Chương 16 -
Lincoln Rhyme yêu thích những mảnh vải.
Khi được khâu lại thành quần áo, những dấu vết phức tạp trong đó sẽ hé lộ kích cỡ của thủ phạm, có thể cả tuổi tác, địa điểm kho hàng và thường là nơi mua hàng nữa. Nó có thể xổ sợi vải còn nhanh hơn cả một chú chó tha mồi lông vàng rũ bộ lông của mình. Thậm chí còn tuyệt vời hơn khi vải có thể giữ và lưu lại những bằng chứng dấu vết tuyệt vời và trong những trường hợp hiếm hoi là cả dấu vân tay nữa. Đó là chưa kể nó còn đóng vai trò miếng hút và cất trữ loại hoá chất tuyệt vời nhất, acid deoxyribonucleic. Còn được biết đến là ADN. Ba chữ cái mà Rhyme hay nhắc đi nhắc lại với các sinh viên theo học ngành tội phạm học của mình, là, đánh vần tin xấu cho thủ phạm.
Ngay lúc này, Rhyme đang theo dõi Mel Cooper xử lý chiếc áo khoác bị Nghi phạm 47 bỏ lại trong ống thoát nước ở Queens.
Họ biết chiếc áo là của hắn bởi nó có chứa dấu vết thuốc súng gần như giống hệt với hợp chất tìm được trên thi thể Weintraub và ở các hiện trường tại toà nhà Patel, quận Kim Cương. Cooper cũng phát hiện ra dấu vết của cùng loại bột đá tìm thấy tại cửa hàng Patel ở gần thi thể Weintraub: đá kimberlite. Dấu vết đang tỏ ra rất hữu dụng. Viên đạn va trúng viên đá đã làm thổi tung lượng bột đá đáng kể và những mảnh tí hon văng khắp cửa hàng Patel, một số bám vào hung thủ. Nó đóng vai trò như một chỉ dấu liên kết hắn với các địa điểm và cuộc tiếp xúc.
Quy luật Locard, được đặt tên theo tên của nhà tội phạm học người Pháp Edmond Locard, nói rằng trong mọi tiếp xúc giữa tội phạm và nạn nhân, hoặc tội phạm và hiện trường, luôn có sự trao đổi vật chất. (“Mọi mối tiếp xúc đều để lại một dấu vết”). Nếu nhà khoa học pháp y đủ khéo léo, và đủ thông minh, anh ta hoặc cô ta có thể tìm được dấu vết ấy và biết nó là gì. Tất nhiên điều đó không có nghĩa là nó sẽ dẫn bạn tới cửa nhà hung thủ, nhưng nó có thể là điểm khởi đầu hành trình của bạn.
Loại đá kimberlite này là một ví dụ điển hình cho quy luật Locard, nó đã trở thành đồng sự hữu ích trong cuộc săn đuổi nghi phạm của họ.
Rhyme hỏi, “Có vân tay không?”
“Không,” Cooper trả lời. Anh ta đã xem xét từng phân trên chiếc áo dưới đèn ALS rồi thử cả biện pháp lắng đọng kim loại vàng và kẽm mà đôi khi cho ra được dấu vân tay trên vải. Tuy nhiên, đó luôn là một cách làm hú hoạ với quần áo.
Rhyme bảo anh ta, “Đưa mẫu đến Queens để tìm ADN và TADN.”
“Đã yêu cầu rồi,” Cooper nói. Nhiều khả năng đâu đó trên chiếc áo sẽ có mẫu ADN. Mồ hôi hoặc nước bọt hay nước mắt, hay - không phải là chuyện gì hiếm có với các loại quần áo mặc ngoài - cả tinh dịch dính vào nữa. Nếu trường hợp này cũng vậy, hồ sơ ADN có thể sẽ được xác thực trên CODIS hoặc một cơ sở dữ liệu quốc tế và cho biết danh tính nghi phạm. Mặc dù vậy, ngay cả khi không có lượng dịch hay mô nào đáng kể trên áo, gần như chắc chắn sẽ có tế bào da, một thứ cũng được dùng để phân tích ADN chạm. Kĩ thuật này kém chính xác hơn tổng phân tích ADN - nó chỉ cần tới chưa đầy sáu tế bào da - và có thể cho ra những kết quả sai. Nhưng việc này không được dành cho phiên toà mà chỉ đơn thuần là một phương hướng trong lúc truy tìm danh tính thủ phạm.
