Chương 18 -
Tôi tưởng họ đã chết rồi, Rhyme.”
“Ai cơ?”
Sachs nói, “Mikey O’Brien. Emma Sanders.”
“Lại nhé, ai cơ?”
“Cặp đôi ở Gravesend.”
“Chết ư?”
Cô vừa về từ hai hiện trường: nhà Weintraub ở Queens và vụ tấn công ở Brooklyn. “Anh đã nói là các nạn nhân.”
“Tôi chỉ nghe cảnh sát khu vực bảo có một vụ bắn nhau. Hai nạn nhân, đội trưởng bảo tôi như vậy. Điều gì đó về chuyện thủ phạm đi theo họ từ một cửa tiệm trang sức.”
“Không phải, từ chỗ người đặt tiệc cưới.”
“À.”
Sellitto gật đầu với cô. Anh ta đang nghe điện thoại của các cảnh sát đi thẩm vấn ở Gravesend để tìm nhân chứng trông thấy thủ phạm. Viên thanh tra cầm điện thoại bằng một tay còn tay kia cầm chiếc bánh quy bơ. Anh ta bẻ cái bánh làm đôi rồi ăn nửa đầu tiên trước, sau đó, dường như đã đầu hàng nỗi cám dỗ, anh bắt đầu gặm nốt nửa còn lại.
Rhyme chẳng mấy để tâm đến việc lập hồ sơ tâm lý. Ngược lại, Sachs tự nhận mình là loại cảnh sát thiên về tìm hiểu con người và cảm thấy cơ chế tâm thần của tội phạm cũng rất hữu ích trong việc tìm ra chúng. Anh không hoàn toàn đồng ý với cô nhưng vẫn tôn trọng cô. Anh cũng tò mò về chuẩn đoán kia.
Điên rồ…
Cô giải thích với Rhyme và Cooper điều mà hai nạn nhân đã nói về cuộc trốn thoát của họ, việc tay họ bị trói nhưng chân thì không. Mikey đã đá thủ phạm và họ bỏ chạy. Hắn bắn một lần nhưng trượt. Đến lúc hắn bắt đầu đuổi theo họ, cô gái đã thoát ra ngoài và gào thét. Nghi phạm 47 đã không nán lại lâu mà chạy thoát qua cửa sau.
“Chắc chắn là cậu bé của chúng ta à?” Rhyme hỏi.
“Ồ, đúng vậy. Không nghi ngờ gì nữa: Nghĩ phạm 47 và Người hứa hẹn chỉ là một mà thôi. Ngay trước khi hắn định cắt lìa ngón tay cô gái, hắn giải thích tại sao lại giết cặp đôi ở cửa hàng Patel.”
Sau khi cúp máy, Sellitto nhìn lên. “Lại thoát ở Gravesend rồi. Báo cáo thẩm vấn không có gì cả.”
Rhyme nhún vai trước tin tức đáng thất vọng, rồi bảo viên thanh tra rằng Sachs đã xác nhận nghi phạm của họ thực sự là Người hứa hẹn.
Chuông cửa reo và Thom ra mở. Anh ta quay lại cùng Edward Ackroyd, chuyên viên tính toán bảo hiểm. Thom đón lấy chiếc áo khoác màu be từ ông ta - vì ông ta là người Anh, Rhyme nghĩ nó giống như một chiếc áo choàng, dù anh không biết người Anh có dùng cách gọi ấy không hay đã từng gọi như thế bao giờ chưa. “Trà nhé?” viên trợ lý hỏi.
Người đàn ông mỉm cười - có lẽ đã phán đoán trước về lựa chọn đồ uống của anh trợ lý - và từ chối, thay vào đó ông ta hỏi về cà phê.
“Túi lọc? Cappuccino?”
Ackroyd chọn loại sau.
Trợ lý treo áo khoác của ông ta lên và quay vào trong bếp.
“Cảm ơn vì đã đến,” Sellitto nói.
“Tất nhiên rồi.”
“Không biết ông đã xem tin tức chưa. Nghi phạm của chúng ta có một nhân chứng. Tên ông ta là Saul Weintraub. Ông ấy đã bị bắn chết.”
“Ôi không.” Ackroyd thở dài. “Ông ta có cơ hội nói gì trước khi chết không?”
