâu sau, cặp xách đó luôn được mắc trên tường.

U làm cho tôi có thể toàn tâm thực hiện phong trào vĩ đại "Làm Cách mạng thúc đẩy sản xuất." Trong những ngày nông nhàn, đầu tiên tôi dùng nước xi măng quét một lượt cổng đá "Nhị Trình cố lí", quét sơn đỏ, vẽ màu lên, viết lên một chữ to thể Tống, bên trái là "Lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông vạn tuế/!" bên phải là "Đảng cộng sản Trung Quốc vĩ đại vạn tuế!", trên thanh ngang viết "Thánh địa mới", trên tường của mỗi hộ ở Trình Cương, tôi dùng vôi trắng trộn lẫn với những mẩu tóc vụn, vạch ra một đường viền chân tường màu trắng ba thước rộng, hai thước rưỡi dài, trên đường viền chân tường đó nhất loạt dùng sơn đỏ vẽ viền, dùng sơn vàng phun ra vài hàng chữ: "Lực lượng hạt nhân lãnh đạo sự nghiệp của chúng ta là Đảng cộng sản Trung Quốc; cơ sở lí luận chỉ đạo tư tưởng của chúng ta là chủ nghĩa Marx Lenin." Tôi phái người đi chặt vài cây liễu lớn trên sông Mười Ba Dặm, sau khi bán đi thống nhất mua những bức tranh lớn Mao Chủ tịch và hai dải dài giống như câu đối, chữ trên dải bên trái vẫn là "Lãnh tụ Mao Chủ tịch vĩ đại vạn tuế!", bên phải vẫn là "Đảng Cộng sản Trung Quốc vĩ đại vạn tuế!" rồi lại đem những bức tranh và những dải chữ này đến các gia đình quần chúng, treo trên tường chính trong phòng chính các nhà của mỗi hộ gia đình. Ở mỗi đầu mảnh ruộng của các đội sản xuất tôi đều thống nhất làm một tấm gỗ 1m2, biển gỗ thống nhất một mặt hướng về phương Đông mặt trời mọc, viết lên những dòng như lửa cháy trong "Ba điều trung": "Trung với Mao Chủ tịch, trung với tư tưởng Mao Trạch Đông, trung với Đảng Cộng sản Trung Quốc vĩ đại". Tôi phát động Đảng viên, đoàn viên, thanh niên và quân nhân xuất ngũ, lấy phương thức "một giúp một, một đôi hồng", để những người biết chữ giúp những người mù chữ, những người tiên tiến giúp những người lạc hậu, những người trẻ giúp đỡ những người trung tuổi hoặc đã già, con trai con gái giúp đỡ mẹ hoặc bố, yêu cầu những người già trên bảy mươi tuổi bắt buộc phải học thuộc ba mươi điều trong cuốn Ngữ lục Mao Chủ tịch ; 50 đến 70 tuổi phải học thuộc 50 điều, 30 tuổi đến 45 tuổi bắt buộc phải thuộc 80 điều, 16 tuổi đến 30 tuổi bắt buộc phải thuộc ít nhất 100 điều. Tôi lấy tư cách cách Hội ủy viên Cách mạng thông báo các trường tiểu học Trình Cương, lúc học sinh lên lớp điểm số cao thấp không sao cả, không thi đỗ hay điểm 0 cũng có thể chấp nhận, nhưng nhất thiết phải học thuộc 50 điều trong Ngữ lục Mao Chủ tịch , tiểu học lên trung học, trừ việc học thuộc năm mươi điều ngữ lục ra, còn phải học thuộc Lão Tam biên , Vì nhân dân phục vụ , Kỉ niệm Bạch Cầu Ân , Ngu Công dời núi …

Tôi dùng thời gian một mùa đông, vắt hết trí óc, học hỏi kinh nghiệm khắp nơi, tại Trình Cương sáng lập nên "Ba thống nhất" (trước cửa thống nhất, trong nhà thống nhất, ruộng đất thống nhất) và cục diện sôi nổi "một giúp một, một đôi hồng; toàn thôn già trẻ học Mao tuyển". Tôi áp dụng chế độ thưởng phạt: những người học thuộc được vượt mức Ngữ lục Mao Chủ tịch , lấy số điều để thưởng điểm (một điều mười công điểm), không thuộc đủ thì phạt mười công (thuộc ít hơn một điều phạt hai mươi công), nếu người nào có ý phản đối, lập tức đội mũ cao đi giễu phố (có tất cả ba mươi chín người phải chịu hình phạt này), làm cho tất cả nam nữ già trẻ trong thôn (trừ người điên, người bệnh và người đần độn) đều được đặt vào môi trường màu đỏ nóng như thiêu. Giống như mỗi người đều là một con cá bị nấu trong nổi, kinh khủng loạn vía, nhưng không ai ra được miệng nồi. Tôi hiểu sâu sắc một đạo lí: môi trường chính là tất cả; môi trường sáng tạo nên tất cả. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Ở Diên An bạn rất có thể sẽ trở thành người Cách mạng, ở vùng địch chiếm đóng, ai có thể đảm bảo bạn không phải là phái hai mặt phản Cách mạng đây? Tôi hi vọng tôi có thể sáng lập nên một "căn cứ địa Cách mạng đỏ" mới độc nhất vô nhị trên toàn huyện, hi vọng Trình Cương sẽ trở thành mảnh ruộng thực nghiệm của Cách mạng. Mùa đông đến, thành quả cho sự cố gắng của tôi lúc lỉu, Cách mạng của Trình Cương trong lạnh lẽo, trở nên sục sôi cuồn cuộn, như lửa như lau, như sao lửa bắn lóe khắp nơi. Trên tường ở khắp phố lớn ngõ nhỏ đều viết đầy những câu biểu ngữ và khẩu hiệu Cách mạng, những cây du, cây hòe, cây bồ kết, cây bào đồng, cây xoan, cây thầu dầu ở thôn trong thôn ngoài đều treo đầy những quả táo Cách mạng và quả lê Cách mạng (cành cây treo đầy những tấm lá nhựa mỏng, đều vẽ hình lê, táo, hồng, đào, hạnh, vân vân… trên những trái quả này hoặc ở bên cạnh những trái quả này đều viết những đoạn ngữ lục hoặc những lời nói của Mao Chủ tịch), sắc đỏ trong không trung múa lượn, trên phố vị đỏ tràn ra khắp nơi, ở dưới đất hoa đỏ đua nở, ở trong nhà bàn đỏ giường đỏ hòm đỏ. Đại dương màu đỏ sông hồ màu đỏ, dãy núi màu đỏ ruộng đồng màu đỏ, màu đỏ của tư tưởng, màu đỏ của trái tim, màu đỏ của đầu lưỡi màu đỏ của ngôn ngữ. Người họ Trương nhìn thấy người họ Lý nói: "Phê đấu tố giác - anh đã ăn cơm chưa?." Đáp: "Tiết kiệm làm Cách mạng - tôi ăn cơm rồi." Hỏi: "Phải phá tư lập công anh ăn cơm gì đấy?^ Đáp: "Không phá không lập - dê già, canh khoai lang." Nhà họ Trương đến nhà họ Lý mượn đồ, đẩy cửa bước vào nhìn thấy người: "Vì nhân dân phục vụ - chị, sọt nhà chị cho em dùng một chút." Người chị vội nói: "Chúng ta phải phát huy tinh thần Bạch Cầu Ân - cậu dùng đi, mới mua đấy, nâng niu nó tí." Nói: "Nhiều - nhanh - tốt - kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội - biết rồi, cảm ơn chị."

