← Quay lại trang sách

Chương 37 -

Vimal Lahori lại quay về với trạm xe buýt yêu thích của cậu, bến Cảng Vụ.

Lần này khá hơn. Ít đau hơn. Nỗi kinh hoàng vì bị truy sát đã lùi xa. Và cậu có tiền.

Đêm qua, lúc ở nhà, trước khi xuống dưới xưởng để “có vài lời” với cha cậu, cậu đã đi lên gác giả vờ để lấy áo len. Cậu có lấy chiếc áo… nhưng cũng mang luôn cả ba ngàn đô-la - ba ngàn của cậu - mà ông Nouri đã trả, cộng với ví tiền của cậu. Cậu đã nẫng luôn hai trăm đô nữa của ông bố vì ông nợ cậu chừng ấy, và nhiều tiền hơn nữa, vì những phi vụ cắt kim cương mà cha cậu đã đẩy cậu làm. Cậu cũng lấy được điện thoại. Một con dao cạo, một bàn chải đánh răng và kem đánh răng, thuốc kháng khuẩn Adeela đã cho cậu nữa. Một ít băng gạc. Và tất nhiên là cả cuốn Sách, tài sản quý giá nhất của cậu.

Vimal đã lên kế hoạch trốn thoát đâu vào đấy từ đêm qua, lúc cha mẹ cậu bận chơi hoặc đã đi ngủ. Cậu đã đồng ý với thỏa ước hòa bình mơ hồ của ông bố, dù chẳng hề thật lòng lấy một lời. Nhưng hóa ra chính cha cậu cũng không hề thật lòng với cậu. Đáng lẽ cậu phải đoán ra Papa đang nói dối - và định nhốt cậu vào nhà tù dưới tầng hầm; những chồng chai nước, thức ăn trong tủ lạnh, lại còn túi ngủ. Bia nhẹ chết tiệt nữa chứ?

Quỷ tha ma bắt.

Cậu run lên vì tức giận.

Bây giờ Vimal đang đi bộ khỏi cửa Greyhound*. Chiếc vé một chiều ngốn mất của cậu 317,50 đô la. Hành trình từ New York tới trạm dừng ở 1716 phố số 7, Los Angeles sẽ kéo dài sáu mươi lăm giờ.

Cửa bán vé xe buýt đường dài

Nghĩ về những chuyện sắp tới, Vimal Lahori buồn rười rượi, cậu sợ hãi.

Nhưng những cảm xúc này vẫn nhẹ hơn niềm vui sướng trong cậu, và cậu biết mình đang làm điều đúng đắn. Cậu bật điện thoại lên và nhắn cho mẹ là cậu yêu bà. Và cậu nhắn cho em trai là cậu cũng yêu nó, cậu sẽ liên lạc lại từ một nơi bên ngoài thành phố.

Sau đó, cậu mua một lon soda - Coca vị Anh đào cỡ lớn, một niềm vui bí mật (cha cậu không bao giờ cho phép cậu dùng bất cứ loại đồ uống có caffeine nào vì ông tin nó sẽ khiến bàn tay con trai ông bị run, dẫn đến các lỗi trên mặt giác kim cương). Vimal cũng mua một miếng pizza nữa. Cậu đứng cạnh một cái bàn bẩn thỉu, vừa ăn vừa uống. Ở đây không có ghế cho khách. Cậu đoán là để tăng doanh thu trong “phòng ăn”.

Cậu nhìn vào thứ tóm gọn toàn bộ hành lý của cậu - một cái túi vải mà cậu mua với giá một đô la ở cửa hàng tạp hóa. Và cậu lấy ra thứ mang lại niềm an ủi cho cậu gần bằng bến Cảng Vụ này.

Cuốn Sách. Một cuốn sách thần thánh. Nó là thứ cậu tìm đến nhiều nhất, một thứ an ủi cậu, không bao giờ thôi làm cậu ngạc nhiên.

