← Quay lại trang sách

Chương 22 -

Amelia Sachs đang ở Cadman Plaza, tại ga tàu điện ngầm, nơi người ta trông thấy nghi phạm bắt chuyến tàu tới Manhattan sau khi vứt bỏ mũ và áo bảo hộ lao động của hắn. Cô đã đi hỏi thăm các cửa hàng và nhà hàng gần đó, những nơi có tầm nhìn ra lối vào nhà ga. Nỗ lực suốt một giờ có vẻ vô ích. Không ai nhớ có trông thấy người nào vứt bỏ bộ đồ cả. Họ đã không ngờ đến chuyện này.

Có vẻ như công trường liên quan ít nhiều đến Nghi phạm 47 không phải là để sinh ra thêm một khu căn hộ hay tòa nhà văn phòng nào; nó là một dự án năng lượng công nghệ cao.

Cô đang quan sát khu công trường rộng mênh mông, bao quanh là bức tường bằng gỗ dán cao hai mét tư. Trước mặt cô là tấm biển lớn gắn trên hai cột gỗ.

NORTHEAST GEO INDUSTRIES

KHAI THÁC HƠI ẤM SẠCH CỦA TRÁI ĐẤT…

CHO BẠN VÀ GIA ĐÌNH BẠN

Bên dưới tấm bảng to là bảng nhỏ hơn, nền trắng toát với dòng chữ màu xanh lá như những đoạn dây leo. Các hình vẽ hoa lá và vạt cỏ được tô đậm. Tất cả toát lên âm hưởng sống xanh. Đoạn văn giải thích rằng bản thân Trái Đất đã là một cột thu năng lượng Mặt Trời khổng lồ, nó hấp thụ năng lượng từ Mặt Trời và duy trì một nhiệt độ ổn định, dù mặt đất có lạnh hay nóng. Nguồn năng lượng này có thể được rút lên để sưởi ấm hay làm mát các tòa nhà. Khu hạ tầng địa nhiệt đang được xây dựng ngay bây giờ sẽ làm đúng việc đó, phục vụ hàng trăm tòa nhà xung quanh. Các đường ống sẽ được chọc sâu xuống đất và giải pháp năng lượng sẽ được bơm qua chúng. Khi đường ống đó trồi lên mặt đất, chất lỏng đó sẽ chảy qua các thiết bị điều hòa để chạy máy làm mát hay lò sưởi.

Về cơ bản nó là một cái bơm nhiệt khổng lồ, tấm biển báo ghi rõ, thuộc loại mà các cư dân quan tâm đến môi trường sẽ dùng trong nhà của họ.

Giảm dùng năng lượng hóa thạch để sưởi hoặc làm mát không khí… Có vẻ như một ý tưởng hay với Sachs.

Nhưng rõ ràng là không phải ai cũng nghĩ vậy. Khoảng hơn ba mươi người phản đối đang đứng trên vỉa hè, giương cao những tấm poster chống lại việc khoan hút này. Một người cao lớn, gầy gò với mái tóc xoăn màu xám - và bộ râu tiệp màu - có vẻ như là người lãnh đạo nhóm. Từ các tấm poster và mác cài trên ve áo của mọi người, cô để ý thấy cuộc vận động được gọi là Một Trái Đất. Cô thắc mắc họ phản đối cái gì. Địa nhiệt dường như chỉ là một tiến trình thân thiện với môi trường như bao loại khác. Tuy nhiên, một vài poster có nhắc đến chuyện làm nứt mạch và ô nhiễm mạch nước ngầm.

Người đàn ông gầy gò bước lên chắn trước chiếc xe tải đang chất đầy cột. Anh ta khoanh tay và đứng yên tại chỗ. Đám đông còn lại hò reo. Mỗi lần lái xe tải bấm còi xua đuổi anh ta, những người phản đối lại rộ lên tiếng huýt sáo và vỗ tay.

Có việc cho cảnh sát tuần tra làm rồi, nhưng không có cảnh sát nào gần đó.

Sachs đi ra phố. “Thưa ông.” Cô giơ phù hiệu. “Ông có thể bước ra khỏi lòng đường không?”

“Không thì sao? Các cô định bắt tôi à?”