Trong những ngày tháng đó, nếu như bạn có cơ hội đi đến đại đội Trình Cương, bạn sẽ hiểu thế nào là "căn cứ địa Cách mạng đỏ của thời kì mới", người nào mới là "sáng mắt sáng lòng ý chí dâng cao." Ngày tôi được tuyên bố làm chủ nhiệm hội ủy viên Cách mạng thôn, sau khi quần chúng tản đi, trấn trưởng Vương bốn mươi lăm tuổi đầu húi cua gọi tôi đến một góc hội trường nhìn tôi, hỏi: "Cậu hai mươi tư tuổi rồi?" Tôi đáp: "Hai mươi lăm tuổi rồi, xuất ngũ một năm rồi." Nói: "Ái Quân, cậu giác ngộ rất cao, có tiền đồ Cách mạng, nhưng cậu nghe tôi nói hai câu, một là Cách mạng không cần đập đi chùa Nhị Trình, Bắc Kinh ngay đến một ngọn cỏ trên tường của Cố Cung cũng không dám động vào, cậu nếu như đập đi chùa Trình thì có nghĩa là đã đập nát tim của người họ Trình, có nghĩa là đã mất lòng dân, mất đi sự ủng hộ của nhân dân. Hai là nhất định không được quên làm Cách mạng vẫn phải thúc đẩy sản xuất, nông dân cần nhất là có cái ăn đó." Tôi nói: "Trấn trưởng Vương, chú yên tâm, chấu biết phàm là di sản Cách mạng Văn hóa chúng ta đều phải tận lực giữ gìn, cháu biết chỉ có làm Cách mạng mới có thể thúc đẩy sản xuất, Cách mạng là tiền đề, sản xuất là kết quả; Cách mạng là điều kiện, sản xuất là mục đích." Tôi nói như vậy trấn trưởng Vương kinh ngạc nhìn tôi, vỗ vỗ vai tôi nói: "Vậy cậu hãy Cách mạng cho tốt nhé, tổ chức tin tưởng cậu."

(Tôi không ý thức được rằng những lời này của ông ta là một âm mưu lật đổ Chủ nghĩa xã hội cực lớn mà ông ta vô thức để lộ ra, nhưng sau này, chính trí tuệ và sự thông minh của tôi đã vạch trần ông ta.)

Tôi biết Vương Chấn Hải, Vương trấn trưởng không hề hoàn toàn tin tưởng tôi (ông ta là người của cựu trấn trưởng Trình Thiên Dân), nhưng ngôn ngữ hành động Cách mạng của tôi đã chinh phục Vương trấn trưởng, Vương trấn trưởng đành phải như vậy với tôi. Ở Trình Cương, tôi sáng tạo ra các hoạt động "ba thống nhất" và "một giúp một", được tôi và Hồng Mai viết thành "Một trong những tài liệu về kinh nghiệm học tập trước tác Mao Chủ tịch của Trình Cương", gửi cho huyện ủy, ủy ban huyện, gửi cho "Nhật báo Cửu Đô" và "Nhật báo Hà Nam', không ngờ trên huyện còn chưa hồi âm, "Nhật báo Cửu Đô" và "Nhật báo Hà Nam" đã trong lúc xuân ấm hoa nở đăng cùng một ngày còn có thêm lời bình của người biên tập, gọi là "Kinh nghiệm của Trình Cương là tấm gương để giai cấp vô sản nông thôn toàn khu vực và toàn tỉnh học tập trong Đại Cách mạng Văn hoá", thế là, Trình Cương quả nhiên trở thành thửa ruộng thực nghiệm của Cách mạng toàn huyện.

Tháng ba năm đó, đại đội Trình Cương được ủy ban huyện mệnh danh là "đại đội tháp Hồng đăng" (lấy ý nghĩa Bảo Tháp Diên An), còn tôi thì được huyện ủy trao cho danh hiệu danh dự "Người tiên phong trong Cách mạng nông dân". Lá cờ gấm với hai mặt lụa đỏ chữ vàng, bất ngờ được treo trên phòng họp của đại đội. Đây chính là bằng chứng vĩ đại cho thành công đầu của tôi trong Cách mạng.

2. Dưới đống rơm lúa mạch

Cặp mâu thuẫn không thể giải quyết được chính là tinh thần Cách mạng của tôi và nỗi nhớ của tôi với da thịt Hồng Mai. Hồng Mai mỗi ngày đều xuất hiện trước mắt tôi, bởi vì nhiệt huyết của người phụ nữ trong em được khơi dậy sục sôi lên, bởi vì cá tính thiên bẩm muốn được xuất đầu lộ diện của em làm cho sau khi trở thành phó bí thư đại đội, vẻ u sầu như ẩn như hiện trước đây đã không còn đọng lại chút gì. Em càng trở nên xinh đẹp và động lòng người, hiên ngang mạnh mẽ như một cây súng có dây tua đỏ đầy hoa lệ, vừa không mất đi vẻ đẹp của đàn bà, lại vừa không mất đi sự giỏi giang nhanh nhẹn của người Cách mạng. Trong rất nhiều trường hợp, chúng tôi tâm đầu ý hợp, ngầm phối hợp đầy ăn ý. Mỗi lần trước khi họp, em và tôi đều đến hội trường trước để ăn cơm, trong phòng họp của đại đội, chúng tôi cố gắng nén lại khao khát được ôm ấp vuốt ve lẫn nhau, hôn hít và sờ mó lẫn nhau, khi nghe thấy tiếng bước chân, tôi trở về ngồi nghiêm chỉnh trên đài chủ tịch đơn sơ (trên chiếc ghế ở sau chiếc bàn gõ liễu), em thì đi bày mười mấy chiếc ghế dài chắc chắn. Khi tan họp, chúng tôi vốn có thể sau khi mọi người đã ra về làm cái việc hồn bay phách lạc đó, nhưng đại đội trưởng Trình Khánh Lâm và doanh trưởng dân binh Nhậm Hiền Trụ luôn sống chết phải nói chuyện với tôi đến lúc chót cùng, đưa tôi đến cửa nhà như thể cá không rời được nước (tình giai cấp, tình cá nước). Họ còn luôn luôn nhiệt tình quan tâm nói với Hồng Mai: "Bạn về đi, Đào Nhi đang chờ bạn ở nhà kìa." Hồng Mai đành bất đắc dĩ nhìn tôi, tôi nói: "Em về đi, trên đường cẩn thận một chút." Em đành phải rời đi. Người Cách mạng cùng chung chí hướng giống như cái bóng không thể nào vứt được, rất nhanh chóng ngăn cách được tình yêu của tôi và Hồng Mai. Có một lần, sau khi tan họp tôi nói rõ ràng: "Tất cả về đi, Hồng Mai ở lại chút, chúng ta cùng thảo luận một việc." Nhưng sau khi mọi người về hết, tôi và Hồng Mai vừa mới cởi áo, tôi vừa mới ôm lấy Hồng Mai đè xuống chiếc giường làm bằng ba chiếc ghế dài, trong sân đại đội lại có tiếng bước chân, mồ hôi lạnh liền túa ra đầy hai thân thể.