Sachs nói, “Không nhiều. Chỉ bảo là ông ta không thân với Patel lắm. Tôi đã cử một chiếc xe tới đón ông ta, để thẩm vấn thêm. Nhưng…” Khuôn mặt nhăn nhúm của cô xác nhận kế hoạch này đã thất bại thảm hại thế nào.
“Làm sao nghi phạm tìm được ông ta?” Ackroyd thắc mắc.
Sellitto nói, “Chúng tôi nghĩ hắn có được tên ông ta bằng cách tra tấn Patel. Nhưng không có địa chỉ. Có rất nhiều Saul Weintraub trong thành phố này. Hắn đã điều tra một chút và lần ra được ông ta. Giờ còn một nhân chứng thứ hai mà chúng tôi chắc chắn là hắn đang lần theo. Chúng tôi nghĩ tên viết tắt của người đó là VL. Cậu ta còn trẻ, người Ấn Độ, có thể là trợ lý hoặc thợ học việc của Patel. Chúng tôi đang hi vọng ông có thể giúp chúng tôi tìm cậu ta. Trước khi nghi phạm tìm thấy.”
Sachs nói với Cooper, “Mở hình ảnh ra.”
“Băng ghi hình an ninh. Ngay sau khi cậu ta trốn thoát.”
Ackroyd nhìn vào hình ảnh mờ tịt ở cổng nhận hàng, nheo mắt nhìn gần hơn. “Đầu hoặc giữa tuổi hai mươi. Không cao lắm. Khoảng một mét sáu hoặc mét bảy. Gầy. Người Nam Á.”
“Tôi đang nghĩ,” Rhyme nói, “ông sẽ phải giữ bí mật. Có lẽ không nên nhắc đến tên viết tắt này khi dò hỏi. Chỉ cần hỏi về thợ học việc của Patel thôi.”
Người Anh gật đầu. “Vâng, tất nhiên rồi, đề phòng nghi phạm liên lạc được với một trong các đầu mối của tôi.”
“Có một điều nữa ông nên biết,” Sachs nói. “Hắn vừa mới tấn công một cặp đính hôn khác - ở Gravesend. Khu ngoại ô Brooklyn.”
“Chúa nhân từ, thật sao?” Ackroyd hỏi, thực sự ngỡ ngàng. “Sớm như thế sau vụ Weintraub ư? Có ai chết không?”
“Không. Họ sống sót. Không bị thương nặng.”
“Thật vậy sao?” Khuôn mặt người đàn ông người Anh nhăn lại. “À, tốt lắm. Tốt cho họ, tất nhiên rồi. Và cho chúng ta nữa. Họ có gì để nói không?”
Rhyme liếc sang Sachs, cô nói, “Chính điều đó đã đưa tôi đến chỗ nhận xét: hắn bị điên. Tôi nghĩ chúng ta đã có động cơ của hắn. Và nó chẳng liên quan gì đến chuyện cướp mấy viên kim cương thô để bán cả. Hắn đang cất chúng.”
Ackroyd gật đầu. “Cất trữ? Không phải chuyện khác thường lắm. Kim cương là khoản đầu tư chắc chắn và cách phòng ngừa lạm phát.”
“Không, không. Ý tôi là, giống như giải cứu một loài gặp nguy cơ tuyệt chủng vậy: giữ những viên kim cương tránh xa khỏi nhà máy chế tác nhẫn đính hôn. Hắn ăn cắp viên đá thô để giữ cho nó thuần khiết. Họ kể rằng hắn đã luyên thuyên về chuyện kim cương là trái tim của quả đất như thế nào và rằng cắt chúng ra cũng giống như cưỡng đoạt hay giết chết chúng vậy.”
Điên rồ…
Thom xuất hiện cùng một chiếc cốc và Ackroyd nhận lấy nó. Ông hớp một ngụm cà phê và khen ngợi viên trợ lý vì món đồ uống. Sau đó ông ta lắc đầu. “Giải cứu kim cương. ‘Trái tim của Trái Đất.’ Nghìn năm có một đấy. Vẫn luôn có những kẻ thần tượng kim cương nhưng lúc nào cũng là vì giá trị của chúng. Họ nghĩ rằng nếu có một cuộc chiến tranh hạt nhân hay nổi dậy nào đó thì họ sẽ có kim cương làm vật phòng thân. Cứ như thể sau cuộc đại thảm sát bằng hạt nhân thì điều đầu tiên con người muốn có sẽ là những món trang sức lòe loẹt vậy.”