Tất nhiên đây là điều cuối cùng cô muốn làm. Việc đó sẽ dẫn tới một chuyến đi đến đồn cảnh sát địa phương, vì cô đã không còn mang sổ trích dẫn nữa. Nhưng chỉ có một câu trả lời duy nhất. “Vâng.”

“Các cô ăn tiền của chúng. Cả thành phố này đang nịnh bợ chúng.” Anh ta gật đầu về phía công trường.

“Thưa ông, ông không muốn vào tù vì việc này đâu. Tránh ra đi.”

Không phản đối lời nào, anh ta bước ra, và cô có ấn tượng là anh ta chỉ định chơi chiêu gây khó chịu như một vết muỗi đốt thôi.

“Tôi xem giấy tờ được không?”

Anh ta tuân theo. Anh ta là Ezekiel Shapiro sống ở thượng Manhattan.

Cô trả lời giấy tờ. “Xin đừng cản trở giao thông. Và tôi hi vọng cái hộp anh giữ trong túi áo là để sửa sang nhà cửa.”

Có vẻ như nó là sơn xịt. Cô để ý thấy những chỗ người ta đã phải cào lớp graffiti ra khỏi biển báo và các bức rào chắn.

“Chúng đang làm hỏng mọi thứ, cô biết chứ.” Anh ta nhìn công trường bằng cặp mắt hoang dại. “Tất cả mọi thứ.” Anh ta quay sang đám đông và rất nhiều người ôm anh ta cứ như anh ta vừa đối mặt với cả một đội quân.

Rồi Mẹ Trái Đất rời khỏi tâm trí cô và cô quay lại với công việc. Cô lôi chiếc túi thu thập bằng chứng nhỏ bằng vải đỏ ra khỏi cốp xe Torino đang đỗ gần đó và đi bộ tới lối vào ga tàu điện ngầm, nơi CCTV đã bắt được hình ảnh nghi phạm. Cô quay người, nhớ lại hướng đi của hắn, và tìm được thùng rác, nơi hắn đã vứt bỏ chiếc mũ và áo khoác. Không trống rỗng - từ đó không bao giờ áp dụng được với bất kì chiếc thùng rác nào ở thành phố New York - nhưng nó cũng đủ vơi để thấy là những vật kia không có bên trong.

Sau đó, cô phát hiện ra cánh cửa mà rất có thể hắn đã dùng để ra khỏi công trường. Những tấm lưới mắt cáo đang mở và có vài công nhân ở đây, đúng như cô đã hi vọng, bất chấp hôm nay là ngày Chủ nhật. Cô giơ phù hiệu của mình với một người có dáng vẻ gọn gàng, thận trọng trong bộ đồng phục bảo vệ tư nhân. Nước da rám nắng đậm đà của anh ta là minh chứng cho kỳ nghỉ tốt đẹp anh vừa mới có. Cô hỏi liệu có thể nói chuyện với người giám sát được không. Anh ta nhấc bộ đàm lên và nói rằng một thanh tra của sở NYPD muốn nói chuyện với ông ta.

Câu trả lời lạch cạch phát ra. “Ừ, được. Chờ tí. Bảo anh ta một phút nữa tôi có mặt.”

“Cô ấy.”

“Cái gì?”

“Là cô. Cô ấy là nữ,” bảo vệ nói và đánh cái nhìn kỳ cục về phía cô.

“Ồ. Là một cô hả. Chờ chút.”

Sachs nhìn khắp công trường. Dự án này - cô đoán ước chừng rộng khoảng mười hai ngàn mét vuông - không giống như hầu hết những thứ bạn thấy trong thành phố, toàn sắt đen đỏ đan cài thành nhà cao tầng vút lên bầu trời. Cô nghĩ nơi này sẽ giống một giàn khoan dầu hơn. Có một số lỗ khoan rộng khoảng sáu mét, dài bốn mét rưỡi, bao quanh là hàng rào màu xanh lá cao một mét tám; những tấm bảng đánh dấu chúng là Khu vực 1 đến 12. Trong số này, vài nơi nổi lên giàn khoan ở giữa cao khoảng bốn tầng nhà. Những điểm có rào xanh bao quanh khác dường như đang đóng cửa. Có lẽ việc khoan hút ở đấy đã hoàn tất.