Tôi từ phòng họp đi ra: "Ai đấy?"

"Tôi. Thưa bí thư, là tôi." Một người là dân binh cốt cán đang đi đi lại lại trước cửa sổ nói.

Tôi nói: "Anh làm gì vậy?"

Người dân binh nói: "Doanh trưởng bảo tôi canh gác ở đây, nói tình thế phức tạp, tháng trước ở đại đội Đông Tiểu Đầu, có cán bộ họp xong về nhà bị người ta đâm một nhát dao. Nói tôi nhất định phải đợi anh và phó bí thư Hồng Mai bàn bạc việc xong để đưa hai người về tận nhà." Doanh trưởng dân binh, chiến hữu tốt của tôi, người anh em tốt của tôi, tôi hận không thể đá một phát vào đũng quần của cậu, cho các cậu mấy cái bạt tai. Trở về phòng hội nghị, Hồng Mai vẫn dưới ánh đèn chỉnh lại cúc áo, đầu tóc, mồ hôi hoang mang trên mặt giống như vừa mới rửa mặt xong. Đêm đó, ở dưới bức tường giữa cửa lớn và cửa sổ của phòng hội nghị, trong tiếng bước chân của người dân binh, chúng tôi đã nín thở đứng ở đó làm xong cái việc đó. Làm xong rồi chúng tôi đều không hề có cảm giác hồn tan phách tản, không hề có cảm giác khoái lạc dâng đầy, chúng tôi giống như vạn bất đắc dĩ phải tắm một lần trong nước bùn, tắm xong rồi lại càng cảm thấy bẩn càng cảm thấy phải tìm một chỗ nước suối tắm cho đã thêm lần nữa. Chúng tôi mặt đối mặt ngồi đối diện với nhau trên chiếc ghế dài, tay nắm lấy tay nghe nhịp bước chân của người cán bộ dân công cốt cán bên ngoài, em nói:

"Chúng ta thế này thì sẽ có ngày xảy ra chuyện lớn, sẽ bị người ta phát hiện. Tiền đồ Cách mạng của chúng ta sẽ bị chôn vùi mất."

Tôi nói: "Vậy em nói xem nên làm thế nào?"

Em nói: "Trước tiên hãy chịu khó không qua lại."

"Như vậy không được. Không được tí nào, em muốn để anh nóng lòng phát điên thành Trình Thiên Thanh mất sao." Tôi nói, "ngày mai anh chở em đến hang mộ cách mười tắm dặm bên ngoài."

Hôm sau, tôi cưỡi chiếc xe đạp duy nhất của đại đội đến sớm nửa giờ chờ em ở ngoài thôn. Nhưng lúc chúng tôi đến trước ngôi mộ đó, trong mộ đã đắp một cỗ quan tài mới rồi, cửa mộ bị gạch và đá lấp rồi. Sau đó, chúng tôi tìm thấy một ruộng hoa màu hẻo lánh. Rồi sau đó, chúng tôi vừa là một đôi người Cách mạng vĩ đại, vừa là hai kẻ ngoại tình hèn mọn. Vừa là một cặp giác ngộ, vừa là một cặp đắm chìm trong u mê. Tính toán tỉ mỉ ra thì trong những chuỗi ngày sau khi Cách mạng thành công mà tiêu chí được tính là việc Quế Chi chết, Trình Thiên Thanh điên, trên bến sông ở ngoại ô Trình Cương, trên những mảnh rừng, ruộng nương, trên đường đi họp, trong thung lũng khi kiểm tra sản xuất, nơi nào cũng đều in dấu sự hoan lạc và bi ai của chúng tôi, đều in dấu sự cao thượng và ti tiện của chúng tôi, đều in dấu sự hưng phấn và nhục nhã của chúng tôi. Ánh sáng Cách mạng chói lọi của chúng tôi giống như mặt trời chiếu rọi khắp những ruộng nương gò núi của đại đội Trình Cương, tinh dịch đê tiện của chúng tôi cũng chảy khắp mọi thôn cùng ngõ thẳm của trấn Trình Cương. Cuối cùng cũng đến cái ngày đó, đến cái ngày mà cán bộ ba cấp cơ sở do huyện tổ chức mở cuộc họp tại chỗ "Ba thống nhất" và "Một giúp một" ở ngay nơi thực nghiệm là đại đội chúng tôi, trưởng phòng tổ chức huyện ủy tìm tôi nói chuyện, sau khi tôi được kết nạp vào ủy viên Đảng ủy trấn không thoát li sản xuất, trong lòng tôi tràn đầy sự kích động và vui mừng vô hạn, sau khi tiễn tất cả các lãnh đạo, cán bộ đến tham quan Trình Cương chúng tôi ra năm chiếc xe tải đầu thôn rồi lại tiễn đoàn của Vương trấn trưởng, thành công mới làm tôi không thể nhịn được, nham thạch nóng chảy không thể không phun trào. Tôi không thể nhẫn nhịn được ngọn lửa Cách mạng đang thiêu đốt da thịt mình được nữa.

Tôi gọi Hồng Mai đến sân đập mạch của đội sản xuất số 9 ở đầu thôn. Ở đó cách trong thôn nửa dặm, ba mặt là ruộng tiểu mạch có xanh có vàng, một mặt là dốc núi của dãy núi Bả Lâu. Mặt dốc núi đó đã ngăn cách ruộng mạch và thôn xóm. Chúng tôi giả vờ đi kiểm tra biển "ba điều trung" ở đầu các ruộng, đi kiểm tra tình hình sinh trưởng và hạn úng của hoa màu, sau đó đến bên sân mạch. Ruộng đồng không một bóng người, con cừu non nhà ai đang gặm mạch phía xa, tiếng kêu be be vừa nhỏ vừa mềm vọng lại. Lúc đến bên sân mạch đó, tôi dừng bước chân lại, nhìn vào Hồng Mai đang mặc chiếc áo quân dụng chuyên để tiếp kiến các cán bộ đến thăm một cách nóng bỏng khát khao, dùng ánh mắt lột hết quần áo của em đến một chiếc cũng không để lại.

Em nhìn bốn phía nói: "Ái Quân, nguy hiểm đấy, không được đâu. Ngày mai đoàn tham quan thứ hai đến thôn rồi, bị người ta nhìn thấy thì tất cả công sức trước đây sẽ đi tong hết cả, tất cả đều gà bay trứng vỡ dấy."

