Chương 35 -
Ba giờ chiều.
Đây là giờ hẹn của Lincoln Rhyme và người đàn ông đã nhắn tin với anh ngày hôm qua sau cuộc gặp với Edward Ackcroyd. Cả hai đã hẹn sẽ gọi điện thoại.
Và cuộc gọi này là với một điệp viên thật, chứ không phải hạng xoàng.
Lincoln Rhyme có quan hệ với giới tình báo Hoa Kỳ. Đây là mối quan hệ qua lại, không thường xuyên nhưng không thể chối cãi được.
Lí do anh không thể tham dự vào vụ El Halcón - trùm ma túy Mexico bị xét xử ở tòa liên bang vì tội hành hung, giết người và tấn công - là vì một cuộc gặp ở Washington, D.C., để hỗ trợ cho một cơ quan an ninh mới của Hoa Kỳ.
Rhyme và Sachs mới tiếp xúc với tổ chức này trong một vụ gần đây. Họ và Cục Tình báo Thay thế (AIS) đã đụng độ nhau trong một chiến dịch bí mật mà AIS tiến hành ở Naples, Ý. Kết quả là, Rhyme và Sachs đã cứu vãn danh tiếng của họ - cùng với vài nhân mạng trong quá trình làm việc đó. Giám đốc của Cục đã ấn tượng với công tác khám nghiệm hiện trường đến mức ông ta đã cố chiêu dụ họ.
Nhưng làm việc cho AIS sẽ liên quan dính dáng đến kha khá chuyến công cán nước ngoài. Xét đến những hạn chế về sức khỏe của Rhyme, anh không thể cam kết với họ, bất chấp những nhiệm vụ hấp dẫn mà tổ chức hứa hẹn. Bên cạnh đó, thành phố New York cũng không thiếu các vụ án đầy thách thức. Tại sao phải đi câu cá nơi khác? Đây cũng là nhà của anh và của Sachs. Tuy nhiên, anh đã rất sung sướng khi được đến DC, giúp AIS thành lập một bộ phận mới dùng khám nghiệm hiện trường và các bằng chứng vật thể làm nguồn lực tình báo.
Trong cuộc họp đầu tiên ở DC, một trong các nghị sĩ liên quan đến việc hình thành và tài trợ cho AIS đã nói, “Rất mừng vì hai người ở đây, Đội trưởng Rhyme, Thanh tra Sachs. Chúng tôi biết các vị có thể giúp chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ định tham số cho một nguồn động lực mới trong phân tích tình báo và vũ khí hóa dựa trên bằng chứng.”
Nếu là lúc khác, Rhyme hẳn sẽ lao vào một màn ứng khẩu về chuyện dùng từ dông dài và biến “tham số” thành một động từ, nhưng lúc này anh tự nhủ mình đang ở trong Beltway và chỉ việc lờ đi mấy câu nhảm nhí. Ý tưởng rất thông minh: Bộ phận mới này sẽ thu nạp các kỹ năng khám nghiệm hiện trường và phân tích trong phòng thí nghiệm để thu thập và phân tích tình báo… và đúng là để “vũ khí hóa” bằng chứng.
Cần phải xác định danh tính một gián điệp bên trong lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Frankfurt, trong khi tất cả mọi người đều đã vượt qua được máy phát hiện nói dối ư? Chỉ cần tìm ra tay nhân viên có mang một phân tử dấu vết bằng chứng dư chất ở cấp độ phân tử khớp với phân tử dấu vết bằng chứng dư chất trong Generalkonsulat der Volksrepublik China* là được.
Trung tâm tiếp nhận đơn xin cấp thị thực vào Trung Quốc
Cần hạ một đội sát thủ Bắc Triều Tiên ở Tokyo? Chỉ cần mang đến chỗ Keiji-kyoku* của Nhật các dấu vết bằng chứng dư chất và dấu giày cho thấy chúng mang theo vũ khí bất hợp pháp, vậy là xong, chúng sẽ vào tù - một thời gian rất, rất dài. Như vậy nhân văn hơn nhiều là dùng bắn tỉa. Và quan trọng hơn, ai đó chứ không phải chính phủ Hoa Kỳ sẽ thực hiện công việc bẩn thỉu.
Cục tội phạm hình sự của Nhật Bản
Tên của bộ phận này là EVIDINT thuộc AIS, một từ do chính Rhyme ghép lại. Viết tắt của “tình báo vật chứng” (evidence intelligence). Nói theo kiểu tình báo. Giống như HUMINT, tình báo con người. Hay ELINT, tình báo điện tử.