Dù công trường không đông nhưng rất ồn. Các giàn khoan chạy động cơ dầu diesel ồn ã và xe xúc đất thì đi qua đi lại, nhặt nhạnh các mẩu gạch đá và thả chúng vào thùng rác với những tiếng rầm rõ to.

Giám sát viên đã hẹn một phút và ông ta rất giữ lời. Một người đàn ông thấp đậm, mặc bộ áo liền quần màu nâu đất hiệu Carhartt và áo bảo hộ màu cam tiến lại. Ông ta đeo kính phản quang sành điệu có phần gọng gắn liền với dây bảo vệ màu đỏ tươi, chiếc mũ vàng của ông được đẩy lên cao trên đầu.

Sau màn giới thiệu và bắt tay, giám sát viên - tên ông ta là Albert Schoal - liếc ra ngoài cổng nhìn vào chỗ những người phản đối. “Sao, lần này lại là gì?” ông quát vượt lên tiếng máy móc.

“Xin lỗi?”

“Lời khiếu nại ấy.”

Cô nhướng một bên lông mày dò hỏi.

Schoal hỏi, “Chẳng phải có người đã khiếu nại à?” Giọng ông rất mệt mỏi. Cả đôi mắt đằng sau cặp kính xám cũng vậy.

“Đó không phải lí do tôi có mặt ở đây. Sao ai đó lại muốn khiếu nại vậy?”

“Ồ. Xin lỗi. Đó là một trong những chiêu của họ. Ai đó gọi 911 - từ một quầy điện thoại trả tiền hoặc một cái di động cùi bắp, dĩ nhiên rồi - và nói rằng một trong các nhân viên của tôi đang bán ma tuý. Hoặc cởi đồ. Ai đó còn khiếu nại là người của chúng tôi đang giết bồ câu nhưng chẳng ai thèm quan tâm cái cục… gì hết.”

“Ai là ‘họ’? Trong câu ‘chiêu của họ’ ấy.”

“Những người phản đối. Nhóm tự gọi là Một Trái Đất ấy. Họ làm thế để phiền nhiễu chúng tôi.”

Cô nói, “Shapiro. Phải, tôi gặp anh ta rồi.”

Giám sát viên thở dài. “Ezekiel. Anh ta làm gì mà gây chú ý cho cô?”

“Ngăn một cái xe tải.”

“Ồ, chiêu yêu thích nhất của họ đấy. Cả trò Graffiti nữa. Và báo động giả. Thậm chí còn đốt vài thùng rác. Không gây thiệt hại gì nhưng khiến cho sở cứu hoả phải tới và chặn các phố.”

Mặc dù Shapiro đang ở cách họ một quãng, Sachs vẫn có thể thấy anh chàng gầy trơ xương kia đang tức giận. Anh ta toả ra sự hung hăng và lửa nhiệt huyết. Hai cánh tay vẫy vẫy, đầu ngẩng cao, anh ta bắt nhịp cho những người theo mình đọc một câu khẩu hiệu không nhận ra nổi.

“Vấn đề của họ là gì?” cô hỏi. “Rò rỉ ư? Tôi thấy một poster đề thế.”

Vẻ ghê tởm lướt qua mặt Schoal. “Ngớ ngẩn. Chúng tôi xây các đường nhánh địa nhiệt khép kín, gần mặt đất. Chúng tôi không bơm bất kì cái gì xuống đất. Chúng tôi không hút bất kì cái gì lên khỏi mặt đất. Toàn bộ giải pháp nằm trong các đường ống. Nó không hề rời khỏi hệ thống. Và xác suất nứt vỡ chỉ nhỏ như cái mông con gián. Đôi khi tôi nghĩ bọn họ chẳng hề biết tí gì về việc chúng tôi đang làm. Họ chỉ cần một cái gì đấy để phản đối. Kiểu như, ồ, hôm nay là Chủ nhật, tôi chán quá, hay là ôm lấy một cái cây và khiến đời sống của những con người làm việc chăm chỉ phải khổ sở xem nào.”

“Mông gián ư?”

“Dù sao, nếu không có ai báo cáo ba mớ lăng nhăng nữa thì tôi có thể làm gì cho cô đây, Thanh tra?”