Tôi nói: "Hồng Mai, anh trở thành ủy viên của Đảng ủy trấn rồi, Trưởng phòng Lý phòng tổ chức huyện ủy đã đích thân nói với anh như vậy, nói sau khi cuộc họp tại nơi thực nghiệm ta kết thúc thì sẽ tuyên bố, sẽ chính thức ra công văn."

Lúc đó em có chút kinh ngạc, có chút không tin, nhưng khi nhìn thấy mặt tôi đỏ hồng lên, tĩnh thần hưng phấn, em không nói gì cả, lui về phía ngoài sân mạch nhìn về phía xa, khi trở lại liền kéo tôi vào cái khe giữa hai đống rạ khô, tự mình vứt rơm ở trên đống rạ mạch xuống đất, lót làm chăn đệm, chẳng mấy chốc đã cởi hết quần áo ra.

Phiến rơm trắng bị em vứt xuống tỏa ra mùi cỏ dại ấm áp trộn lẫn mùi ruộng đất, mà mùi hủ mục trên những cọng rơm bị dầm mưa dãi tuyết của mùa đông cũng đang tràn ra từ trên cái lỗ mà em rút rơm vứt xuống, giống như em đã vì chúng mà mở toang ra cánh cửa sổ bị đóng kín suốt một mùa đông cô đơn, vị ẩm mục quen thuộc từ những cọng rơm tràn ùa đến, nhét đầy trong khe giữa của hai đống rơm. Trong không khí nóng bừng đó, chúng tôi giống như được ủ trong một chiếc chăn, hơi lạnh giao mùa của tiết đông xuân không còn nữa. Tôi đã rất lâu rồi không nhìn thấy em khỏa thân, mỗi lần chúng tôi vụng trộm, vuốt ve nhau đều phải vội vàng, gấp gáp, đều phải e dè và sợ sệt. Ngày hôm đó, trong đêm trước khi tôi sẽ trở thành ủy viên Đảng ủy trấn, niềm vui Cách mạng một lần nữa thắng lợi đã làm chúng tôi mê mẩn, khiến chúng tôi không còn cảnh giác, làm sự nhút nhát của chúng tôi biến mất. Ở đó chỉ cách thôn có nửa dặm, cách miếu Trình chỉ có 200 mét, chỉ cần đi vài bước rẽ qua dốc núi ngắn và thấp đó, sải một bước qua mặt cầu đá của con kênh là đã đến thôn rồi, là đến miếu Trình rồi. Thế nhưng, chúng tôi đã bất chấp tất cả. Em bất chấp tất cả, vứt tất cả quần áo dưới đống rạ mạch, đứng ở giữa khe hai đống rạ, giống như cái lần sau khi cởi hết tất cả đứng trong miệng mộ, thân thể trần truồng của em tỏa ra ánh sáng và hương thơm tinh khiết mềm mại, hai chân và mười chiếc móng chân đỏ đều vùi trong rạ mạch trên đất, ánh mặt trời dịu dàng quện dính hạ xuống trên thân thể tôi "Chúc mừng anh thăng chức, Ái Quân." Em nói, "công phu không phụ lòng người."

Tôi cởi cúc áo nói: "Đến ngày anh trở thành cán bộ nhà nước chính thức thoát li sản xuất, em tiếp tục làm bí thư, nếu như anh làm trấn trưởng, em sẽ làm phó trấn trưởng."

Em nói: "Anh đừng cởi cúc vội, anh nhìn xem em có gì thay đổi không."

Tôi dừng tay trên chiếc cúc, lại một lần nữa nhìn kĩ em, đột nhiên phát hiện ra trên cổ em có một tấm kỉ niệm chương tinh mỹ hình trái tim được đeo bằng một sợi dây đỏ, to như chiếc cúc, đang treo ở đường khe giữa hai vú em, làm người ta liên tưởng đến buổi sớm mùa đông mặt trời hồng đi lên từ sau dãy núi Bả Lâu. Tôi nói: "Kỉ niệm chương đeo ở đây có tốt không?" Em nói: "Đây chính là bùa hộ mệnh cho sự nghiệp Cách mạng của anh và em." Lại nói; "Anh còn phát hiện ra gì nữa không?" Tôi dịch ánh mắt mình xuống phía dưới một chút, lại phát hiện ra bụng dưới của em to lên, nếp gấp do đã mang thai từ trước nhạt hơn so với trước. Tôi có chút kinh ngạc.

"Em có bầu rồi?"

Em lắc lắc đầu, nụ cười trên mặt giống như một áng mây màu.

Tôi nói: "Em mập lên rồi."

Em hỏi: "Anh thích em mập hay em ốm?"

Tôi nói: "Đều thích cả."

Em nói: "Thích em mảnh dẻ như người trong thành phố thì em sẽ ăn ít đi một chút:

"Mập lên một chút cũng tốt." Tôi nói rồi vuốt ve nhè nhẹ lên bụng dưới em, cảm thấy sự mịn màng trên bụng dưới em nhanh chóng nảy lên, run rẩy lên dưới ngón tay tôi. Tôi cứ vuốt ve như vậy sắc mặt em bắt đầu nhợt nhạt, ánh mắt bắt đầu nóng bỏng lên. Tôi biết mỗi lần trước khi làm việc đó, em đều hi vọng tôi thưởng thức em trần truồng như thế này một chút, hi vọng tôi vuốt ve em một lúc, hi vọng tôi nói vài câu mà em thích nghe. Tôi nói: "Hồng Mai, em càng ngày càng làm động lòng người đấy, chỗ nào trên người em cũng giống như là ngọc." Em cười dịu dàng, mềm mại ngả về phía tôi, ngả theo tấm thân trần đã cởi hết quần áo của tôi trượt xuống tấm đệm rơm lúa mạch.

"Em cũng rất lâu không làm việc đó rồi", em nhìn bầu trời từ giữa khe của những cọng rơm líu la líu lo nói: "Nói thì anh không tin, Khánh Đông bị mắc căn bệnh đó, chỉ là đàn ông một nửa thôi, em từ sau lần điên cuồng trong mộ đó, không để cho Khánh Đông động vào người nữa, anh ta uống càng nhiều thuốc bắc, quỳ xuống bên em em cũng không cho anh ta chạm vào."

Tôi hơi ngây người ra, tôi nghĩ đến bộ dạng hôm đó Trình Khánh Đông đun thuốc ở dưới cửa sổ.

Em nói: "Anh ngơ ngác gì vậy, anh không lạnh sao?"

Tôi nói: "Khánh Đông thật sự mắc bệnh đàn ông đó sao?"

Em nói: "Anh ta ngày ngày uống thuốc bắc."