Chính Daryl Mulbry, giám đốc AIS, là người Rhyme gửi tin nhắn cho khi Ackcroyd bảo anh rằng Nghi phạm 47 là người gốc Nga. Mulbry đã hẹn gọi điện lúc ba giờ chiều.
Rõ ràng là tình báo gắn liền với sự mau lẹ, lúc 3 giờ 0 phút 2 giây, điện thoại của anh đổ chuông.
“Lincoln, chào!” Rhyme nhớ lại người đàn ông da trắng, nhẹ nhàng với mái tóc thưa có màu nâu nhạt. Căn cứ vào giọng địa phương, gốc gác ông ta là từ vùng Carolina hoặc Tennessee. Khi Rhyme mới gặp lần đầu, anh đã nghĩ Mulbry chỉ là một nhà ngoại giao xoàng xoàng cấp thấp, vẻ ngoài và dáng vẻ tự thu mình lại của ông ta không hề hé lộ gì về chuyện ông đang điều hành một tổ chức tình báo trị giá một trăm triệu đô-la, bao gồm cả các đội tác chiến mà nếu họ muốn bạn biến mất, công việc sẽ được hoàn thành mà ít có phiền phức nào xảy ra.
“Xin lỗi vì mất thời gian lâu đến thế mới gọi lại được. Có một vụ ồn ào ở Châu Âu. Be bét cả. Phần lớn - mặc dù không phải toàn bộ - đã được dọn dẹp rồi. Nhưng chuyện ấy để sau. Tôi giúp gì được cho anh nhỉ? Anh muốn biết đứa con của chúng ta, EVIDINT đang làm ăn thế nào không? Thuận buồm xuôi gió lắm. Mặc dù tôi không thực sự hiểu từ ấy. Đâu phải dễ mà bơi được đâu. Ai cũng có thể chìm, tất nhiên rồi.”
“Là chuyện khác và khẩn cấp đấy.”
Mulbry đã quen với sự sốt ruột của Rhyme. “Tất nhiên.”
“Chúng tôi có một tên tội phạm, mới gần đây thôi, tôi nghĩ vậy. Dự đoán của tôi: hắn hơi điên. Bị ám ảnh với kim cương. Đã trốn thoát với mấy viên đá mà người ta gọi là viên thô, giá vài triệu. Là những viên đá chưa cắt ấy. Hắn đã giết vài người vô tội. Tra tấn, trong một số trường hợp.”
“Tra tấn à? Mục đích là gì thế?”
“Chủ yếu để lần theo dấu vết các nhân chứng. Nhưng cũng có thể là thú vui riêng của hắn nữa.”
“Chi tiết?”
“Không nhiều. Gốc Nga, người Moscow, khá thành thạo tiếng Anh. Da trắng. Mắt xanh. Chiều cao và khổ người trung bình. Lựa chọn quần áo thiên về các loại thường phục tối màu - hàng may sẵn - và mặt nạ trượt tuyết.”
“Kỳ quái đấy, Lincoln. Tại sao lại đi cướp? Tài trợ khủng bố à? Hay rửa tiền?”
“Phần kì lạ nhất là đây. Hắn muốn cứu những viên kim cương khỏi việc bị cắt xẻ. Cố vấn người Anh của chúng tôi đã mô tả hắn như một gã ‘chập mạch’.”
“Hắn đang nghĩ đến chuyện trở về quê hương để ăn món borscht của đất mẹ hay còn muốn làm thêm trò gì nữa?”
“Đang nằm yên, ít nhất là trong lúc này, chúng tôi đoán vậy.”
“Anh nói là mới gần đây thôi. Nhưng mới là khoảng bao lâu?”
“Chưa biết. Nhưng chúng tôi đã kiểm tra phương pháp hành động (MO) tương tự trong cơ sở dữ liệu và không phát hiện được gì. Vậy nên tạm thời phỏng đoán là mới tuần trước, trong vòng mười ngày. Mặc dù đó chỉ là một phỏng đoán vô căn cứ.”
“Phương tiện giết người?”
“Glock, khẩu nòng ngắn, đạn ba mươi tám và dao rọc giấy.”
“Chà. Có tín hiệu nào là đã qua đào tạo quân sự không?”
“Đó cũng chỉ là phỏng đoán. Nhưng hắn thông minh lắm. Rất cẩn thận với CCTV và các bằng chứng.”
