Chương 4
Bầu trời phía tây đỏ rực. Những khoảnh khắc cuối của một ngày đầu hạ cũng dần khép lại. Tôi hộc tốc chạy về phía nghĩa trang Unohara. Từ lúc rời cửa soát vé tôi đã chạy cuồng cả chân rồi. Thầm nghĩ nếu làm vậy biết đâu lại có thể trốn thoát khỏi thực tại này. Cảm giác như đang chạy trốn khỏi ai đó trong một cơn ác mộng vậy.
Người phụ nữ cá vàng vẫn ở trong phòng tôi. Khi tôi nhớ ra chuyện cái điện thoại thông minh và chạy trốn khỏi phòng mình, cô ta vẫn đang thong thả ngồi ăn bánh tôm. Tôi chẳng hiểu cái gì, vì sao, thế nào lại ra thế này. Dù sao thì tôi đang chạy đến hụt hơi. Trái tim hỗn loạn gào thét. Làm ơn trả lại thực tại bình thường cho tôi.
Nghĩa trang Unohara là một nghĩa trang nhỏ thuộc một góc khu dân cư với những ngôi nhà trang nhã xếp thành hàng. Tôi chạy lên những bậc thang đá cuối cánh cổng vòm mang kiến trúc phương Tây, chống tay vào đầu gối lúc đi lên, và thở hắt ra trong cái không khí ấm áp của buổi chiều tà. Cảm giác như tôi đã chạy đủ phần cho nửa năm chỉ trong ngày hôm nay. Đầu gối tôi đang cười vào mặt tôi.
Giữa nghĩa trang bao quanh bởi những hàng cây, những lối đi hẹp được thiết kế như họa tiết kẻ caro, và những bia mộ được xếp thành hàng thành lối ngăn nắp. Nhờ chạy bộ mà tâm trí tôi – trước đó còn sôi sùng sục như sắp phát khùng – giờ đã nguội bớt, trở về trạng thái gần như có thể hoạt động, suy nghĩ tử tế. Tôi quyết định điều cần làm lúc này là ứng phó một cách thực tế. Công việc hằng ngày đem lại bao đau khổ giờ đã trở thành sợi dây níu giữ tôi lại với thế giới thật.
Ban ngày không có ai, nhưng có lẽ vì trời đã mát hơn, nên đây đó trong ánh chiều tà có những bóng người qua lại.
Bia mộ nơi tôi giấu cái điện thoại di động trong lư hương nằm xa xa cuối lối đi bên trái, bên dưới gốc cây tuyết tùng cổ thụ. Vì hoa cắm trên mộ vẫn còn tươi nên tôi tin là người đến viếng mộ phải lâu lâu sau mới trở lại, thế nhưng.
Ôi trời. Giữa bao nhiêu ngôi mộ ở đây, chính ngôi mộ đó lại có người đến viếng. Một bà lão mặc bộ váy liền màu trắng. Bà đang cúi xuống tỉ mẩn như nghệ nhân cắm hoa, chỉnh lại những bông hoa trên mộ. Từ chỗ tôi đứng – chỉ cách đó một quãng - cũng có thể nhìn thấy cái điện thoại bọc trong túi ni lông sau lư hương. Tệ quá. Phải làm gì bây giờ?
Công ty thương mại Memorial không có chỉ dẫn gì về cách giải quyết rắc rối hay lời phàn nàn từ phía khách hàng, ngoài cái nguyên tắc “Tự mày xử lý đi”, nhưng hồi xưa, ông tôi đã dạy tôi điều này. Đó là khi chơi bóng đá, một người phía đội kia đã phá hỏng ruộng nhà hàng xóm.
“Jun, khi làm sai, điều quan trọng nhất là phải xin lỗi chân thành. Người ta sẽ không tin tưởng kẻ kiếm cớ biện minh đâu.”
