Thâm u và cao cả
Cách đây ba mươi sáu năm, có một đứa hài nhi đã cất tiếng chào đời dưới một nếp nhà tranh cũ kỹ. Hôm ấy là hôm mười bảy tháng hai dương lịch, năm 1922. Người mẹ bắt đầu thấy đau bụng từ lúc nửa đêm. Người cha chặt tre đóng vội một cái giường và toan vượt qua chồi găng để rước bà mụ già là người đã sống trong xóm rừng này rất lâu và đã “đứng đẻ” từ năm hai mươi tuổi tới năm sáu mươi tuổi.
Nhưng... đã có tiếng khóc lạnh ngắt của một đứa bé vừa lọt lòng mẹ. Thằng bé bị đẻ rớt xuống đất đầu giẹp [1] hẳn một bên. Khi cha nó ẵm nó lên giường thì có tiếng đập cửa rầm rầm. Mẹ nó đang đau, hoảng hốt nín hẳn tiếng rên.
Người đàn ông nói nhỏ vào tai vợ:
- Cướp!...
“Châu ôi [2], lại cướp! Đêm nào cũng cướp, không đánh xóm dưới thì đánh xóm trên”. Người đàn ông xách con roi trường hầm hầm xông lại phía cửa trước. Người vợ chưa kịp can chồng thì cánh cửa sau nhà đã mở tung ra. Bọn cướp ùa vào. Đi đầu là Năm Mun, người Thổ lai, tên trùm cướp đã làm mưa làm gió trong vùng này. Hắn tiến lại giường đẻ và lẹ làng nắm hai ống chân non của đứa bé mới sinh ra giở bổng lên. Thằng bé lộn đầu xuống đất không khóc chỉ chới với như một con gà bị xách ngược đầu.
- Buông roi xuống! Không, tao vật chết...
Người cha nóng ruột quá, nhưng phải riu ríu buông roi xuống đất và năn nỉ Năm Mun:
- Chỗ anh em với nhau... Anh Năm làm ăn không chừa tôi sao? Con tôi tội tình gì? Xin anh Năm để nó nằm xuống giường rồi bắt tôi làm sao tôi cũng chịu...
Năm Mun đặt thằng bé xuống giường, bên người đàn bà đang run như người lên cơn sốt.
- Bao nhiêu tiền phát xâu đưa hết đây tao. Không, tao sẽ đập bể sọ con mầy bây giờ!
- Anh Năm không thương...
Năm Mun toan “làm dữ”. Người đàn ông dịu giọng:
- Thì để tôi đưa!
Hai mươi phút sau, bọn cướp “buồm” [3] im.
Người cha thở dài, than thở với vợ:
- Thằng Năm Mun nham hiểm thật. Bình nhật nó trốn tôi như chó gặp “ông thầy” có đâu dám làm lộng như đêm nay. Nó rình mình từng giây từng phút và làm ăn ngay giữa lúc mình đẻ. Khổ quá! Bao nhiêu tiền phát xâu cho “dân làm đường” mất hết rồi. Lấy gì đền vào? Tiền của nhà nước phải chơi đâu? Ở tù rục xương!...
Người vợ nén nước mắt thở dài:
- Vì con!
Người chồng lặp lại:
- Vì con!
Thưa các bạn, đứa bé khốn nạn trong chuyện vừa kể chính là tôi vậy! Tôi lớn lên trong rừng và mãi tới năm bảy tuổi mới được đưa ra học ở trường tỉnh. Trọn bảy năm, tâm hồn thơ dại của tôi đã thấm sâu bóng núi, hình cây, tiếng chim, lời suối.
Nhưng từ khi được đưa ra tỉnh học và lần lần xa mãi cảnh rừng xanh, núi thẳm, cái khung cảnh thiên nhiên khi xưa thật đã hoàn toàn bị xóa trong lòng tôi.
Tôi đã lăn mình theo ánh sáng, để mẹ già đếm tháng ngày qua, khóc thầm trong bóng tối. Cha tôi càng trọng tuổi, càng lặng lẽ, để mặc tôi chạy theo tiếng gọi phù hoa.
Cho đến khi tôi được tin mẹ hấp hối trên giường bệnh mới hộc tốc đáp xe lửa từ Huế về Nam thọ tang.
- Má có trối gì về con, trước khi nhắm mắt không?
Cha tôi vẫn lặng lẽ:
- Không!
Rồi ôn tồn tiếp:
- À có, mẹ mày có bảo nó chết là vì...
Tôi áy náy:
- Vì con phải không ba?
Cha tôi cảm động thở dài lặp lại:
- Vì con!...
Nhưng rồi tôi lại bỏ cha già và bầy em dại, chạy theo bè bạn. Cha tôi về hưu liền đem bầy em tôi “lên rừng” khuếch trương sự nghiệp.
Trong một bức thư gửi cho tôi, người đã viết:
... Con ơi! Ba không ngăn bước lãng du của con. Con cứ đi đi, cho đã thèm sông, thèm núi. Ba ở đây xây sự nghiệp cho con. Ngày nào thấy mỏi gối, hãy tìm về với ba. Mảnh rừng đã phong tiếng khóc của con ngày xưa vẫn còn chờ đó! Cũng như lòng ba đang theo bước con đi...
Nhưng mãi tới ba năm sau, tôi mới trở về quỳ bên giường bệnh của người cha hấp hối. Ba tôi càng gần sự chết càng lặng lẽ. Sau cùng, người gượng dặn tôi:
- Con hãy thay cha, nuôi em! Đừng bỏ dở sự nghiệp...
Thế rồi người nhắm mắt. Tôi làm đúng theo lời cha già trối lại, cắt đứt sự luyến ái thị thành. Gió rừng lại thì thầm kể cho tôi nghe những chuyện thiếu thời, ngọt như tiếng hát ru của một người mẹ.
Ngày ngày, khói vẫn lên xanh trên đầu núi cũ. Thiên nhiên vẫn nguyên vẹn như lòng kẻ chung tình. Chỉ có tôi là phụ bạc, chớ rừng, núi có phụ bạc tôi bao giờ?
Trong tôi, từ đó ánh sáng thị thành lu mờ dần. Lòng tôi chỉ có sao trên trời và ánh lửa cháy chập chờn trong những “bồn” thổ dân.
Tôi bắt đầu quen ăn cơm Mọi, uống nước mạch và cùng các ùr rũ [4] hát đối dưới trăng rằm. Đêm đêm tôi thức bên đèn giữa tiếng ngáy của Sơn Lâm say giấc và để cho lòng mình chảy thành mực trên giấy trắng.
Các bạn hãy quên những phút phồn hoa đô thị và cùng với tôi đi sâu vào những chốn thâm u, cao cả cho lòng vợi bớt những điều nhỏ nhen phàm tục.
Tháng mười một dương lịch, năm 1948
Chú thích:
[1] Giẹp (cũ): dẹp.
[2] Pn. Bâ của Chao ôi (tiếng than vì đau đớn).
[3] Tiếng lóng: chuồn, tẩu tán.
[4] Gái tơ (LVS).