“Được rồi, và anh muốn biết liệu tôi có thể tìm được cái tên nào trong đám Nga ngố vừa sang Mỹ trong khoảng thời gian đó không chứ gì. Với tiểu sử hoặc hoàn cảnh đáng nghi tương tự.”
“Chính xác.”
“Ok, người Nga, kim cương, tâm thần, có tiếp xúc với vũ khí. Tôi sẽ xem mình tìm được gì. Tôi sẽ bảo bọn trẻ và các chương trình tìm kiếm.” Rhyme nghe tiếng gõ bàn phím. Nhanh như bánh tàu lăn trên đường ray cũ vậy.
Mulbry quay lại. “Có thể mất một lúc… và danh sách có thể khá dài. Chúng tôi không ngăn họ ở biên giới, đám người Nga ấy, anh hiểu không? Chiến tranh lạnh đã qua rồi, anh đã nghe thấy điều này chưa?”
Rhyme phải cười phá lên.
“Nào, Lincoln, chừng nào anh còn ở đây, hãy để tôi hỏi một câu nhé.”
Rhyme nhớ lại điều ông ta đã nói lúc nãy.
Chuyện ấy để sau…
“Hửm?”
“Về vụ tôi nói khi nãy ấy. Chúng tôi đã vô hiệu hoá một thiết bị phát sóng ở vùng ngoại ô Paris. Mọi chuyện đều ổn. Nhưng trong quá trình đó, đội của tôi lại thu được một luồng tin số, không liên quan nhưng khiến chúng tôi chú ý. Nó là lưu lượng trao đổi giữa Paris, Trung Mỹ và thành phố New York. Mối quan hệ tam giác ấy làm rung lên những hồi chuông cảnh báo về hồ sơ khủng bố.”
Rhyme nói, “Hẳn phải có đến cả triệu email mỗi ngày được trao đổi qua lại thông qua những tuyến đường này.”
“Anh đoán đúng. Nhưng những cái này rất khác. Chúng được mã hoá bằng thuật toán thập nhị phân. Gần như không thể bẻ khoá. Điều đó làm chúng tôi hơi lo lắng.”
Xuất thân từ chuyên ngành khoa học, Rhyme biết hệ đếm số thập nhị phân, còn gọi là hệ gốc 12 hay một tá. Hệ nhị phân chỉ có hai con số là 0 và 1. Hệ thập phân có mười số: 0 đến 9. Hệ thập nhị phân có mười hai số, từ 0 đến 9 cộng thêm hai kí tự ngoài khác, thường là 2 và E.
Mulbry nói tiếp, “Gói mã hoá ‘đúng đắn’ - từ bọn quái dị hay dùng ấy - tới mức chúng tôi coi phần mềm ấy như một loại vũ khí. Nó được coi là đạn dược theo Quy định quốc tế về buôn bán vũ khí của Bộ Ngoại giao. Vì New York là một trong những điểm xuất phát của các tin nhắn này, tôi tò mò muốn biết liệu có ai ở NYPD từng gặp phải những email hay tin nhắn được mã hoá thập nhị phân hay chưa.”
“Không. Chưa bao giờ nghe nói.” Anh nhìn lên Cooper. “Mel, có mã hoá thập nhị phân nào trong các vụ chúng ta đã làm không?”
“Không.”
“Gọi cho Rodney xem anh ta có nghe được gì không.” Quay lại với điện thoại. “Chúng tôi sẽ nói chuyện với chuyên gia của chúng tôi ở đây. Để xem.”
“Cảm ơn. Nó làm chúng tôi lo ngại. Chúng tôi đang kiểm tra các địa điểm anh ta hoặc cô ta hoặc nó đã ở khi gửi tin nhắn đi. Cả những chỗ đó cũng rất khó tìm. Tất nhiên là dùng nhiều máy chủ rồi.” Một tiếng cười khác. “Những cái đúng đắn.”
“Tôi sẽ cho anh biết nếu chúng tôi tìm được gì đấy.”
Hai người đàn ông tạm biệt nhau và cúp máy.
Hừm, một ý tưởng thú vị, dùng hệ đếm thập nhị phân để mã hoá. Mặc dù Rhyme xuất thân là dân hoá học, anh vẫn dành nhiều quan tâm cho toán học và anh biết rằng có nhiều nhà toán học tin rằng hệ thập nhị phân dễ học và dễ dùng để tính toán hơn nhiều. Thậm chí anh đã từng đọc về một chiếc đồng hồ hệ thập nhị phân, trong đó mỗi phút tương đương với năm mươi giây của thời gian hiện tại. Chẳng hạn, chiếc đồng hồ chỉ 7:33.4 3 theo hệ thập nhị phân sẽ tương đương với 2:32.50 theo giờ tiêu chuẩn.