Cooper nhét chiếc áo vào túi đựng vật chứng và vì anh chưa làm lúc nãy, giờ anh viết thêm tên mình vào thẻ ghi chú vật chứng nữa. Anh để nó ở bên trong cửa nhà, chờ đội phân tích ADN ở Queens đến lấy.
Nhãn mác của áo đã bị cắt - thông minh đấy. Ước chừng nó ở khoảng cỡ M dành cho nam. Đường chỉ cho thấy đây là loại sản xuất hàng loạt tại một quốc gia thuộc thế giới thứ ba. Có thể được bày bán trong hàng ngàn cửa hàng trên cả nước. Từ điểm này sẽ không có manh mối nào.
Trong các túi vật chứng, Cooper gom vào những sợi vải mà anh lấy được từ chiếc áo khoác, cùng với sợi vải bên trong túi áo - chúng làm bằng vải cotton đen, rất giống với những sợi tìm được ở cửa hàng Patel, rơi ra từ găng tay, và sợi polyester từ mặt nạ.
Cảnh sát Ron Pulaski gọi đến. Anh ta giải thích mình vẫn chưa tìm được người tên VL bí ẩn kia. Rhyme nhớ lại lời viên thám tử hãng bảo hiểm đã cảnh báo họ: sự miễn cưỡng của những người trong ngành kim cương khi nói chuyện với người ngoài. Cũng như xu hướng tự nhiên không muốn bị dính vào một vụ việc mà hung thủ sử dụng dao lẫn súng gọn ghẽ như vậy.
“Tiếp tục đi,” anh bảo Lính mới và họ cúp máy.
Việc VL từ chối liên lạc với cảnh sát rất khó hiểu. Đúng là cậu ta sợ phải trở thành mục tiêu của tên sát nhân, nhưng thông thường nhân chứng sẽ lập tức tới gặp cảnh sát để đòi được bảo vệ - và giúp bắt kẻ phạm tội. Anh cũng thấy tò mò vì không có người bạn hay người thân nào của cậu ta liên hệ với cảnh sát cả - chắc chắn cậu ta đã kể với ai đó về vụ chạm trán với thủ phạm này rồi chứ. Cậu ta còn trẻ và hẳn phải có gia đình.
Tất nhiên, còn cả khả năng cậu ta đã chết vì những vết thương do vụn đá gây ra. Dường như chúng không nghiêm trọng lắm nhưng Rhyme từng biết có những vụ nạn nhân bị thương do súng bắn có thể đi bộ và cư xử bình thường nhiều giờ liền trước khi gục ngã và chết.
Cũng có khả năng nghi phạm đã tìm được cậu ta, như hắn đã làm với Weintraub, giết và giấu xác cậu ta đâu đó. Nhưng trong cả hai trường hợp này, anh đều trông đợi nhận được một báo cáo người mất tích nào đó. Và việc điều tra của Cooper với các phân khu - dù nhanh - vẫn không nhận được báo cáo nào.
Kĩ thuật viên đang nhìn vào một chiếc kính hiển vi. “Dấu vết trên áo khoác: Lại là kimberlite. Và một ít vật chất từ thực vật nữa. Hai loại. Một từ lá và cỏ, tương tự với các mẫu so sánh Amelia lấy được từ ống thoát nước. Đúng thứ anh mong đợi. Nhưng còn một số vết đốm đặc biệt khác nữa.”
“Và chúng là gì?”
“Chờ chút.” Anh ta lật giở qua các hình ảnh cấp độ tế bào trong dữ liệu nghề làm vườn mà nhiều năm trước Rhyme đã tạo lập ở NYPD và đến nay vẫn còn giúp duy trì nó. Anh rất thích dùng cây cối làm chỉ dấu trong khám nghiệm hiện trường.