Tôi hắng giọng và tiến lại gần để làm bà lão quay lại mà không bị giật mình. Đó là một bà lão có vẻ thanh lịch, với mái tóc trắng muốt, búi gọn gàng như thể tóc giả dành cho phụ nữ.
“Cháu xin phép được tụng một bài kinh.
Tôi khẽ lướt xem bia mộ trong khi vẫn hướng tầm mắt nhìn xuống. Có hai chữ “Diệu Pháp” phía trên họ người mất, nên có lẽ người này theo Phật giáo Nichiren.*
Vì vậy tôi tụng Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thay vì tụng Nam Mô A Di Đà Phật. Tôi chỉ nhớ khoảng 30 giây và tụng như hát một bài hát tiếng Anh vậy, nhưng bà lão có vẻ rất cảm động.
“Ồ, cháu là người nhà chùa à?”
“Dạ không, cháu chỉ là nhân viên bán hàng thôi.
“Chà chà, còn trẻ mà hiểu biết quá. Cháu quen biết ông nhà bác à?”
Trong khi đọc kinh, tôi đã nghĩ ra ba cái cớ để trả lời, nhưng nhớ đến bàn tay thô ráp của ông ngoại xoa đầu tôi lúc đi xin lỗi người hàng xóm, tôi quyết định nói thật. Chân thành là điều quan trọng nhất.
“Không ạ. Cháu đã làm một việc vô cùng thất lễ nên ít nhất cũng muốn được gửi lời xin lỗi.”
Khi tôi lấy cái điện thoại ra khỏi lư hương, bà lão thong thả cất giọng, như thể không ngạc nhiên lắm: “Ôi chà, ra vậy.”
“Cháu vô cùng xin lỗi.”
Tôi gập người, cúi đầu xin lỗi. Rồi giải thích ngắn gọn rằng mình đang đi chào hàng các dụng cụ dùng khi viếng mộ, nhưng có việc phải đi. Có vẻ bà ấy không hiểu được chuyện công ty có thể biết được vị trí hiện tại của tôi thông qua điện thoại di động.
“Không sao. Ta cũng để ý thấy cái đó. Ta tự hỏi không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Chắc là việc gấp lắm nhỉ”
“Ơ, vâng” Là việc chăm cá vàng. Ôi không. Hình ảnh người phụ nữ cá vàng đã tạm thời bị nhét vào một góc tâm trí giờ lại hiện ra trước mắt. Mà đó là tôi đã quen với việc khóa chặt hiện thực cay đắng để nó khỏi ảnh hưởng đến tâm trí rồi đấy. Cái thằng “tôi” đã nói chuyện với con cá vàng đó, với cái thằng “tôi” đang nói chuyện với bà lão lúc này, đâu là thực, đâu là ảo, tôi chẳng thể phân biệt nổi nữa.
“Thất lễ gì đâu, việc đáng mừng đấy chứ.” Bà lão không nói với tôi mà nói với bia mộ. “Ông ấy chưa bao giờ được nghe đọc kinh một cách chu đáo như vậy. Con gái ta không thích ở lại lâu. Còn ta thì gọi là đến thăm nom định kỳ chứ không hẳn là đến viếng mộ. Vì cháu trai ta bị dị ứng phấn hoa. Anh nhìn xem, ở đây có rất nhiều cây tuyết tùng”
Có vẻ sẽ là một câu chuyện dài. Tôi định xoay người lại và nói lời xin lỗi để trở về, thì một giọng nói nhẹ nhàng từ phía sau cất lên.
“Đồ dùng viếng mộ mà anh bán là gì nhỉ?”
Tôi đưa quyển giới thiệu sản phẩm ra như yêu cầu. Không có ý định chào hàng gì cả.
Nếu là loại người có thể làm việc đấy trong tình cảnh này thì đã chẳng phiền muộn với cuộc sống đến độ nghĩ tới cái chết rồi. Tôi chỉ muốn cho bà lão có vẻ tốt bụng, quý người này biết mình không phải kẻ nói dối đáng nghi thôi.