Thú vị thật.
Nhưng tất nhiên, nó không liên quan gì. Và Rhyme đẩy những ý nghĩ về nó ra khỏi đầu. Anh hi vọng có thể giúp được Mulbry nhưng Nghi phạm 47 mới là ưu tiên hàng đầu. Điện thoại của anh đổ chuông. Số máy lạ.
Vì lợi ích của người gọi đến, hi vọng đó không phải là bán hàng qua điện thoại. Anh bắt máy, “Xin chào?”
“Ông Rhyme? Đội trưởng Rhyme?” Giọng Tây Ban Nha, rất nhẹ.
“Vâng?”
“Tên tôi là Antonia Carreras-López. Tôi là luật sư đến từ Mexico. Hiện tôi đang ở New York, tôi tự hỏi liệu tôi có thể xin vài phút của anh không.”
“Tôi rất bận. Mục đích của cuộc gọi này là gì?”
“Một trong các khách hàng của tôi hiện đang được xử ở đây.” Giọng người đàn ông này trầm bổng và nhịp nhàng. “Tôi muốn bàn về một vấn đề vừa phát sinh. Nó có liên quan đến anh.”
“Khách hàng của anh là ai?”
“Ông ấy có quốc tịch Mexico. Nếu anh có theo dõi tin tức, có thể anh đã nghe nói đến ông ấy. Eduardo Capilla. Được biết đến nhiều hơn với cái tên El Halcón.”
Lincoln Rhyme hiếm khi bị sốc. Nhưng luồng điện trong cơ thể vô tri giác của anh là bằng chứng cho thấy não bộ của anh đang phập phồng rung lên từng đợt. Đây chính là vụ án mà anh đã vô cùng muốn tham gia, nhưng lại không thể tham gia do lời hứa với Daryl Mulbry và AIS ở Washington.
“Tôi có biết ông ta. Làm ơn nói tiếp.”
Carreras-López nói tiếp, “Tôi biết anh hiểu các nghi thức trong những phiên toà hình sự. Công tố viên buộc phải cung cấp cho bên bị các hồ sơ bằng chứng trước khi đưa ra tòa. Trong những tài liệu chúng tôi nhận được từ công tố viên Hoa Kỳ, chúng tôi phát hiện ra tên anh được xếp vào mục nhà phân tích pháp y và nhân chứng tiềm năng. Nhưng có một ghi chú nói rằng anh không dự được.”
“Tôi đã đăng ký tư vấn cho tòa nhưng lại phải đi vắng.”
“Tôi đã tìm kiếm thông tin về anh, đội trưởng ạ, và tôi phải nói rằng mình rất ấn tượng với tiểu sử và chuyên môn của anh. Cực kì ấn tượng.” Anh ta ngừng lời. “Tôi hiểu là công việc tư vấn của anh chỉ làm riêng cho bên khởi tố.”
“Cũng có làm với dân sự - bên nguyên đơn và bị đơn - nhưng trong các vụ hình sự thì đúng là tôi chỉ làm cho các cơ quan hành pháp.”
Và thi thoảng là các điệp viên trong danh sách khách hàng.
“À, vâng, xin mạn phép tiêu tốn vài phút của anh để tôi giải thích. Phiên tòa đang diễn ra và bên công tố đang trình bày vụ án này. Trong lúc nghiên cứu các bằng chứng, chuyên gia của chúng tôi tin rằng họ đã tìm được một điều khá lạ. Đó là việc bằng chứng, hay một phần của bằng chứng, đã bị cảnh sát hoặc phía FBI can thiệp. Khách hàng của tôi không được yêu thích gì cho cam - và nói thẳng ra ông ta cũng chẳng phải người tốt lắm. Ông ta đã làm vài việc tồi tệ trong đời. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông ta có tội trước các cáo buộc mà ông ta đang phải chịu.”
“Và anh muốn thuê tôi để xem tôi có tìm được bằng chứng nào chứng tỏ vật chứng đã bị can thiệp không?”