Tôi nói: "Cũng tốt, Qué Chi chết rồi, anh ta lại có bệnh." Vừa nói tôi vừa cởi hết quần áo trên người. Tôi biết lúc đó tôi nên nói câu cảm ơn em, nói lời cảm ơn em đã không để Khánh Đông chạm vào người. Nhưng tôi thấy em nói ra những câu nói đó, mỗi từ đều giống như chú chim sẻ nằm trên khuôn mặt đang trắng nõn ánh vàng của em, chờ đợi tôi đi trả lời em, làm cho những con chim sẻ kia bay đi, làm cho sự khát khao của chúng tôi lập tức được thỏa mãn. Tôi đã cởi hết quần áo của mình rồi, tôi không muốn nói gì nhiều, nham thạch núi lửa đã làm tan chảy đá xanh, đã đến lớp bề mặt của vỏ đất rồi. Tôi không thể nói thêm điều gì nữa, không kịp nói gì nữa. Sự nôn nóng làm tôi không có khả năng nói nữa. Ánh mắt nóng bỏng của tôi đã đốt nóng chỗ kín trên bụng dưới em, vùng bí mật ánh đỏ đen vàng đã hút hết ánh mắt của tôi vào đó. Trước tiên, tôi quỳ xuống dưới em, một đùi đặt vào giữa hai đùi em, một đùi đặt ngoài hai đùi em. Khi đầu gối tôi chạm vào rạ mạch, phát ra tiếng lắc rắc như bùng cháy, khi chạm vào chiếc đùi còn trắng hơn cả rạ mạch của em, toàn thân em run lên một chút, khiến cho con chim sẻ trên khuôn mặt em giật mình vỗ cánh bay đi, khiến cho khuôn mặt em lập tức từ sắc nến vàng nhợt nhạt chuyển thành màu hưng phấn đỏ bừng lên.

Em nói: "Ái Quân… bí thư… trấn trưởng, em sắp chết đây^ em sắp chết đây…"

Lời nói của em làm cho dòng máu đang phi nhanh của tôi càng điên cuồng như muốn xô ra huyết quản, muốn ào vỡ đê, xuyên qua da thịt. Tôi đã cảm thấy trên ngón tay, móng chân, trên tay tôi đều có huyết tương, nham thạch sắp phun ra. Tôi hoảng loạn, vội vàng thô bạo vạch hai đùi em ra, khiến cho đầu gối đang quỳ phía bên ngoài chân em di chuyển vào giữa hai đùi em. Khỏi phải nói, cái thời khắc làm tim người tan chảy, cái thời khắc làm tim người tan ra đến hẹn lại lên rồi; khỏi phải nói, tiếng kêu dẻo dai đỏ thẩm của em lại giống như chiếc cầu vồng bay bay trong bầu trời, lại chiếu rọi mặt đất và dãy núi, cổ vũ cho ý chí và tinh thần điên cuồng trong Cách mạng của chúng tôi, đương nhiên là như vậy. (Trời hỡi trời, đất hỡi đất!)Phía sau người chúng tôi có tiếng bước chân, hơn nữa tiếng bước chân đó cứ đi cứ đi rồi đùng một cái dừng lại, không đi nữa.

(Mây bay loạn, thông réo gào, đám người ào lên/ tiếng súng gấp, quân tình gấp/ Trên vai đè nặng ngàn cân/ mưa gió như đất trời đen tói/ từng chùm lửa bỏng đốt tim tôi…).

Tôi lập tức quay đầu lại.

Trình Thiên Thanh đột nhiên xuất hiện trên sân.

Đã khai xuân rồi, ông ta vẫn mặc chiếc áo bông đồng phục cũ (Lúc nhỏ tôi thường nhìn thấy ông ta mặc chiếc áo bông này trong túi trước kẹp một chiếc bút bi, kẹp bút ở ngoài túi phát ra ánh sáng), trên túi cài một cây cỏ. Mặt ông ta không quá bẩn, chỉ lá ánh mắt trắng nhiều đen ít nhìn tôi và Hồng Mai, sắc xanh kinh ngạc trên mặt dày như lá cây. Tôi biết sự tình không tốt rồi, giống như trên đường Cách mạng gặp phải kẻ địch mai phục. Hồng Mai ngồi dậy cùng lúc với khi tôi quay đầu lại. Và dường như cùng một lúc với khi ngồi dậy, em chụp lấy quần áo mình trong tay.

Chính thời khắc đó, cái thời khắc dài dặc như dãy núi mười dặm, Trình Thiên Thanh nhìn chằm chằm vào tôi, tôi cũng nhìn ông ta. Lúc đó trong đầu tôi là một vùng trống rỗng, không có bất kì một văn tự và một bức tranh nào. Tôi không biết làm thế nào để ứng phó với tình huống này, không biết sau này sẽ phát sinh những việc long trời lở đất, xoay chuyển càn khôn thế nào. Hơi lạnh từ gót chân tôi tỏa ra, lập tức truyền đến ngón tay và đỉnh đầu tôi, nhưng mồ hôi nóng lại rõ ràng treo trên chóp mũi tôi. Tôi tưởng là tôi sụp đổ rồi, xương cốt trên người đã mềm ra, nhưng Trình Thiên Thanh lúc đó đột nhiên quỳ rầm một cái trước tôi và Hồng Mai, đập đầu giống như giã tỏi nói:

"Xin tha cho tôi, tha cho tôi, con gái tôi đã chết rồi, các người nhất thiết không được bắn chết tôi… Tôi nhận tội, tôi nhận tội, được không? Nể tình tôi là Đảng viên già, trước giải phóng đã tham gia Cách mạng mà tha cho tôi một lần…"

(Ông ta thật là đã làm cho Đảng và các nhà Cách mạng lớp già mất mặt hết cả.)

Tôi thở phào một hơi, bắt đầu không hoang mang nữa mặc quần áo, nói một câu với Hồng Mai "không phải sợ", sau khi mặc quần áo xong rồi, cài cúc áo đầy đủ rồi, ung dung bước ra khỏi đống rạ mạch, đến trước mặt Trình Thiên Thanh vẫn đang đập đầu, đứng như là có núi Thái Sơn đè trên đỉnh đầu: "Ông nhìn thấy cái gì?"

Ông ta nói: "Tôi nhận tội, tôi có lỗi với Mao Chủ tịch, có lỗi với Trung ương Đảng, tôi dùng giấy trong sách của Mao Chủ tịch lau đít cho cháu thực sự là không cố ý…"

Tôi cao giọng noi: "Thầy của Quế Chi, tôi hỏi ông nhìn thấy cái gì?"

Ông ta vẫn không ngẩng đầu lên, vẫn áp đầu xuống đắt như nghiền tỏi nói: "Xin tha cho tôi, nể tình tôi trước giải phóng từng đưa thư cho bát lộ quân… Tội tôi đáng vạn chết, tội đáng vạn lần chết…"

Nói mãi nói mãi ông ta cũng không đập đầu nữa, mà quỳ ở đó tát liên hồi vào mặt mình.

Tôi nói: "Tha cho ông lần này, cho dù Quế Chi có phản Cách mạng thế nào, cho dù ông có phản Cách mạng thế nào, một ngày là vợ chồng ân nghĩa trăm ngày, tốt xấu ông cũng là ông ngoại của Hồng Hoa, Hồng Sinh, ông về nhà di." Ông ta không tự tát mình nữa, ngơ ngác ngẩng đầu nhìn tôi.