“Anh có bán cả ban thờ nữa nhỉ”
Phần lớn quyển giới thiệu quảng cáo các sản phẩm D.G, vì những dụng cụ dùng khi viếng mộ chỉ là “mồi” để chào hàng ban thờ. Bà lão cầm trang giới thiệu ban thờ chất lượng cao, giơ ra trước ánh đèn, nheo mắt nhìn những con chữ hoa mỹ, lẩm bẩm:
“Giá rẻ nhỉ”
Chắc bà ấy là người giàu. Bộ váy liền điểm xuyết họa tiết hoa hồng lam gần như quá trang trọng cho việc đi viếng mộ, viên thạch anh tím to đùng bao quanh ngón tay đang lật giở những trang giấy, sáng lấp lánh trong bóng tối.
“Ban thờ nhà ta ván nát lỗ chỗ rồi, mòn vẹt cả. Mới mua chưa được bao lâu mà đã vậy.”
“Chắc là vì nó được bọc ván đấy ạ. Đó là một phương pháp gia công lấy gỗ tốt cắt mỏng dán lên bề mặt gỗ thật bên trong, được gọi là bọc ván ép trang trí. Có lẽ vật liệu mô phỏng dán bên ngoài quá mỏng, hoặc chỉ được cố định sơ sài bằng keo dán chăng?”
“Thế là ta mua phải đồ giả rồi nhỉ?”
“Không phải đâu ạ, ban thờ bằng gỗ ép là một sản phẩm rất phổ biến. Vì những loại được dán ép bằng các miếng vân gỗ có giá cả rẻ hơn rất nhiều. Các loại gỗ được dùng làm ban thờ là gỗ mun, gỗ trắc, gỗ muồng đen, tất cả đều là những loại gỗ quý, vậy nên khó có thể dùng toàn bộ gỗ nguyên khối để làm các sản phẩm thông thường”
Dù không có ý định chào hàng, nhưng tôi vô thức nói về nó. Bình thường người ta toàn từ chối lắng nghe giới thiệu sản phẩm kiểu này, nhưng bà lão lại vô cùng chăm chú, vừa nghe vừa gật gù làm tôi cảm thấy thật hạnh phúc.
“Thế sản phẩm của các cậu thì thế nào?”
“Chúng cháu cũng chủ yếu bán loại gỗ ép theo như trang tiếp theo này. Tuy nhiên, nếu có yêu cầu, chúng cháu có thể chuẩn bị các sản phẩm gần như nguyên khối. Đó là sản phẩm được gia công theo phương pháp kết hợp tâm gỗ tốt với lớp ván ép dày làm bằng gỗ quý. Tuy nhiên, vì thế mà giá thành cũng sẽ bị đội lên, không phải ai cháu cũng giới thiệu loại sản phẩm này được.”
Tôi mở trang cuối quyển giới thiệu, phần những sản phẩm đặc biệt cao cấp cho bà lão xem.
“Chà chà, đúng là khác hẳn.”
“Vâng ạ”
Thực tế công ty thương mại Memorial chủ yếu chỉ có các sản phẩm làm sẵn. Những sản phẩm gia công đặc biệt chỉ được đưa vào để người ta nghĩ giá thành của những sản phẩm bán chạy nhất cũng không đến mức cao quá. Bà lão không có vẻ quá ngạc nhiên trước mức giá lên tới 7 con số. Bà đọc thành tiếng giá cả lên chỉ để chắc chắn nhưng mặt chẳng hề biến sắc.
“Này, anh đến nhà chúng tôi đi. Tôi muốn cái này. Tiền bạc không thành vấn đề. Tôi có tiền tiết kiệm riêng. Giấu sau khung ảnh.”
Tôi chẳng có lý do gì để từ chối cả. Hợp đồng bán hàng mà tôi khát khao tự nhiên từ trên trời rơi xuống.
Giá mà sản phẩm tưởng như chỉ được dùng cho mục đích chụp ảnh quảng cáo này có sẵn trong kho thì hay quá.