Đầu tiên, cô hỏi liệu Schoal có đi làm ngày thứ Sáu không. Cô không định chia sẻ bất kì thông tin nào nếu có một phần khả năng ông ta chính là kẻ mà Nghi phạm 47 tới gặp. Nhưng Schoal không đi làm hôm đó. Thứ Năm và thứ Sáu là “cuối tuần” của ông ta.

“Tôi không phải quản lý cao cấp đến thế đâu.” Ông nói với nụ cười nhăn nhó. “Đó là lí do tôi phải làm việc vào các ngày Chủ nhật. Ngày Nghỉ ngơi. Ha!”

Cô giải thích với ông ta việc cảnh sát tin rằng một nghi phạm trong một vụ án mạng đã đi bộ ra khỏi công trường này vào chiều ngày thứ Sáu, mặc dù cô không kể gì về bản chất của các vụ giết người.

“Một trong số những người của tôi ư? Chúa ơi.”

“Tôi không nghĩ vậy. Có vẻ như hắn đã đi ra từ đây, đang đi bộ đến ga tàu điện ngầm thì chợt nhớ mình có mang mũ cứng và áo bảo hộ. Hắn đã quay lại, ném chúng đi và lên tàu.”

“Phải, không ai trong nghề này lại ném mũ đi cả. Áo thì có thể nhưng mũ thì không. Hắn đã làm gì ở đây?”

Cô cho ông hai giả thuyết. Một là dùng công trường làm đường tắt, để tránh các camera CCTV dọc Cadman Plaza - toàn là toà nhà của chính phủ. Hai là gặp ai đó trong công trường, có thể là để mua vũ khí.

Schoal nghĩ ý tưởng đường tắt không hợp lý. Lối vào cô vừa đi qua và một cái cổng khách, cách đó khoảng nửa dãy nhà dành cho xe tải, là những con đường duy nhất để đi vào trong này. “Về cơ bản cô vẫn phải đi ra từ cổng đã đi vào thôi.”

Còn về giả thuyết thứ hai, ông nói, “Chúng tôi kiểm tra người của mình khá tốt. Để loại bỏ ma tuý và rượu. Ý tôi là, ngành xây dựng của thành phố New York mà. Một vài người của tôi có thể có quan hệ và có vài khẩu súng để buôn bán. Không thể dùng máy dò kim loại khi mà ngày nào công nhân cũng vác đến mười cân dụng cụ theo cả.”

Cô liếc quanh công trường. “Ở đây ông có camera không?”

Chỉ có ở khu vực kho chứa đồ và các phòng dụng cụ thôi. Nơi nhiều khả năng bọn trộm nhắm đến. Nhưng chúng ở bên kia sân. Hắn mà ra từ cổng này thì máy quay sẽ không bắt được. Vậy, cô muốn làm gì, Thanh tra?”

“Thẩm vấn công nhân của ông, tìm xem có ai trông thấy hắn vào ngày thứ Sáu không. Tôi đã có mô tả sơ lược.”

“Chắc chắn rồi, tôi sẽ giúp cô. Chơi trò cảnh sát. Em trai tôi cũng làm trong ngành ở Boston. South Bay.”

“Tuyệt lắm.”

“Chúng tôi sẽ trang bị đồ cho cô. Reggie?” ông ta gọi một công nhân vừa đi ngang qua. “Mũ cứng và áo khoác cho quý cô đây.” Ông ngập ngừng. “Cho thanh tra. Cái áo không phải lựa chọn thời trang tốt nhất, nhưng quy định là quy định.”

Cô mặc chiếc áo da cam và đội mũ vào - sau khi đã buộc túm tóc lên. Thoáng nghĩ đến việc chụp một bức selfie để gửi cho Rhyme và mẹ cô.

Nhưng quyết định: Thôi.

“Làm thế nào hắn qua được chỗ bảo vệ mà không có thẻ ra vào hay biển tên?”