“Cái gì đó gọi là… Đúng rồi, tôi khá chắc nó là thứ được gọi là Coleonema pulchellum. Tức hoa giấy. Không phải loài cây bản địa của khu vực đó - mà tới từ Châu Phi - nhưng khá phổ biến ở đây dưới dạng nước khử mùi hoặc hỗn hợp nước thơm.”
Có thể thủ phạm gần đây đã tới một cửa hàng quà tặng. Hoặc hắn sống trong một căn hộ bốc mùi hôi?
“Vỏ đạn,” Rhyme hỏi.
Cooper quay sang hai vỏ đạn 9mm rỗng mà Sachs đã thu thập được. Anh ta đã được cấp chứng nhận của AFTE, Hiệp hội các nhà giám định Vũ khí và Công cụ. Bản thân những vỏ đạn, toàn bộ những viên đã cắm vào cơ thể Weintraub, sẽ được gửi tới một Văn phòng Giám định Y tế, sau khám nghiệm tử thi. Do tính chất khẩn trương của vụ án này, vị bác sĩ thực hiện giải phẫu sau tử vong đã chụp ảnh một viên và gửi hình cho Cooper. Phân tích ban đầu cho thấy nó cũng được bắn ra từ cùng khẩu súng được dùng ở vụ bắn người trong cửa hàng Patel. Không có gì ngạc nhiên vì dấu tích thuốc súng còn sót lại gần như giống hệt nhau; loại bột thuốc súng trong tất cả các viên đạn hẳn phải thuộc cùng một lô hàng của một nhà sản xuất.
“Có dấu vân tay trên vỏ đạn không?” Rhyme hỏi.
Cooper lắc đầu.
Cả chuyện đó cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
Cooper lướt qua danh sách các dấu vết và hợp chất nhỏ mà Sachs đã tìm được.
“Mạt cưa, dầu diesel, các kim loại đồng nhất với mối hàn. Dầu làm nóng, chất làm lạnh điều hòa. Rồi đến trichlorobenzene. Tôi không biết nó là gì.”
“Được dùng như một loại thuốc trừ sâu, tôi nghĩ vậy. Hoặc từng được dùng. Độc lắm. Tìm kiếm nó xem.”
Cooper đọc một đoạn cảnh báo về môi trường của chính phủ: “‘Trichlorobenzene có nhiều công dụng. Nó là chất trung gian - nền móng - để sản xuất ra thuốc diệt cỏ, các hợp chất hủy diệt hay ngăn chặn sự phát triển của cỏ dại. Nó cũng được dùng làm dung môi để hòa tan sáp, dầu mỡ, cao su, vài loại nhựa nhất định và là dung dịch điện môi*.’ À phải rồi, anh nói đúng, từng được dùng để kiểm soát mối.”
Một chất lỏng không truyền điện hoặc truyền rất ít
Dấu vết này cho thấy rằng nghi phạm của họ từng ở trong hoặc gần một nhà máy, các tòa nhà cũ, một tầng hầm, một trạm xăng hoặc địa điểm xây dựng nào đó. Một điều có thể ghi lại nhưng cũng không có gì đặc biệt hữu ích trong việc trợ giúp họ định vị hắn.
Cooper có điện thoại và nói chuyện vài câu, rồi anh đi đến chiếc máy tính ngay khi màn hình sáng lên, báo hiệu một email vừa được gửi đến. Anh ta nói vào điện thoại. “Nhận được rồi.” Anh cúp máy.
“Cái gì đấy?”
“Amelia đã cử đội thu thập bằng chứng EC mò mẫm quanh ống cống, nơi cô ấy tìm được chiếc áo khoác. Họ đào được mỏ vàng.”
“Và đó là gì?”
“Một chiếc thẻ Metro.”
“Thì sao. Có phải của hắn không?”
“Tôi nghĩ là phải. Nó ở đó chưa lâu,” Cooper nói. “Ướt nhưng không quá ướt. Giống chiếc áo.”