Tôi nói: "Đi đi, đi đuổi con cừu ở đầu ruộng mạch cho tôi."

Ông ta ngây ra lạy tôi một cái nữa, run rẩy đứng lên đi mất, đi về phía con cừu ở ruộng mạch phía xa.

Ông ta đi rồi, lúc tôi quay đầu nhìn Hồng Mai vẫn đứng sau lưng tôi, sự kinh hoàng vàng vọt vẫn mắc trên mặt em như chiếc rèm cửa sổ.

"Nếu như ông ta nói ra thì cả đời này anh em coi như xong rồi." Em nói.

Tôi nghĩ một hồi, nhìn theo phía sau lưng của Trình Thiên Thanh đang đi rất xa theo bờ ruộng hô: "Trình Thiên Thanh, nếu như ông không nhìn thấy gì, ông sẽ sống trên thế giới này; nếu như ông nhìn thấy gì, nếu ông nói ra điều gì, ông sẽ trở thành kẻ phản Cách mạng từ đầu đến cuối, sợ rằng Cách mạng sẽ không để ông sống trên thế giới này đâu."

Tôi tưởng là ông ta không nghe thấy điều tôi nói, nhưng ông ta nghe thấy, bước chân chậm lại, quay người lại, từ rất xa rất xa quỳ sụp xuống lạy tôi và Hồng Mai, rồi lại đứng dậy đi tiếp.

Trong ánh mặt trời đầu xuân, còn rớt lại vài sợi tơ se lạnh của cuối đông, gió từ trên dốc núi bên kia, từ trong mương nước thổi đến, lướt lành lạnh qua người chúng tôi. Trình Thiên Thanh đi rồi, nhưng sự sợ hãi còn rớt lại làm chúng tôi không còn hưng phấn để làm việc đó nữa. Chúng tôi ngồi trên con lăn đá ở trên sân mạch, nhìn đồng ruộng, nhìn con cừu bị Trình Thiên Thanh đuổi đi, nhìn những biển khẩu hiệu, biển ngữ lục hướng về phía đông trên mỗi mảnh ruộng, tay tôi và Hồng Mai xiết chặt lấy nhau. Em nói: "Ái Quân, phải nghĩ cách, làm thế nào để vừa không ảnh hưởng tới tiền đồ của anh và em, không ảnh hưởng đến hình tượng Cách mạng của anh và em, vừa có thể khiến chúng ta muốn ở bên nhau là có thể ở bên nhau, muốn làm việc đó là có thể bất cứ lúc nào cũng có thể cởi quần áo như vợ chồng làm việc đó."

Tôi không nói tiếp gì sau lời nói của Hồng Mai. Tôi thu ánh mắt của mình từ ruộng đồng phía xa trở lại, trong vô thức liếc qua cái khe giữa đống rạ mạch mà tôi và Hồng Mai vừa mới chui ra, từ cái liếc này một kế hoạch kinh hoàng, vĩ đại, hùng tráng, kì vĩ hiện ra trong đầu tôi.

Mây hé ánh hào quang chiếu rọi, cây sắt ngàn năm đã ra hoa. Tôi cảm thấy trong đầu tôi vang lên tiếng "keng", sau đó là một âm thanh cực to nổ ầm ầm, chính trong nháy mắt đó, kế hoạch vĩ đại, kì diệu, không thể tưởng tượng nổi đã thành hình thành dáng trong đầu tôi, ngày khởi công cũng đã có rồi.

3. Tư tưởng trên cây bào đồng

Tôi quyết tâm đào một đường hầm từ nhà tôi đến nhà Hồng Mai, làm cho chúng tôi không ra khỏi nhà cũng có thể gặp nhau làm việc đó như vợ như chồng.

Lúc kế hoạch này giống như ánh hào quang lóe lên trong đầu, tim tôi nhảy lên như điên một hồi, nhưng tôi không nói ngay với Hồng Mai. Có lẽ đây sẽ là một trang tráng mỹ nhất trong cuộc sống tình yêu của chúng tôi, không chuẩn bị kĩ càng mọi thứ thì tôi không thể dễ dàng nói ra. Nhưng sau khi kế hoạch này hình thành trong đầu tôi rồi, mỗi lần nghĩ đến, tôi liền sôi sục tâm can, máu nóng sôi trào. Tôi không lập tức thực hiện ngay kế hoạch này, tôi trước hết phải để cuộc họp tại chỗ của huyện tại đại đội chúng tôi thực hiện đâu ra đấy, viết xong ba bản tài liệu kinh nghiệm: một bản là "Ba thống nhất" làm tư tưởng của quần chúng được giác ngộ Cách mạng, một bản là "Một giúp một" một tuyến hồng, "một đôi hồng" một phiến hồng, bản sau cùng là "Suy nghĩ về việc chùa Trình rốt cuộc là tàn độc còn sót lại của phong kiến hay là di sản văn hóa" - bởi vì tất cả những người tham quan, sau khi xem kiến trúc trạm trổ rường cột, vẽ rồng vẽ phượng của chùa Nhị Trình đều cảm thấy đẹp đẽ nhưng lại không thích hợp, thậm chí rất nhiều gạch ngói xanh trên chùa miếu đều có đầu rồng đầu thú từ thời nhà Minh Thanh, điều này hiển nhiên cách một khoảng cách cực xa với yêu cầu đập cũ xây mới, làm thuần khiết môi trường mà Cách mạng yêu cầu. Tôi vô cùng muốn đập vỡ cái cổng đá Nhị Trình và cái chùa Nhị Trình đó, làm cho bão táp Cách mạng quét sạch tất cả trấn Trình Cương. Nhưng nếu như quả thật dùng bão táp làm lễ rửa tội cho nó, thì không chỉ không phù hợp với tỉnh lị đầu những năm sáu mươi ban hành quy định bảo hộ di vật văn hóa cấp tỉnh với nó, càng quan trọng hơn, đập đi chùa Nhị Trình, có nghĩa là đập vào đầu những người họ Trình chiếm đến ba phần tư nhân khẩu trong đại đội Trình Cương (Điều này cái ông Vương trấn trưởng chết tiệt kia đã nói đúng, tôi không thể làm mất đi cơ sở quần chúng ở Trình Cương vì cái chùa Nhị Trình này - nhân dân, chỉ có nhân dân, mới là động lực sáng tạo của lịch sử. Quần chúng là anh hùng chân chính trong phát triển xã hội, mất đi sự ủng hộ của quần chúng, chính là mất đi điều kiện căn bản nhất của Cách mạng. Cuộc chiến "Cổng đá Nhị Trình" chẳng phải là một bài học hay sao?) Tôi hi vọng trước khi tôi đập đi cái cổng đá Nhị Trình và chùa Trình, có thể có được văn kiện Đảng của cấp trên, hoặc là một thông báo miệng cổ vũ và bảo hộ cho tôi hủy diệt tất cả, đập vỡ tất cả thế giới xã hội cũ. Tôi trong "Suy nghĩ về việc chùa Trình rốt cuộc là tàn độc còn sót lại của phong kiến hay là di sản văn hóa" đã nêu ra chín tội trạng lớn của cổng đá Nhị Trình và chùa Nhị Trình:

(1) Sự tồn tại của cổng đá Nhị Trình và chùa Nhị Trình, cho thấy rõ lá cờ đen của "Lí học Trình chu' của Trình Di, Trình Hạo ngang nhiên tung bay trong sắc đỏ Cách mạng, nghĩa là ngang nhiên đối kháng với tình hình Cách mạng.