Tuyển tập các phác thảo của Michelangelo được in từ nhiều năm trước, vào nửa đầu thế kỷ trước. Vimal coi nghệ sĩ bậc thầy này là thợ điêu khắc vĩ đại nhất từng sống, vì niềm đam mê của chính cậu, chuyện Vimal bị hút về phía ông và nghệ thuật của ông là điều dễ hiểu. Người nghệ sĩ này là vị thần của Vimal. Ồ, cậu vẫn yêu nhạc pop, manga và hẳn sẽ yêu thích cả những chương trình truyền hình dài tập, nếu cha cậu cho phép cậu xem nhiều hơn. Nhưng cậu yêu Michelangelo, và trong những giây phút hiếm hoi (thường là sau một chầu rượu) mà di sản văn hóa tín ngưỡng của tổ tiên cậu trở nên hợp tình hợp lí, Vimal mường tượng rằng linh hồn của nhà điêu khắc thời cổ này - hay ít nhất là một phần của nó - đang trú ngụ chính bên trong con người cậu.

Tất nhiên, Michelangelo là một con người phi thường. Ông mới chưa đầy ba mươi khi tạc bức David (Vua David) và Pietà (Đức Mẹ sầu bi). Vimal còn chưa vươn tới trình độ ấy, mặc dù các tác phẩm của chính cậu, tạc trên cẩm thạch, granit và lapis, cũng thường xếp thứ nhất thứ nhì trong các cuộc thi quanh khu vực New York.

Nhưng mới gần đây, Vimal đã bị sốc khi nhận ra rằng có thể có một lí do tinh tế hơn, từ trong tiềm thức đã khiến cho cậu bị ám ảnh với người đàn ông này. Có lần, trong lúc lật giở những trang sách này giữa giờ nghỉ ở cửa hàng ông Patel, cậu nhận ra phần lớn các phác thảo của Michelangelo được trình bày trong cuốn sách, dù tuyệt đỉnh khéo léo, nhưng vẫn chưa hoàn thiện.

Dường như ông không thể hoàn thành nổi các bức vẽ của mình.

Nghiên cứu năm 1508 của ông cho Adam chỉ là một cái đầu và một bờ ngực, hai cánh tay lơ lửng, tách rời nhau. Phác họa của Risen Christ (Sự hồi sinh của Chúa Jesus) mới chỉ có khuôn mặt trống trơn của Chúa.

Chưa hoàn thiện…

Những phác thảo này rất giống mình, Vimal kết luận, dù vẫn nhận thức được rằng lý thuyết ‘linh hồn vất vưởng’ này nghe giống mấy trò tâm linh dở òm của một chương trình tivi tệ hại.

Giữa hai người đàn ông còn có một điều tương tự khác. Vimal đã chia sẻ điều này với Adeela và cô đã cười mỉa với cậu. Ý là, thật sao? Chẳng phải anh đang suy diễn hơi xa à?

Không đâu, cậu không suy diễn.

Sự giống nhau là thế này: Michelangelo trên hết tự coi mình là một thợ điêu khắc và chỉ miễn cưỡng nhận tiền công cho các bức họa. Tất nhiên ông cũng chẳng phải là tay mơ trong lĩnh vực này, khi đã hoàn thành bích họa trần Nhà nguyện Sistine trong chưa đầy bốn năm, cũng như The Last Judgement (Sự phán xét cuối cùng) và hàng chục danh phẩm khác. Nhưng niềm đam mê của Michelangelo nằm ở chỗ khác, nơi cẩm thạch chứ không phải vải vẽ. Với Vimal, đó là cẩm thạch chứ không phải đá quý.

Vẽ tranh hay cắt kim cương, theo thứ tự của hai người, đơn giản không thể tạo nên ngọn lửa bùng cháy không thể chối từ được bên trong bạn khi bạn làm một điều mà Chúa, hay các vị thần, hay bất kể là ai đi nữa, đã tạo ra bạn trên đời để bạn làm việc đó.