“Hôm nay muộn quá rồi, nên cháu xin phép mai qua ạ."
Tôi ghi lại địa chỉ của bà lão. Nó ở ngay gần nghĩa trang. Thế giới này xem ra không phải toàn điều tệ hại. Đôi khi có một người phụ nữ bước ra từ bể cá, đôi khi chuyện lạ có thật.
Điện thoại bắt đầu đổ chuông. Tôi vừa áp vào tai thì giọng nói như tiếng một con chó nhỏ sủa càn đầm xuyên màng nhĩ.
“Thằng ngu này, mày đang làm cái quái gì đấy?”
Vừa nhìn thấy ánh đèn của tòa nhà thì chân tôi đã nặng như đeo chì. Tôi chậm chạp tiến về phía lối vào như một con bé bị đem đi bán, vừa đi vừa nghiêm túc nghĩ đến chuyện bỏ về nhà.
Đã 9 giờ 20 tối. Tôi về nhà sớm vì vội vội vàng vàng quay lại công ty mà chẳng thấy bóng dáng trưởng nhóm đâu cả. Hôm nay là ngày giám đốc đến Tokyo, chắc hẳn ông ta lại đi quán bar ưa thích rồi. Trưởng phòng dù nói sẽ không đụng đến một giọt rượu, nhưng trước mặt giám đốc thì đến khỏa thân nhảy múa để mua vui hắn cũng sẵn sàng làm.
Có những nhân viên cũ nghe đồn là tai mắt của trưởng nhóm ở công ty, nhưng tất cả những người đó may mắn là đều đã nghỉ việc/sắp nghỉ việc, chuẩn bị về nhà hết rồi.
Tôi thì chẳng may mắn chút nào. Dẫu sao thì ở nhà vẫn còn người phụ nữ, chẳng biết là âm hồn, quái vật, người cá, hay tất cả những thứ trên, đang chờ đợi. Tôi không muốn về, nhưng cũng chẳng có chỗ nào khác để đi. Tôi cũng nghĩ đến chuyện ra ngoài ăn và uống chút rượu rồi mới về, nhưng lại thôi. Càng để lâu, tôi càng cảm thấy sợ hãi việc bước vào ngôi nhà của chính mình.
Cánh cửa vừa mở ra thì trước mắt tôi là người phụ nữ tóc dài sũng nước đứng trong bóng tối. Cô ta mang thân hình của con người, nhưng gương mặt đang biến thành mặt cá... hình ảnh tưởng tượng ấy khiến tôi do dự một lúc, tay vẫn đặt trên nắm đấm cửa.
Không, không thể tối được. Lúc ra khỏi nhà trời đang tối dần, còn người phụ nữ thì cứ chăm chú nhìn hình ông lão xách túi đi biển được in trên vỏ bánh tôm, nên tôi đã bật đèn phòng ăn lên.
Ôi trời. Tôi thu hết dũng khí để mở cửa. Sau cánh cửa vẫn là căn phòng cô đơn tĩnh mịch không bóng người như mọi khi.
Phù...
Ánh sáng le lói rọi ra từ phòng ăn làm khung cảnh có gì đó đáng sợ hơn bình thường. Khi Ayu còn ở đây, cô ấy luôn về nhà trước và phòng luôn sáng trưng với âm thanh từ ti vi hay đầu đĩa CD, hoặc mùi thơm của bữa cơm tối chào đón tôi về.
Tôi khom lưng len lén đi về phía cuối hành lang như đang đột nhập vào nhà người khác, chỉ thò mỗi mặt nhòm vào phòng ăn.
Không thấy người phụ nữ đó.
Túi cơm hộp mua ở cửa hàng tiện dụng được đặt trên bồn rửa trong bếp.
Trước kia nếu trở về lúc Ayu còn thức, cô ấy sẽ phàn nàn về chuyện tôi ăn cơm hộp tiện dụng, nên chẳng biết từ lúc nào tôi đã có thói quen đặt đồ ở đây. Thể nào Ayu cũng bảo thế là gian dối.