Từ năm 2003, chiếc thẻ Metro của Ban quản lý Hệ thống Vận tải Nội đô đã thay thế vé đi xe buýt và tàu điện ngầm. Rhyme yêu thích chúng bởi mỗi chiếc thẻ đều có số định dạng riêng, thế nên ta có thể xác định điểm xuất phát của tất cả những người đi tàu điện ngầm. Kết hợp nó với hệ thống CCTV rộng khắp của MTA và thuật toán nhận diện khuôn mặt của MTA, chúng ta thường có thể dự đoán khá chính xác nơi chốn và thời điểm người đó xuống tàu.
“Họ đang quét dữ liệu và gửi riêng.”
Tất nhiên Nghi phạm 47 sẽ không dùng thẻ tín dụng của chính mình để mua chiếc thẻ đó - nhưng nếu hắn đã dùng nó để đi lại - họ có thể kiếm được vài hình ảnh khuôn mặt rõ nét của hắn lướt qua một trạm dừng nào đấy.
Rhyme hỏi, “Có dấu vân tay, ADN nào trên thẻ không?”
“Không có. Có bằng chứng vết ấn găng tay vải.”
Một tiếng thở dài. “Còn gì khác trong ống cống không?”
“Không.”
Rhyme nhìn lên biểu đồ vật chứng. Các chi tiết được viết trên đó - và những chi tiết còn thiếu - chứng minh điều Rhyme đã biết: Nghi phạm 47 thông minh một cách khác thường, không bao giờ để lại dấu vân tay, vô hiệu hóa các máy quay, vứt bỏ áo khoác sau khi đã bị trông thấy, mang mặt nạ trượt tuyết hoặc tránh nhìn vào camera, thực hiện những nỗ lực dứt khoát để tiêu diệt nhân chứng và dọn dẹp sau vụ trộm.
Nhưng Lincoln Rhyme vốn đã quen với việc bị các tội phạm thông minh thách thức. Anh nghĩ về tên thông minh nhất mình từng phải đối đầu: Charles Vespasian Hale, được biết đến với biệt danh “Thợ đồng hồ”. Cái tên đến từ cả nỗi ám ảnh với các loại thiết bị chỉ giờ và thực tế những tội ác của hắn đều được lên kế hoạch với độ chính xác của một chiếc đồng hồ. Hắn là cả một cửa hàng lớn chuyên cung cấp những dịch vụ tội ác, sẵn sàng phục vụ cho bất kì ai có khả năng chi trả được phí phục vụ đắt đỏ của hắn - từ tấn công khủng bố cho đến giết người, bắt cóc, kể cả ăn cắp vặt và vô vàn những thứ khác. (Bao gồm cả vượt ngục, Rhyme nhớ là thế, cùng với nỗi oán hận luôn gợn lên trong anh mỗi khi nghĩ về Hale; hắn vẫn còn lởn vởn bên ngoài vòng pháp luật sau khi đã trốn thoát khỏi nhà tù mà Rhyme đã đưa hắn vào.)
Lúc này Rhyme nghe thấy Thom cho ai đó vào trong dinh thự, và Lon Sellitto rảo bước vào phòng khách, vừa đi vừa cởi áo khoác.
“Ngoài kia lạnh không chịu được. Ngớ ngẩn thật. Tháng Ba đấy. Anh đã bao giờ thấy một tháng Ba nào như thế này chưa?”
Rhyme thường phớt lờ các cuộc nói chuyện về thời tiết. Bây giờ anh cũng làm vậy và nói vắn tắt cho viên thanh tra biết về những tiến triển họ đã có được.
Sellitto nhăn nhó. “Tòa Thị chính sẽ không vui đâu. Chúng ta phải nhanh hơn nữa.”
“Hãy bảo tên Bốn mươi bảy hợp tác hơn tí đi.”
“Line. Chúng ta đã che giấu thông tin về S và VL với tay người Anh kia. Và một trong số họ đã chết. Hãy để ông ta hỏi hắn thay cho thân chủ. Anh nghĩ sao?”