(2) Sự tồn tại của hai thứ này, thu hút rất nhiều người hành hương làm lễ, đầu độc tư tưởng của quần chúng nhân dân ở trăm dặm xung quanh.

(3) Làm gia tăng hoạt động mê tín (trước sau tết âm lịch không ngớt có những người trộm thắp hương, dâng đồ cúng).

(4) Trên mỗi viền gạch ngói của cổng đá và chùa Trình đều tỏa ra mùi tanh hôi độc hại còn sót lại của phong kiến.

(9) Đập đi cổng đá và chùa miếu, chính là phá hủy bộ tư lệnh và trung tâm chỉ huy của "lí học Trình Chu", đương nhiên sẽ làm cho ngọn cờ vĩ đại của tư tưởng Mao Trạch Đông tung bay phấp phới, tung bay vạn đời trên dãy núi Bả Lâu.

Sau khi phái người đem ba tài liệu này đi phô tô ra vài bản gửi đến huyện ủy rồi lại gửi cho nhật báo khu vực và báo tỉnh, thì đã làm xong bón thúc ruộng rồi, một bộ phận ruộng nước có thể dẫn nước đã tưới xong nước rồi, Cách mạng và sản xuất đều có một khoảng thời gian được nghỉ ngơi, tôi liền bắt đầu thực hiện kế hoạch hùng tráng kì diệu của mình.

Một ngày u tôi dẫn Hồng Hoa đi ra ngoài, Hồng Sinh đang đi học, tôi trèo lên cây bào đồng ở trong sân nhà, dựa vào tri thức căn bản về mở núi đào hầm mà tôi học được trong thời gian đi lính, hướng ánh mắt nhìn qua tán cây bào đồng, lấy cây du ở sau nhà Thạch Đại Cẩu làm cọc tiêu thứ nhất, lấy cây thầu dầu ở nhà Trình Thúy Phấn làm cọc tiêu thứ hai, lấy cây hoài già ở cửa nhà Trình Thiên Thanh làm cọc tiêu thứ năm, tôi dùng mắt đo khoảng cách thẳng từ nhà tôi ở phố Trình sau đến nhà Hồng Mai ở phố Trình trước chừng 550 mét, trong đó phải xuyên qua một góc sân Hậu Tiết của chùa Trình, xuyên qua nhà đội trưởng đội sản xuất thứ hai Thạch Nhị Cẩu và đi qua mười bảy nhà họ Trình và hai con phố Trình sau, Trình giữa. Nếu tính đường hầm rộng nửa mét, cao một mét, khối lượng đất đặc là 275 mét khối, nếu như tính tỉ lệ thấp nhất của khối lượng đất xốp tăng lên là 1:1.5, như thế khối lượng đất tơi xốp chính là 415 mét khối. Hơn nữa giữa 550 mét đường hầm, ở dưới phố Trình giữa đào một gian phòng nhỏ có thể đặt một chiếc giường, ước chừng 3 mét rộng, 3 mét dài, 2 mét cao, gian nhà hầm đó giống như gian phòng cưới của chúng tôi thì khối lượng đất đặc là 18 mét khối, khối lượng đất tơi là 27 mét khối. Như vậy, cho dù đường hầm thẳng tắp, không có chút sai sót nào, khối lượng đất đặc là 300 mét khối, khối lượng đất tơi là 450 mét khối. Nếu như tôi ban ngày làm Cách mạng, ban đêm làm sản xuất (đào hầm), lấy mỗi ngày đào được khối lượng đất đặc nhiều nhất là 0.7 mét khối, thì tôi cần phải mất 420 ngày để đào xong địa đạo tình yêu này. 420 ngày chính là gần một năm rưỡi. Thế thì, nếu trong một năm rưỡi này tôi phải đi công tác thì sao? Nếu như tôi phải tăng ca buổi tối ở Trình Cương thì sao (giống như ngày tam hạ bận rộn, hoặc học tập đoàn viên, tổ chức Đảng), nếu như tôi bị ốm mắc bệnh thì sao?

Nếu như tính toán không chu đáo, địa đạo đào bị hoãn lại thì sao? Cho dù nói, tôi lấy tốc độ đào nhanh nhất, mỗi đêm đào hầm không ngừng, cũng phải cần thời gian gần đến hai năm. (Trong hai năm này tôi còn phải nhất thiết đạt được một mục đích khác, đó là làm trấn trưởng.) Thời gian hai năm dường như vô cùng dằng dặc, dường như là những đêm dài dằng dặc không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng điều đó có đáng gì đối với một người Cách mạng đang được tình yêu thổi bùng lên? Chiến tranh chống Nhật không phải là đã đánh tám năm sao? Chiến tranh giải phóng không phải là đã đánh bốn năm sao? Tôi trong bốn năm phục dịch, không phải là đã đào hang một năm lẻ tám tháng ở trong hang núi sao? Chỉ cần có ý chí chiến thắng, thì sẽ không có khó khăn nào không thể vượt qua. Đây là lời nói của ai? Đây là những lời hào hùng hoành tráng mà tôi viết trong quân đội hay là những lời gấm hoa mà tôi đọc được trên báo chí? Người, làm người, người được tư tưởng Cách mạng vũ trang, người dũng cảm nhất, trí tuệ nhất, vô tư nhất, không có khó khăn nào không thể khắc phục, không có đỉnh cao nào không thể vượt qua, không có kì tích nào không thể sáng tạo. Thời khắc khó khăn nhất chúng tôi có mặt, cửa ải căng thẳng nhất có chúng tôi, nơi nào nguy hiểm nhất chúng tôi đi, nhiệm vụ gian khổ nhất chúng tôi đảm nhiệm. Không có máu, thì không có vinh dự; không có hi sinh, thì không có hạnh phúc; không có hùng tâm tráng chí, thì không có tiền đồ xán lạn, không có chân bám chắc vào mặt đất; thì không có hi vọng thành công. Cách mạng bắt đầu từ mưa gió, thu hoạch bắt đầu từ trong cần lao, niềm vui từ trong máu và mồ hôi mà tích lũy, hạnh phúc có được từ trong chính gian nguy. Ngẩng đầu lên, đi về phía trước, mưa gió vô hạn, xuyên vực khe, vượt gian nguy, thề không cúi đầu. Hãy tiến về phía trước, tương lai đang vẫy gọi! Cố gắng lên, kèn lệnh đã dậy vang! Phấn chấn lên, ánh bình minh đang chiếu rọi ngàn thu!

Thế thì, 450 mét khối đất tơi xốp sau khi đào lên thì đổ đi đâu?