Sachs nói thêm, “Và có vẻ hắn đã cố ý nhắm vào Patel. Hắn nhắc tới “người Ấn” mà hắn đã giết ngày hôm qua. Lão đã phản bội dân tộc mình, hắn nói vậy.” Sachs lật giở các ghi chép của mình. “Điều gì đó về chuyện kim cương là vật thiêng ấy.”
“Theo người Ấn Độ cổ đại, vâng, đó là sự thật. Với họ cắt kim cương là một tội chết. Người Hi Lạp và La Mã đã khởi xướng cắt và biến chúng thành đồ trang sức, nhưng chẳng bao lâu sau người Ấn Độ cũng gia nhập. Không ngạc nhiên khi giá trị tinh thần của những viên đá quý chỉ đứng hàng thứ hai so với giá trị thương mại và sự phù phiếm.” Ackroyd dường như trầm ngâm hẳn… rồi có vẻ khó hiểu. Ông ta hỏi, “Hắn có ám chỉ chỗ để những viên thô không? Nơi hắn sống? Bất kì điều gì khác về hắn?”
“Không có gì. Chỉ toàn là đe dọa và lảm nhảm. Họ có cho tôi vài chi tiết. Mắt hắn màu xanh nhạt. Trọng âm người nước ngoài nhưng có vẻ như hắn cố giấu nó, bằng cách nói giọng Anh-Mỹ. Ngữ pháp của hắn thì, tôi nói nguyên văn nhé, “lộn xộn”. Hắn hút thuốc. Họ ngửi thấy mùi đó. Và hắn có một vũ khí mới, hay chính là cái thứ hai. Một khẩu súng lục. Mikey biết về súng. Và tôi đã đào vỏ đạn ra khỏi bức tường. Bị hư hại nhưng không tệ lắm. Tôi chắc chắn đó là một khẩu ba tám.”
Sellitto nói, “Hắn đã vứt áo khoác sau khi giết Weintraub. Có thể đã ném khẩu Glock vào một thùng rác ở đâu đó. Hoặc một ống cống khác.”
“Tôi sẽ cử đội EC của Queens đi kiểm tra các đường cống khác,” Sachs nói và gọi sang trụ sở đội Hiện trường để sắp xếp.
Sachs và Cooper quay sang phân tích bằng chứng từ vụ tấn công ở Gravesend.
Các dấu vân tay cho kết quả không khả quan. Sàn nhà lót thảm nên cô không thể chụp ảnh dấu chân. Cooper lập hồ sơ dư chất thuốc súng từ các đồ đạc gần nơi thủ phạm đứng khi hắn nổ súng. Sachs cũng thu thập vài vật có nhiều khả năng đã liên quan tới thủ phạm hơn là Mikey và Emma, hoặc những vị khách ghé thăm căn hộ gần đây: những sợi vải thun màu đen, vài mẩu vụn món thịt bò xay và hai sợi tóc vàng. Tóc cùng với những miếng thấm mọi bề mặt hung thủ từng đứng gần đều được gửi tới phòng thí nghiệm chính để kiểm tra ADN.
Bản phân tích lời nhắn của Người hứa hẹn được gửi đến. Không thể truy theo cuộc gọi và chiếc điện thoại ẩn danh kia được mua bằng tiền mặt. Kết quả kiểm tra nhanh phát hiện ra câu đầu tiên được lấy từ một trang web kiến thức kiểu như Wikipedia.
“Khái niệm đính hôn dựa trên một lời hứa ràng buộc người đàn ông phải cưới hôn thê của anh ta. Giờ ta cũng có lời hứa. Ta sẽ tìm MI, ta sẽ tìm ở khắp nơi. Cứ mua nhẫn, đeo vào ngón tay xinh đẹp nhưng ta sẽ tìm ra mi và mi sẽ đổ máu vì tình yêu của mình.”