“Tôi nghĩ anh không phải một người quá bận tâm đến tiền, mặc dù chúng tôi sẽ trả một mức phí cao. Tuy nhiên, tôi nghĩ anh là người quan tâm đến lẽ phải. Và vì có điều gì đó rất sai trái trong vụ án này. Nhưng tôi không thể tìm được ai muốn giúp mình cả. Trong số bốn cựu công tố viên và chuyên gia pháp y đã nghỉ hưu, cộng với hai chuyên gia khác mà tôi đã tiếp cận để nhờ giúp đỡ, tất cả đều từ chối.”
“Anh đã đệ đơn xin loại bỏ bằng chứng hoặc khiếu nại oan sai chưa?”
“Chưa. Chúng tôi không muốn làm vậy khi chưa có bằng chứng chắc chắn.”
Rhyme suy nghĩ mông lung. “Từ những gì đọc được, tôi thấy họ có nhiều cáo buộc khác nhau.”
Anh nghe tiếng cười khùng khục. “Ồ vâng. Vì anh và tôi không có mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ, tôi sẽ không thể nói gì cụ thể cho anh nghe được. Nhưng để tôi cho anh một giả thuyết nhé. Một nghi phạm bị cáo buộc năm tội. Chắc chắn ông ta đã mắc một trong năm tội ấy - giả sử là nhập cảnh bất hợp pháp đi. Và có kha khá bằng chứng cho vụ đó. Bồi thẩm đoàn chắc chắn sẽ phán có tội. Nhưng còn các cáo buộc kia, tấn công bằng vũ khí chết người và mưu đồ giết người, chắc chắn ông ta không có tội. Ai đó khác đã thực hiện những tội ác này và thân chủ của tôi, giả sử là thân chủ của tôi, thậm chí còn không có mặt khi vụ án xảy ra.”
“Công lý,” Rhyme thì thầm.
Luật sư nói, “Vâng. Chính xác là vấn đề này. Anh Rhyme, khi đọc về anh tôi đã thấy anh từng làm chứng ở một phiên toà kháng cáo cho một người xin bãi bỏ bản án với lí lẽ là kĩ thuật viên phòng thí nghiệm đã cố ý thay đổi kết quả ADN. Anh đã nói với tòa rằng dù là vô tình hay cố ý, sai lầm của một nhà khoa học pháp y trong quá trình xử lý bằng chứng là không thể bào chữa được. Sự thật là chân lý tối cao, anh đã nói vậy.”
Anh nhớ lại vụ đó, dễ dàng tưởng tượng ra khuôn mặt người đàn ông đã phải chịu ngồi tù 8 năm vì một vụ cưỡng hiếp ông ta không làm. Đôi mắt của tù nhân nhìn xoáy vào mắt Rhyme với cả niềm hi vọng và tuyệt vọng. Nữ nhân viên đã cố ý viết bản báo cáo láo kia, vì cô ta tin rằng ông ta có tội, đã chỉ dám cúi mặt nhìn xuống sàn nhà.
Rhyme nói, “Tôi không bao giờ phán xét bản chất đạo đức của các bị đơn trong những phiên tòa mà tôi dự. Tôi hiện đang làm một vụ lớn nhưng nếu anh muốn tới nhà tôi, chúng ta có thể nói chuyện.”
“Thật sao, anh Rhyme? Tôi rất biết ơn.”
“Tôi không thể hứa hẹn điều gì nhưng tôi muốn nghe kể chi tiết.”
Họ chọn một thời điểm và Rhyme đọc địa chỉ. Họ cúp máy.
Rhyme đẩy xe tới bảng bằng chứng. Cooper đang viết lên đó vài thông tin mới nhận được từ phòng thí nghiệm ở Queens: ADN và mẫu dấu vân tay tìm được trên chiếc áo khoác trong ống cống đã không cho ra kết quả gì. Cả tóc và các miếng gạc thấm ở vụ tấn công Gravesend cũng vậy.
Rhyme ghi nhớ vài dòng trên bảng trắng. Anh cất chúng sang một bên và lại nghĩ về những điều vị luật sư người Mexico đã nói với anh. Anh cũng nghĩ về Sachs, Sellitto, Cooper và những người khác, vẫn đang làm việc hăng say trong vụ Nghi phạm 47 và tự hỏi. Họ sẽ nghĩ gì nếu họ biết rằng mình sắp sửa về cùng một đội với một tên buôn bán ma túy?
Không có câu trả lời tử tế nào cho câu hỏi ấy, nên anh lờ nó đi và quay lại với bằng chứng.