Trong lúc cậu ăn nốt miếng bánh béo ngậy và uống nốt ngụm coca cuối cùng, nỗi tức giận với cha lại bùng lên lần nữa. Cậu cố dằn nó xuống, với cái nhìn cuối vào bức tượng Thần Poseidon, gập sách lại và để nó lại vào túi.

Đi bộ với cái đầu cúi gằm xuống - cậu đang đội một chiếc mũ lưỡi trai màu đen - cậu rời nhà hàng pizza và tránh đám cảnh sát trên đường tới nhà chờ. Chiếc xe buýt sẽ nhanh chóng rời đi.

Cậu ngồi xuống một chiếc ghế nhựa, bên cạnh cô gái gần ba mươi tuổi trông có vẻ lịch sự. Từ vé của cô ta, cậu thấy là ít nhất trong chặng đầu của hành trình, cô sẽ ở cùng một tuyến xe với cậu. Chiếc nhãn ghi địa chỉ dán trên hộp đàn ghi ta của cô ta ghi Springfield, Illinois. Trông vẻ ngoài cô không giống dân miền Trung Tây lắm, ít nhất là từ hiểu biết hạn chế của Vimal với vùng này. Tóc cô có hai màu xanh lục và xanh lam, cô có ba chiếc khuyên mũi và một cái khuyên trên lông mày. Vimal đoán là những giấc mơ dành cho sân khấu, quán rượu và nhà hát ở New York của cô đã đến hồi kết. Khuôn mặt chịu đựng của cô cho thấy rõ điều này. Tiếc nuối, cứ như cô đã để mất điều gì đó quan trọng và đã từ bỏ việc tìm kiếm vậy. Điều này dường như còn buồn hơn cả buồn.

Sau đó Vimal nghĩ lại, có khi đây chỉ là tưởng tượng của cậu còn cô ta sắp đi nghỉ vài ngày với một người bạn cùng phòng cũ từ thời đại học, uống cơ số rượu trong thùng, ngủ với anh chàng trông quầy rượu ở địa phương và tận hưởng một lần chơi trong đời thì sao.

Sự thật là gì?

Vimal Lahori đã quyết định rằng càng nhiều tuổi thì cậu càng nên biết ít đi.

Một giọng nói trên máy - không xác định được giới tính - thông báo rằng chiếc xe buýt đã sẵn sàng xuất phát. Cậu cúi xuống, cầm túi và đứng dậy.

“Có biết thằng bé bỏ đi đâu không?”

“Không,” Sachs giải thích với Rhyme, anh đã hỏi thăm về Vimal Lahori sau khi chàng trai trẻ vượt ngục khỏi chính nhà mình. Thông minh lắm, giả vờ đang đục đẽo một bức tượng, trong khi đó thực ra là cắt chấn song.

Tất nhiên, chuyện ông bố quyết định làm cai ngục cũng bệnh thật.

Sachs nói tiếp, “Cậu ta đã lấy khoảng ba ngàn đô của ông bố - mặc dù mẹ cậu bảo đó rõ ràng là tiền của cậu ta. Lahori thu hết tất cả chỗ tiền cậu con trai kiếm được nhờ cắt kim cương và gửi tiết kiệm. Ông ta chỉ đưa lại thằng bé chút tiền tiêu vặt.”

“Ở tuổi của nó à? Hừm.”

Chuông cửa reo và Thom ra mở. Vài phút sau, anh ta trở lại cùng Edward Ackrovd, ăn vận trong bộ vest hai hàng khuy, sọc xám nhạt, là phẳng phiu hoàn hảo. Áo sơ mi trắng và cà vạt sọc xanh đỏ nữa. Rhyme tưởng tượng ông ta đang khoác một bộ đồ cho cuộc họp ở số 10 phố Downing* lên người.

“Lincoln. Amelia.”