Hồi quyết định sống chung với nhau, chúng tôi đã thống nhất sẽ thay phiên nấu ăn cách ngày. Trước khi vào công ty thương mại Memorial, tôi không biết rằng mình sẽ chẳng có thời gian về nhà để ăn một bữa tối tử tế, chứ đừng nói đến chuyện nấu nướng. Trong cuộc phỏng vấn, người ta bảo gần như không phải làm thêm giờ. Thực tế “không phải làm thêm giờ” ở đây là không có chuyện làm thêm giờ trả lương chính thức, mà toàn các việc kéo dài thời gian làm việc ra vô tận.
Phương án thay thế là tôi nấu ăn bù vào thứ Bảy, Chủ nhật, nhưng chỉ duy trì được vài bận lúc đầu. Công ty không đảm bảo cho tôi nghỉ vào ngày lễ, và nói chung thì tôi kiệt sức vì công việc hằng ngày, còn trái tim thì đã bắt đầu gào thét.
Treo bịch bánh tôm lấy từ túi đồ mua ở cửa hàng tiện dụng lên như quân biệt kích treo súng, tôi bật đèn phòng ngủ.
Không có.
Ở phòng vệ sinh hay nhà tắm mà tôi lo rằng đang bị ngập cũng không có ai.
Gõ cửa phòng vệ sinh, đợi một lúc rồi tôi thử mở cửa ra xem.
Người phụ nữ đã biến mất khỏi tòa nhà.
Chuyện gì thế nhỉ?
Tôi thở dài.
Tôi quay trở lại cái không gian gọi là phòng khách cho hai người ở một góc phòng ăn, và ngắm nhìn bể cá trên bàn. Đáng lẽ nên làm thế từ đầu. Từ bóng bụi cỏ nước tưởng chẳng có gì, con Ryukin đột nhiên bơi ra.
Tôi lại thở dài.
Nhưng tôi chẳng còn cái kỳ vọng ngọt ngào rằng tất cả chỉ là ảo giác của tôi. Người phụ nữ đó chắc chắn ở đây. Bằng chứng là bịch bánh tôm rỗng không bị ném dưới gầm bàn. Bên trong chẳng còn lấy một mẩu vụn.
Đột nhiên tôi nảy ra một ý. Tôi đi lấy miếng dính cao su từ phòng để đồ đối diện nhà tắm. Nó là đồ thừa sau khi Ayu dùng để đóng gói hành lý lúc chuyển đi. Có một lỗ hổng hình cánh quạt ở một góc nắp đậy bể cá, chỗ để nối ống máy bơm. Vẫn để máy bơm kết nối, tôi dán miếng dính cao su kín những chỗ hở.
Hà hà hà. Thế này là không ra được nhé.
Con Ryukin chẳng biết gì đang im lặng ở đáy bể.
Yên ắng quá. Đây có phải là giấc ngủ của cá vàng không nhỉ?
Cả vây lưng lẫn vây đuôi đều không động đậy.
Tôi hơi lo. Chắc không có chuyện nó không thở được đâu nhỉ. Không, dù máy bơm khí có đang hoạt động hết công suất đi chăng nữa thì có lẽ cũng không thể dán kín mít bể lại.
Thôi thì ít nhất nên mở lỗ thông khí. Tôi nghĩ mở lỗ khí nhỏ thôi, cỡ đầu nĩa đâm vào là được.
Thế là tôi bèn vào nhà bếp lấy nĩa trong ngăn kéo. Đột nhiên...
T...o...n...g...
Có tiếng nước nhỏ giọt ở phía sau.
Tong... tong...
Có cả tiếng nói nữa.
“Vô ích thôi.”
Chiếc nĩa cầm trên tay rơi xuống sàn, theo đó là tiếng hét của tôi.
Tong... tong... tong...
... Tong...