Tôi quay người ở trên cây bào đồng, nhìn thấy ở sau nhà tôi, con mương bốn mùa nước chảy dưới đầu núi Trình Cương của dãy núi Bả Lâu. Nó có thể chứa bao nhiều vạn mét khối đất? Có đất nào mà không bị nước cuốn trôi đây?

Vài ngày sau, tôi đào một cái lỗ trên bức tường ở sân sau nhà, lắp lên một cánh cửa sổ đơn, trước cửa xây một cái chuồng lợn, mua về hai con lợn con. Cánh cửa sau và con đường nhỏ thông ra con mương sau thôn được chuồng lợn che khuất có thể xem như đã được khai thông.

Hôm bắt đầu phá đất đào hầm là sau nửa đêm của một ngày hạ tuần tháng tư, đêm đó đến 12 giờ trăng lưỡi liềm mới đủng đỉnh mọc lên. Khỏi phải nói, tất cả mọi quần chúng xã viên toàn thế giới đều đã ngủ rồi, ánh trăng như rắc một lớp sữa lên thôn trong thôn ngoài. Tôi đặt cửa hầm ở trong cái hầm khoai lang trong cái sân bỏ không ở phía sau nhà tôi, đem những thứ đã chuẩn bị trước như xẻng ngắn, sọt trúc, đèn bão, buộc móc câu sắt vào dây thừng, một đầu kéo về phía cửa hầm, một đầu ném vào trong hầm khoai lang, sau đó mặc lên người chiếc áo choàng trắng ngắn và chiếc quần cộc xanh mà chỉ có lính công trình lúc đào hầm mới mặc, theo miệng hầm trèo xuống, đặt đèn bão treo trên vách đất, nhổ nước bọt vào hai lòng bàn tay xoa xoa, quỳ trên đất, nắm lấy đấu, dùng sức nhấc một miếng đất hoàng thổ to như cái bát từ tay tôi rơi xuống. Mùi hương ẩm ướt của đất mới lập tức bao phủ lên mùi khoai lang tích trữ lâu năm trong hầm, còn có cả mùi hủ mục của lá rơi trong hầm. Bởi vì Cách mạng, đã rất lâu rồi tôi không làm những việc đòi hỏi sức lực; sau khi trở thành lãnh đạo cao nhất của đại đội Trình Cương, trong nhà ngay đến việc đi ra giếng gánh nước, chia gạo chia thức ăn ngoài ruộng đều có người đưa đến tận nhà, đặc biệt nửa tháng trước, sau khi tờ công văn ủy viên đảng ủy trấn được chuyển đến, thì ngay cả những việc nhỏ như quét sân, treo đồ lên tường đều do những người đến thăm, trò chuyện trong thôn thuận tay làm giúp. Dường như có thể giúp nhà tôi làm chút việc là một vinh dự của người trong thôn, giống như tôi khi còn ở bộ đội nhìn thấy nhân viên cần vụ bưng trà rót nước, giặt quần áo cho đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng thì trên mặt luôn treo một nụ cười ngạo mạn, tôi thấy những người trong thôn làm việc chọ nhà tôi, trên mặt đều treo sự thân thiết, nhiệt tình, ngoài ra còn có một thoáng cười tự đắc. Tôi biết, chỉ cần nói một tiếng, sẽ có rất nhiều xã viên đến giúp tôi đào hầm đến nhà Hồng Mai. Nhưng mà không thể, tuyệt đối không thể. Không chỉ là Cách mạng không cho phép, mà hành động này có khác nào đẩy chính mình đến phe đối lập của Cách mạng và đoạn đầu đài, làm mình trở thành kẻ thù truyền kiếp và oan gia của Cách mạng. Tôi đương nhiên không cho phép bất kì người nào giúp đỡ tôi. Tôi sẽ không cho phép bất kì người nào biết bí mật này. Đây là con đường và căn phòng bí mật mà tôi và Hồng Mai vĩnh viễn không bao giờ mở ra cho người khác, là sự thăng hoa và bằng chứng của ái tình thần thánh và vĩ đại của chúng tôi. Tôi đổ đầy đất vào hai sọt trúc, từ trong hầm trèo lên, dùng dây thừng kéo hai sọt bùn đất ra dưới ánh trăng, sau đó gánh từ bên chuồng lợn đi ra cửa sau, men theo con đường nhỏ đi về phía kênh nước dưới chân gò. Ánh trăng đã từ trên gò di chuyển đến đầu thôn, nóc đại điện Khởi Hiền Đường của sân Hậu Tiết chùa Trình và mái hiên hiện ra hiền hòa thanh thản dưới ánh trăng, giống như đang chầm chậm đu đưa lay nhẹ. Trên phố thỉnh thoảng có một hai tiếng chó sủa nhợt nhạt, giống như một hai phiến băng mỏng trong suốt từ trong không gian đêm trượt ra, sau đó đêm đầu hạ càng tỏa ra sự thâm thúy, mĩ lệ, kì lạ không thể nào nói được. Tiếng nước chảy từ con kênh vọng lên, giống như mứa nhỏ tưới lên trên ánh trăng, trong ruộng mạch và trên những ngọn cỏ nhỏ ướt đẫm sương dưới chân tôi. Tiếng kêu hoan hỷ của ếch và dế ngừng lại một hồi trong bước chân của tôi, rồi lại vô lo vô nghĩ dậy lên, phủ ngập lên bước chân tôi và tiếng kẽo kẹt của đòn gánh trên vai. Thế giới trở nên tĩnh lặng vô cùng. Tôi nghe thấy tiếng thở của dãy núi Bả Lâu trong sự tĩnh mịch đó, lại dường như là tiếng của rễ mạch đang hút nước và chất dinh dưỡng trong đồng ruộng.

Gánh đất đầu tiên được gánh tới bờ kênh, tôi lau mồ hôi, đổ hai sọt đất xuống kênh, lúc đứng dậy tôi nhìn thấy dãy trụ sở của ủy ban trấn sau giải phóng được che bằng mái ngói màu đỏ ở đầu bắc Trình Cương, bị ánh trăng chiếu vào, trở thành màu tím đen, giống như là ở trên mái ngói đó ngưng đọng một tầng máu.

Trong hai năm, nhất định tôi phải đào xong đường hầm tình yêu Cách mạng 550 mét, hơn nữa nhất định phải quét sạch những chướng ngại vật to nhỏ gài trong cuộc đời chính trị của tôi ở trấn Trình Cương, nhất định phải làm trấn trưởng trước sinh nhật lần thứ hai mươi bảy của minh, trở thành người lãnh đạo cừ khôi của trấn Trình Cương. Đêm đó, tôi đào được 0.8 mét sâu, đổ được 19 gánh đất xuống dưới kênh, nhìn 19 lần mái ngói của ủy ban trấn, tự mình nói 19 lần những từ nhất định, quyết tâm, sau khi gà gáy ba lần, đông phương tràn lên màu trắng sữa, tôi hướng về phía ủy ban trấn đái một bãi, rồi về nhà ngủ.