Schoal nhún vai. “Không khó lắm. Nếu ai đó mặc sẵn áo khoác và đội mũ, đi vào cùng một nhóm công nhân thì bảo vệ sẽ không chú ý đâu. Đó không phải là nguy cơ làm chúng tôi phải lo ngại: Cái chính là những chiếc xe tải xuất hiện ngoài giờ và bỏ đi với mấy cái xe ủi và những đoạn ống đồng trị giá mười ngàn đô kìa. Xin lỗi vì gọi cô là ‘quý cô.”

“Tôi từng bị gọi bằng những cái tên tệ hơn thế.” Cô lục túi bằng chứng và đưa ông ta bức ảnh chụp từ camera an ninh của MTA, tất nhiên nó chẳng cho thấy gì mấy. Áo khoác đen, quần đen, mũ len đen. Dòng chữ mô tả nghi phạm da trắng, khổ người trung bình và cao khoảng một mét tám.

“Thanh tra, chính xác thì gã này đã làm gì?”

Đôi khi bạn phải giữ mồm giữ miệng, đôi khi bạn cảm nhận được đâu là đồng minh. “Ngày hôm qua hắn đã giết chết ông chủ của một tiệm kim hoàn và hai người khác - một đôi vợ chồng - ở Midtown.”

“Chết tiệt. Người hứa hẹn. Chúa ơi. Thật kinh khủng. Đôi trẻ kia. Sắp sửa cưới nhau… mà hắn giết họ.”

“Chính là hắn.”

“Và cô nghĩ hắn mua súng từ người của tôi?”

“Đó là điều mà chúng tôi muốn tìm hiểu.”

Họ bắt đầu đi một vòng, nói chuyện với từng công nhân làm ca ngày Chủ nhật. Những anh chàng này - và cả vài phụ nữ - đều rất sốt sắng nói chuyện và không ai né tránh tiếp xúc mắt nhiều hơn mức bình thường, hoặc có cử chỉ khác cho thấy anh ta hay cô ta chính là kẻ mà Nghi phạm 47 đã tới gặp.

Sau nửa giờ không gặp may, họ đã nói chuyện với gần hết công nhân đang làm việc và Sachs đang nghĩ cô - hay Ron Pulaski - sẽ phải quay lại để gặp nốt những người khác vào ngày mai. Nhưng cô không thích việc họ phải chờ đợi. Cô chắc chắn rằng nghi phạm vẫn đang trên đường lần theo VL và tiếp tục cuộc săn của hắn với những người đã phạm phải tội lỗi kinh khủng là đeo lên ngón tay mình những chiếc nhẫn kim cương.

Nhưng chỉ một lát sau, cô có bước đột phá. Một công nhân người Mỹ gốc Phi cao lớn nghe cô tả rồi bắt đầu gật gù gần như ngay lập tức.

“Cô biết không, đúng là tôi có thấy ai đó ở đây vào thời điểm như cô nói, ngày thứ Sáu. Tôi tưởng anh ta đến từ bên tập đoàn. Anh ta không mặc áo Carhatt hay gì, chỉ có áo khoác đen, đội mũ và mặc áo bảo hộ.”

Tên của người công nhân đó là Antoine Gibbs.

Schoal nói, “Các quản lý ở trụ sở, họ tới công trường, nhưng hầu hết không mặc quần áo bảo hộ.”

Gibbs kể, “Vậy là gã này, anh ta đang nói chuyện với ai đó. Tôi đoán là một trong số chúng tôi - anh này thì có đi ủng và đang mặc bộ Carhartt. Họ nói chuyện, nhìn quanh rồi bỏ đi, về phía cột Bảy. Chuyện đó khá kỳ lạ, đáng nghi, tôi đoán vậy, nhưng tôi không nghĩ gì về nó vào lúc ấy.”

“Cột Bảy?” Sachs hỏi.

Gibbs chỉ một trong các giàn khoan nằm trong hàng rào xanh cao mét tám. Cái này không có trụ vươn lên ở giữa. Ngoài cổng chỉ có một tấm biển.

Khu vực 7

Khoan: 3/8-3/10

HDPE:4/3

Trát: 4/4

Trong lúc cả hai đi bộ đến địa điểm, Sachs hỏi người công nhân kia, “Anh có trông thấy mặt hắn không?”

“Không rõ lắm, không. Xin lỗi. Khá là giống dáng người trong ảnh cô cho tôi xem. Nhưng mặt thì không.”