Tôi cứng đờ người như một con rối gỗ, chậm chạp quay đầu lại.
Người phụ nữ đứng đó, nước nhỏ giọt từ bộ y phục đỏ ướt đẫm của cô ta. Cô ta nhìn chằm chằm tôi qua mái tóc ướt, chân mày cau lại.
“A, không, không phải như cô nghĩ đâu. Đấy... đấy là... tôi chỉ định cố định dây máy bơm.”
Nụ cười đông cứng trên gương mặt.
Đôi mắt nhìn xoáy về phía tôi như thể tấm gương đen của một bà bói. Nó là tấm gương xuyên thấu tất cả, phản chiếu con người thật của tôi. Câu xin lỗi vô thức bật ra khi bị nhìn xuyên thấu.
“Tôi... xin lỗi”
Người phụ nữ vẫn nhìn vào mắt tôi, nhặt cái nĩa lên, cầm như thể nó là một ngọn giáo tí hon.
“Ta là người. Đừng nghĩ ta là một con cá nhỏ. ”
Tôi giơ cả hai tay lên.
“Hiểu rồi. Tôi sẽ không làm thế nữa. Tôi không ghét bỏ cô hay gì cả. Chỉ là đây là chuyện trước giờ tôi chưa từng gặp. Tôi hơi rối trí. Tra trên trang mạng Wikipedia cũng không có. Ừm... từ giờ trở đi tôi nên làm gì?”
Người phụ nữ hạ tay xuống và gõ cái nĩa vào thành bồn rửa.
Keng, keng, keng.
“Ba ngày một lần, thay nước khoảng ba phần bể.”
“Vâng”
Cô ta lại tiếp tục gõ nĩa. Keng, keng.
“Đừng thay bụi cỏ nước. Để thế là được rồi. ”
“Tôi đã hiểu”
Keng, keng, keng.
“Cho ăn ngày ba lần.”
“Tôi hiểu rồi... ” khoan đã. Đây chẳng phải là cách nuôi cá vàng sao.
“Cô định ở đây luôn sao?”
Người phụ nữ mở to mắt khi nghe câu hỏi của tôi. Mắt cô ta to thật. Cô ta không trang điểm, nhưng đôi mắt to tròn vẫn nổi bật khi được viền quanh bởi hàng mi dài. Đôi mắt đen láy nhìn tôi không chớp của cô ta khẽ lay động.
“Ta còn biết đi đâu?”
Chiếc nĩa trượt khỏi tay người phụ nữ, rơi xuống sàn. Tiếng kim loại rơi tựa tiếng thở dài, đập xuống sàn như tiếng chuông ban thờ, nhuốm vẻ đượm buồn. Tôi hướng mắt khỏi người phụ nữ, nhìn chằm chằm chiếc nĩa, chẳng vì lý do gì cả. Cảm giác như tôi đã lỡ nói câu gì đó rất phũ phàng.
“Cô ở lại cũng được... nhưng chỉ một thời gian ngắn nhất có thể.”
Người phụ nữ cúi mặt nhìn xuống. Ánh đèn chiếu làm bóng lông mi cô ta phủ tối gò má. Cô ta hé môi mấp máy.
“Cho ăn ngày hai lần cũng được.”
Rồi lấy ống tay áo che mặt.
“Hiểu rồi. Hiểu rồi. Đừng khóc. Cô ở lại thêm một thời gian nữa cũng được.”
Người phụ nữ ngẩng mặt lên. Lưỡi lè ra khỏi bờ môi đỏ thắm. Là yêu quái mà lưỡi cô ta ngắn thật. Có một mẩu bánh tôm trên cái lưỡi hồng hồng của cô ta. Hóa ra cô ta chỉ đang liếm mẩu vụn bánh tôm dính trên ống tay áo.
“Cho ăn ngày hai lần, cho bánh tôm ngày một lần.”
“À… vâng”
Liệu có ổn không nhỉ. Cuộc sống của tôi từ giờ trở đi ấy.