Cuối cùng ông ta cũng đã bỏ kính ngữ “anh” và “cô” đi rồi. Rhyme mường tượng đến việc các nghi thức của Scotland Yard* đã bám rễ sâu vào người đàn ông này như thế nào.

Phủ Thủ tướng Anh

Trụ sở cảnh sát London

Nhân viên công ty bảo hiểm cũng nói xin chào với Cooper.

“Có đầu mối nào mới không?” ông ta hỏi.

Rhyme kể các tiến triển mới nhất cho ông ta nghe.

“Vimal Lahori.” Ackroyd gật đầu. “Thêm một chút để đi tiếp được rồi. Nhưng mà bị nhốt trong tầng hầm nhà mình ư?” Một cái cau mày khẽ trước tin này. “Giờ thì biến mất. Chẳng lẽ cậu ta không biết mình đang gặp nguy hiểm? À, câu hỏi vô ích. Tất nhiên là có. Nhưng tại sao cậu ta lại không muốn giúp?”

Sachs nói, “Tầng hầm là một manh mối. Phỏng đoán của tôi là cậu ta đang trốn tránh cha mình cũng y như trốn tên Bốn mươi bảy vậy. Nếu chúng ta mang cậu ta về thì cậu sẽ không thoát được ông Bố.”

Thom đề nghị cầm áo khoác nhưng Ackroyd nói ông ta không thể ở lại; ông ta có hẹn với một khách hàng khác.

Người Anh nói với Sachs, “Vậy là cô đã gặp gia đình cậu ta. Chắc chắn họ phải có chút ý niệm gì về nơi cậu ta đã bỏ đi chứ. Bạn bè, hoặc người thân nào khác.”

“Họ cho tôi vài cái tên nhưng không có gì giúp ích cả. Vimal không chia sẻ nhiều với bất kỳ ai trong nhà. Ông bố đã treo thưởng năm trăm đô-la và con trai của một thợ cắt mà Vimal đang làm thuê đã tố giác cậu.” Một cái nhún vai. “Tôi đoán ông bố sẽ lại làm việc này một lần nữa. Có khi như thế lại cho chúng ta manh mối. Và họ sẽ liên lạc với tôi, nếu họ nghe nói gì.”

“Em chắc không?” Rhyme hỏi. “Họ sẽ không cố nhốt thằng bé lần nữa chứ?”

Ackroyd nói với họ chính ông cũng đang bế tắc. “Những viên thô mà nghi phạm của các vị, Người hứa hẹn, ăn cắp ở chỗ Patel ấy, chúng chỉ biến mất thôi, điều này càng chứng tỏ hắn bị điên và đang giấu những viên đá. Không có ai báo về một cuộc gọi nào từ hắn để hỏi thăm người thợ học việc cả. Và người ta thậm chí càng miễn cưỡng nói ra hơn cả trước. Hắn làm ai nấy đều sợ hãi. Tôi còn nghe đồn là doanh số nhẫn đính hôn đã giảm mất hai mươi phần trăm.”

Chà, Nghi phạm 47 có thể là một kẻ tâm thần, nhưng mục đích của hắn là muốn tuyên ngôn về tính thần thánh của kim cương thì đã gần như hiệu quả.

“Nào, tất nhiên tôi đã có thể gọi điện đến báo. Nhưng tôi muốn ghé qua. Mang cho anh một món quà.” Ông ta nói với Rhyme. Ông thò tay vào chiếc túi nhựa đang cầm và lấy ra một cái hộp cỡ 15 x 22 xăng-ti-mét, bóng loáng, có ảnh vài sản phẩm điện tử ở mặt trên. Ông ta lột bỏ lớp ni lông bọc ngoài và lấy ra một thứ trông giống như một chiếc máy tính bảng. Ông đặt nó cạnh ghế của Rhyme và bấm một nút bên cạnh. Nó bật lên và một bảng điều khiển xuất hiện. “Các ô chữ điện tử. Mã hóa đấy nhé. Có hơn mười ngàn ô chữ, mức độ khó khác nhau.”