Cô đang để mắt đến hàng rào xộc xệch.

“Họ vào trong được không? Có thể họ muốn làm việc gì đó khuất tầm nhìn.”

Gibbs nói với cô, “Nếu hắn có chìa khóa. Rất nhiều người có.” “Trong kia có gì?” Cô hất cằm về phía hàng rào.

Schoal trả lời. “Cọc và một hố bùn.” Ông ta nhận ra cô không hiểu nên giải thích thêm, “Cô thấy không, địa nhiệt hoạt động bằng cách bơm chất lỏng từ trên bề mặt xuống sâu hàng trăm, hàng ngàn mét rồi lại đẩy ngược lên.”

“Tôi đọc bảng quảng cáo rồi.”

“Bên PR viết ra đấy nhưng nó chỉ cho cô ý tưởng đại khái thôi. Bước đầu tiên là chúng tôi tạo các lỗ khoan - trong trường hợp này là sâu từ 1500 tới 1600 mét - vào lòng đất. Rồi chúng tôi cắm ống vào đó. Đường nhánh mà tôi vừa nhắc đến, về cơ bản nó là hai cái ống nối lại ở một đầu - gọi là HDPE, polyethylene tỷ trọng cao - để chất lỏng di chuyển tuần hoàn. Vì địa nhiệt chỉ hoạt động khi các ống tiếp xúc với đất nên chúng tôi đổ vữa dẫn nhiệt xuống lỗ sau khi đã chôn ống. Ở Khu vực Bảy này có hai mươi lỗ khoan như vậy. Chúng tôi đã khoan xong cả nhưng chưa có lịch cắm ống trong mấy tuần tới - đến ngày mùng ba tháng Tư cơ. Nó sẽ đóng cửa đến ngày đó.”

Cô nói với giám sát viên, “Vậy là không có ai làm việc ở đây và họ có thể nói chuyện một cách bí mật. Ông mở nó ra cho tôi được không?”

Schoal hỏi Gibbs, “Hố bùn thì sao?”

“Chưa vét sạch hết.”

Ông ta quay sang Sachs, “Để ý bước chân nhé. Cách chúng tôi khoan là đẩy nước xuống bằng một mũi khoan, còn bùn đất lại được hút ngược lại và thảy vào chỗ chúng tôi gọi là hố bùn. Dần dần nó sẽ được dọn dẹp và các viên gạch đá được mang tới bãi thải nhưng bên trong khu vực Bảy thì chưa đâu. Đang bẩn thỉu lắm.”

Schoal lôi một chiếc chìa khóa trong thắt lưng ra và mở cổng. Sachs đi vào trong, nói thêm, “Ông chờ ngoài này được không?”

Ông ta gật đầu dù không hiểu tại sao, theo như biểu cảm trên mặt.

Cô giải thích, “Tôi không muốn làm sai lệch bất kỳ bằng chứng nào ở nơi có thể họ đã đứng.”

“À, phải rồi, phải rồi, chắc chắn rồi. Mấy vụ hiện trường nhỉ. Chúng tôi đều xem trên tivi rồi, vợ tôi và tôi. Rất thích. Các cô có thể bắt được một con bướm từng có mặt ở hiện trường án mạng rồi tìm được ảnh hung thủ trên đôi cánh chết tiệt của nó. Quá sức kinh ngạc. Cô làm thế bao giờ chưa?”

“Chưa từng.” Sachs nhắc mình phải kể cho Rhyme nghe chuyện này mới được.

Cô đeo găng tay và buộc thun vào giày - để phân biệt dấu giày của mình với nghi phạm - để mặc cho ông giám sát tự rút ra kết luận của riêng mình về công cụ khám nghiệm hiện trường hiện đại đó.

Cánh bướm…

Nhưng khi đã vào bên trong, cô mới phát hiện nơi này vô dụng - hơn cả vô dụng, rồi cô cười khi nghĩ về lỗi mâu thuẫn ngữ pháp mà Rhyme yêu thích đó. Kiểu “cực kỳ độc đáo”.

Hay đúng hơn là nó còn không bằng vô dụng?