Rhyme nhún vai. Đó là một trong vài cử chỉ ít ỏi mà cơ thể anh còn làm được. “Đến lúc này thì, chắc chắn rồi.”
Sellitto gọi số trên danh thiếp của Ackroyd và hỏi liệu ông ta có đến được không. Thanh tra cúp máy. “Sẽ qua đây sớm.”
Máy của Cooper lại vang lên âm thanh báo hiệu có email đến.
“Bên Giao thông. CCTV.”
Rhyme giải thích với Sellitto về thẻ Metro.
“Chết tiệt. Tốt quá.”
Hệ thống giao thông ở thành phố New York được hai cơ quan cảnh sát riêng biệt coi sóc. Cảnh sát quản lý giao thông nội đô chịu trách nhiệm hành pháp trên hầu hết các phương tiện giao thông ở mặt đất của toàn thành phố cộng với vài hạt ngoại ô. Còn Ban Giao thông của NYPD canh giữ các tuyến tàu điện ngầm.
Lời nhắn đến từ một sĩ quan của trụ sở Ban giao thông Brooklyn ở phố Schermerhorn, báo cáo rằng nó là một chiếc thẻ đi một chiều, mua bằng tiền mặt. Hắn đã dùng nó hai ngày trước. “Hắn lên tàu ở Brooklyn, trạm dừng gần Cadman Plaza. Họ không biết liệu hắn có chuyển tuyến hay xuống tàu ở đâu đó không, nhưng điểm khởi đầu là đi về hướng Manhattan. Và những chuyến tàu ấy sẽ đưa hắn tới phố 42 khá nhanh.”
Sellitto lẩm bẩm, “Khoảng cách đi bộ được tới cửa hàng Patel.
Một ngày trước vụ án mạng. Có thể là đang diễn tập, kiểm tra an ninh.
Cooper đọc thêm. “Người của bên Trung tâm Tội phạm Thời gian Thực (RTCC) nghĩ có thứ gì đó kỳ lạ mà chúng ta nên xem xét.”
NYPD là một phần của Hệ thống Cảnh báo Trung tâm, một hệ thống giám sát bao gồm cả dàn camera CCTV gần bảy ngàn chiếc trên toàn thành phố, hai phần ba trong số đó là của tư nhân và các công ty, nhưng họ đã cho cảnh sát quyền truy cập. Có hàng chục cảnh sát chịu trách nhiệm giám sát màn hình ở RTCC, đặt trong trụ sở One Police Plaza. Phần mềm này tinh vi đến mức nó có thể tự động phát hiện “hành lý khả nghi” hoặc xác định và lần theo những nghi phạm tiềm năng, chỉ với thông tin đầu vào ít ỏi như “cao mét tám, khổ người trung bình, áo khoác xanh nhạt”.
RTCC đã tải về đoạn video từ ga tàu điện ngầm trước và trong thời điểm thẻ đi tàu được quét.
“Kỳ lạ à?” Rhyme lẩm bẩm.
Cooper gõ và một đoạn phim xuất hiện trên màn hình, có màu và độ phân giải khá tốt. Độ rõ nét ở mức trung bình.
“Đây là người đi tàu.” Kỹ thuật viên chỉ vào hình người trên màn hình.
Có vẻ như hắn cũng tương tự với hình ảnh họ có về nghi phạm, trên phố 47, ngay sau các vụ giết người. Chiếc áo cũng có vẻ giống hệt với cái áo họ vừa mới phân tích. Hắn đội mũ len màu đen rất có thể là mặt nạ trượt tuyết gập lên. Và tất nhiên, hắn cúi gằm mặt trong lúc quẹt tấm thẻ đi tàu qua máy đọc thẻ.
“Còn đây là camera MTA đối diện với con phố bên ngoài lối vào tàu điện ngầm. Năm phút sau, khi hắn đang đi đến trạm.”
Cooper cho chạy đoạn phim mấy lần.
“Hắn đang làm gì vậy?” Sellitto lẩm bẩm. “Tôi không hiểu.”