Rhyme giải thích với Sachs là Ackroyd và chồng ông ta đang tranh tài trong các cuộc thi giải ô chữ. Và anh mô tả tóm tắt trò giải ô chữ mã hóa.

Sachs thậm chí còn ít hào hứng chơi hơn cả Rhyme nhưng thừa nhận là cô thấy ý tưởng này đáng tò mò.

Ackroyd nói, “Còn thiết bị này? Nó được khởi động bằng giọng nói. Sản xuất cho…”

“Ông có thể nói ‘què cụt’ hoặc ‘liệt’ như tôi vẫn nói.”

“Tôi đang định bảo là ‘người tàn tật’. Tuy nhiên, tôi không nghĩ từ ấy chính xác.”

“Câu trả lời của tôi là từ nào có bốn chữ cái bắt đầu bằng “đ*” và điền vào câu “tôi đ… quan tâm?”

Ackroyd cười sảng khoái.

Nguyên tác: “s” và có bốn chữ cái, người dịch tìm một câu tục tương đương trong tiếng Việt.

“Cảm ơn ông, Edward.” Rhyme thực sự hài lòng. Anh có chơi cờ vua - và đã thử cờ vây, một loại cờ Châu Á thậm chí còn phức tạp hơn thế. Có vẻ trò giải mật mã này hợp với anh. Anh yêu thích ngôn ngữ và cách chúng khớp với nhau. Giải đố cũng là một cách hay để trí não anh luôn hoạt động, một lá chắn chống lại kẻ thù tồi tệ nhất: sự buồn chán.

Sau khi Ackroyd ra về, cả đội nhận được một cuộc gọi của Rodney Szarnek. Anh ta thông báo đã phát hiện được điện thoại của Vimal. “Cậu ta đã ra khỏi thành phố. GPS xác định cậu ta đang trên một tuyến đường cao tốc ở Pennsylvania. Hướng về phía tây. Đang di chuyển khoảng 96 cây số trên giờ. Cậu ta đang lái xe hoặc ngồi xe buýt.”

“Có lẽ là xe buýt,” Sachs nói. “Cả nhà họ chỉ có một cái xe và đội an ninh của tôi đã phát hiện ra nếu cậu ta mò về lấy nó.”

“Có thể một người bạn lái xe thì sao,” Cooper gợi ý.

“Ngày thứ Bảy, cậu ta đã gọi điện từ bến xe Cảng Vụ,” Rhyme chỉ ra. “Có lẽ lúc đó cậu ta đang kiểm tra lịch trình xe buýt. Tôi nghiêng về phía xe buýt. Cậu và Lon Sellitto lên chiến dịch theo dõi đi. Liên hệ với cảnh sát bang Pennsylvania.”

Tắt máy xong, Rhyme gọi cho Lon Sellitto để sắp xếp việc chặn xe.

Chuông cửa lại reo và Rhyme liếc sang màn hình an ninh. Một người đàn ông thấp bé, hói đầu đang đứng ở đó. Anh không nhận ra ông ta nhưng dự đoán khá chắc chắn đó là ai.

Thom liếc Rhyme một cái, anh nói, “Ra cho anh ta vào đi.”

Một lát sau người đàn ông đã đứng ở ngưỡng cửa. Ông ta liếc quanh phòng thí nghiệm. Có vẻ như ông bị ấn tượng - và hài lòng - nhiều hơn là ngạc nhiên.

“Đội trưởng Rhyme.”

Rhyme không giới thiệu ông ta với những người khác. Anh nói “Mời vào phòng làm việc. Bên kia hành lang.”

Nếu Sachs hay Cooper có tò mò về vị khách, họ cũng sẽ không để lộ ra, họ quay lại với công việc của mình. Thế cũng tốt.

Họ sẽ nghĩ gì nếu biết…?