Vấn đề về mặt hiện trường ở đây là mặt đất bên trong toàn sỏi và đá, chúng không để lại dấu chân, nên cô không biết nghi phạm và người công nhân kia có thể đã đứng ở đâu - đấy là nếu họ có đứng thật.

Tuy nhiên, cô vẫn dùng hai tay đã đi găng để nhặt lên khoảng mấy lạng đất đá từ chỗ mà theo logic họ có thể đã đứng - gần cánh cổng - và cho chúng vào túi đựng bằng chứng.

Trung tâm của Khu vực 7 là hố bùn: một cái mương kéo dài từ đầu này đến đầu kia hàng rào. Nó rộng khoảng bốn mét rưỡi, bao quanh là lối đi bằng đá rất hẹp. Bên trong mương y như Schoal đã mô tả: một cái hồ đầy bùn, màu nâu và xám xịt, bề mặt vẩn lên váng dầu hay các hóa chất khác. Một cái thước màu vàng chọc lên từ chính giữa, cho thấy hố này sâu hơn một mét tám. Mùi hỗn hợp đất ẩm và dầu diesel nồng nặc bốc lên.

Những thứ bẩn thỉu.

Một tá các cột địa nhiệt khác, có đường kính khoảng ba mươi xăng ti mét cũng nổi lên từ vũng bùn. Chúng được bịt bằng những túi nhựa. Cạnh hố có một chiếc máy trông giống máy trộn bê tông nhỏ, có thể là để đổ vữa vào cột địa nhiệt sau khi người ta đã cắm ống,

Lối duy nhất để băng qua hố là đi trên những cái ván bắc ngang nó, giữa các cột… và phải đi rất cẩn thận. Tấm ván chỉ rộng độ hai mươi lăm phân và vì chúng dài tới hơn năm mét, có vẻ như chúng rất bập bênh.

Sachs tự hỏi liệu tên nghi phạm có đi lên một trong những tấm ván này để sang bên kia không. Có một cửa sổ trên hàng rào ở đằng xa, cao ngang đầu người. Sẽ hợp lý nếu nghi phạm đi qua đó và nhìn ra ngoài để xem đã an toàn để đi ra chưa. Chẳng hại gì nếu cô lấy vài mẫu đất ở bên dưới cửa sổ đó về.

Cô nhìn tấm ván gỗ không chắc chắn.

Lắc đầu. Đôi khi công việc dễ dàng. Đôi khi không.

Rồi cô cười với chính mình và nghĩ: Mà chính xác thì khi nào công việc dễ dàng ấy nhỉ?

Cô bắt đầu đi qua tấm ván, bước thật cẩn thận, từng chân một, trong lúc chiếc cầu hẹp nảy lên nảy xuống. Ở đầu bên kia, cô nhặt vài viên đá và đất ngay dưới cửa sổ và bắt đầu quay lại.

Cô mới đi được nửa đường thì thế giới thay đổi.

Mặt đất quanh cô rung lắc dữ dội và cô nghe thấy một tiếng rầm rì từ sâu bên dưới. Chuyện quái gì thế này? Một cái trục bị đổ, một trong những tòa nhà đang xây sụp xuống, hay máy bay lao xuống gần đây.

Giọng Schoal đằng sau lưng cô, ở một tông cao hơn lúc nãy rất nhiều, ông ta hét lên, “Chúa toàn năng ơi.”

Trong lúc còi báo động của ô tô bắt đầu hú và mọi người gào thét, Sachs vật lộn để đứng thẳng. Tấm ván nảy dữ dội, để ngăn mình khỏi ngã cô buộc phải thụp xuống thật nhanh và mạnh trên một đầu gối, bên yếu - à, bên yếu hơn - của mình. Cơn đau thấu gan dâng từ mạng sườn lên đến cằm cô. Tấm ván võng xuống dưới sức nặng của cô nhưng lại bật lên và hất cô ra như một cầu nhảy lặn ở bể bơi. Hai tay chới với, Amelia Sachs rơi xuống bùn. Trong một giây trước khi ngã xuống, cô điên cuồng vặn người để ngửa lên trời, hòng tìm được hơi thở sau khi ngã xuống.

Nhưng động tác xoay không hiệu quả và cô vẫn úp mặt vào đống bùn nhão màu nâu xám, nó từ từ hút chặt cô xuống.