Kỳ lạ…
Có vẻ như tên Bốn mươi bảy đang tiến đến lối vào trên một đường thẳng tắp thì đột ngột dừng lại, quay lưng và bước trở lại nơi hắn vừa đi từ đó ra. Rồi hắn lại đổi hướng một lần nữa, tiếp tục đi vào ga tàu.
Rhyme nói, “Ở kia có một thùng rác. Hắn quay lại để ném gì đó. Thứ đó là gì? Màu vàng. Hắn đang cầm một thứ màu vàng. Và da cam. Tôi thấy cả màu cam nữa. Nhưng cái gì mới được? Lại lần nữa.”
Cooper bật đoạn ghi thêm một lần nữa.
Chính Sellitto là người nói, “Hiểu rồi.”
“Cái gì?” Rhyme hỏi.
“Nhìn đằng sau hắn xem.”
A, Rhyme nghĩ và gật đầu. Anh cũng đã hiểu. Phía bên kia con phố là một công trường. Có mấy công nhân mặc bộ quần áo bảo hộ màu cam và đội mũ vàng. Cùng màu với thứ ở trong tay Nghi phạm 47.
Sellitto nói, “Hắn rời chỗ làm, đổi mũ trùm thay cho mũ bảo hộ. Hắn định vứt cái mũ và bộ quần áo nhưng không tìm được thùng rác nào ở phía trước ga tàu điện ngầm. Hắn quay lại và tìm thấy một cái. Rồi lại tiếp tục bắt tàu.”
“Hắn không phải công nhân - hắn đang mặc quần áo bình thường và không ai đang làm việc mà lại đem vứt mũ bảo hộ cả.”
“Tôi cá hắn đã ăn trộm cái mũ và bộ quần áo để lẻn vào công trường. Tại sao?”
Rhyme đoán, “Gặp ai đó đang làm việc ở đấy. Một khả năng.”
Sellitto nói, “Một khả năng khác: Ga tàu đó gần các toà nhà của chính phủ, đúng không nào?”
“Cadman Plaza,” Cooper nói. “Phố đó dày đặc CCTV - các toà nhà của cảnh sát, cơ quan liên bang, toà án, phòng hành chính. Để tới được lối vào ga tàu ấy bằng bất kì đường nào khác ngoài đi qua công trường, hắn sẽ phải đi qua cả tá máy quay.”
Sellitto lại đoán, “Hắn sống ở phía nam công trường?”
“Không, hắn không thể ăn trộm mũ bảo hộ và thẻ ra vào,” Rhyme nói, “mỗi lần muốn đi tàu điện ngầm. Tôi vẫn nghiêng về khả năng hắn đã gặp ai đó trong công trường. Có thể là đi lấy vũ khí? Nói chuyện với kẻ nào đó về việc bán số kim cương thô bị ăn cắp?”
Dù không còn nhiều như trong quá khứ, ngành xây dựng ở thành phố New York vẫn đầy những tay anh chị có liên quan đến tội phạm có tổ chức.
Sellitto gọi điện cho người giám sát RTCC và đọc cho anh ta số định danh của đoạn phim. Anh ta sẽ cho cảnh sát kiểm tra camera quay ra phố của các toà nhà xung quanh trong khoảng một giờ trước khi nghi phạm quét thẻ. Mục tiêu tìm kiếm là một người đàn ông khớp với mô tả chung, được khoanh vùng bằng chi tiết “người đội hoặc sở hữu một chiếc mũ bảo hộ màu vàng và mặc áo khoác da cam”.
Khi Rhyme nhìn Mel Cooper thêm những chi tiết mới nhất của vụ án vào một tấm bảng trắng, anh nghĩ: Tại sao? Tại sao mi lại làm việc này?
“Câu trả lời rất dễ,” giọng véo von của phụ nữ trả lời.
Rhyme quay lại. Anh không hề biết Amelia Sachs đã từ Brooklyn quay về. Hay chuyện anh vừa nói to lên câu hỏi. Anh hỏi. “Đó là?”
“Chỉ đơn giản là hắn bị điên.”