- Người hứa hẹn
Vì hắn trích nguyên văn câu đầu tiên, cách dùng từ và đặt câu không nói lên điều gì về hắn. Phần còn lại, giả thuyết là do nghi phạm tự nghĩ ra, chỉ đưa lại vài thông tin vụn vặt, về cơ bản là những điều mà Sachs đã khám phá ra: Tiếng Anh có thể không phải là tiếng mẹ đẻ của hắn - việc thiếu mạo từ hoặc từ bổ nghĩa (không phải “mua chiếc nhẫn đó*“) là cách nói điển hình của vài ngôn ngữ nước ngoài. Việc tách từ “mọi nơi”* thành hai từ cũng củng cố nhận định này, hay việc không viết tắt - chẳng hạn với “ta đang*” hay “ta sẽ*“.
Trong cơ sở dữ liệu NCIC*, hay bất cứ dữ liệu nào họ tiếp cận được, không có hồ sơ nào có hành vi tương tự như nghi phạm.
Ở bản gốc, nghi phạm đã viết là ‘Buy ring’ thay vì ‘Buy the ring’
Ở bản gốc, nghi phạm đã viết là ‘every where’ thay vì ‘everywhere’
Ở bản gốc, nghi phạm viết ‘I am’ thay vì viết tắt là ‘I’m” như người bản xứ hay viết
Ở bản gốc, nghi phạm viết là ”I will” thay vì viết tắt là “I′ll″ như người bản xứ hay viết
NCIC là viết tắt của National Crime Information Center, tạm dịch ‘Trung tâm thông tin tội phạm quốc gia’
“Người hứa hẹn,” Ackroyd lẩm bẩm. Trông ông ta như thể đang ước gì mình gặp một vụ đời thường hơn. Đặt cốc cà phê đã cạn xuống, ông đi đến chỗ mắc áo và mặc áo khoác vào. “Tôi sẽ xem mình có thể tìm được anh chàng VL lẩn lút này không. Chưa có ai đưa cho các vị manh mối nào à?”
“Không một người nào,” Sellitto nói.
Người Anh ra về. Rhyme kể cho Sachs nghe về tấm thẻ đi tàu xe và nhắc lại kết luận của họ rằng Nghi phạm 47 đã ở một công trường đối diện với ga tàu điện ngầm hai ngày trước - hoặc để đi tắt nhằm tránh các camera trong tòa nhà của chính phủ ở Cadman Plaza, hoặc, nhiều khả năng hơn là đi gặp ai đó tại công trường, có thể là một công nhân có mối liên hệ với thế giới ngầm để mua một khẩu súng mới, cỡ đạn.38.
“Tôi sẽ xuống đó xem xét. Chủ nhật thì Chủ nhật, ít nhất vẫn có bảo vệ.” Sachs lấy áo khoác và đi ra cửa.
Sau khi cô đi, Sellitto nhận được một cuộc gọi và nói chuyện một lát. Anh ta cúp máy. “Đoạn CCTV ngay trước khi anh chàng của chúng ta lên tàu điện ngầm. Hắn bị bắt gặp đi trên phố Hick, gần Pierrepont, cách đó hai dãy nhà. Đội mũ cứng và mặc áo dạ quang.
Chỉ đi bộ thôi. Một mình. Họ chỉ thu được có thế. Nhưng giờ hắn đã bị ghi lên hệ thống, gắn với địa điểm đó. Nếu hắn xuất hiện trở lại chúng ta sẽ được báo ngay.”
Rhyme gật đầu và lăn chiếc xe quay lại tấm bảng. Các mục trên đó cung cấp vài hướng đi, phần nào hữu dụng. Nhưng cái cảm giác không hài lòng một cách khó chịu mà anh đang có như một cơn sốt dai dẳng, nó nói với anh rằng vấn đề không phải là câu trả lời quá khó tìm, mà anh bắt đầu nghĩ họ đã không đặt ra đúng câu hỏi.
Chính lúc đó điện thoại của anh vang lên tiếng tin nhắn. Anh nhìn qua màn hình.
“Thom?” anh hét.
“Tôi ra ngay..
“Mang xe tải ra.”
“Đây. Xe tải á?”
“Phải. Mang. Xe. Ra.”
Sellitto nhìn anh. “Có manh mối à?”
“Không. Đây là chuyện khác.”