Kòn Trô

Kòn Trô

Tổng số chương: 9

So với nhiều tác giả, Lý văn Sâm (1921-2000) là người sau rốt viết truyện đường rừng. Truyện ngắn đầu tay của ông, Kòn Trô, được sáng tác mùa hè năm 1941 và xuất hiện trên Tiểu thuyết thứ Bảy số 416, ra ngày 6 tháng 6 năm 1942. Tiếp theo là một loạt các truyện ngắn như: Thần ngư động, Xác Mu-mi trên núi đá, Răng Sa Mát, Voi đội đèn, Ngăn rạch bắt sấu, Mũi Tổ. Các truyện này được Nhà xuất bản Tân Việt tập hợp, in thành tập mang tên Kòn Trô, năm 1949. Nhiều tập truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết đường rừng khác như Sương gió biên thùy, Sau dãy Trường Sơn, Chiếc vòng ngọc thạch, Mười lăm năm hận sử... đều được Lý văn Sâm viết vào những năm 1947, 1948, 1949. Cá biệt, truyện vừa Một chuyện oan cừu, Lý văn Sâm viết vào năm 1954. Như vậy, có thể nói, Lý văn Sâm viết truyện đường rừng vào giai đoạn cuối của thể tài này nhưng kỳ lạ là lúc nào cũng có độc giả (Lê văn Siêu, Văn học sử thời chống Pháp, tr.392).

Như các nhà văn viết truyện đường rừng đương thời, Lý văn Sâm từng trải qua cuộc sống miền rừng núi. Cả quê nội lẫn quê ngoại của ông trước năm 1945 đều là vùng hoang sơ. Đặc biệt, tuổi thơ Lý văn Sâm lại trải qua hầu hết thời gian ở vùng rừng rậm. Thiên nhiên hoang dã, những cánh rừng phương Nam không phải là nơi Lý văn Sâm chỉ ghé qua, hoặc tưởng tượng ra từ trong sách vở. Trái lại, như chính nhà văn kể, tâm hồn thơ dại của tôi đã thấm sâu bóng núi, hình cây, tiếng chim, lời suối. Xa rừng, đối với ông là lăn mình theo ánh sáng để chạy theo tiếng gọi của phù hoa. Lớn lên, Lý văn Sâm về tỉnh lỵ, đi nơi này, nơi khác để học hành, rồi lại có những năm dài trở về vùng Mã Đà, Trị An, vùng thượng nguồn của tỉnh Đồng Nai làm nghề khai thác than. Khi đó, cuộc sống, con người miền sơn cước trở thành cuộc sống của chính nhà văn:

Tôi bắt đầu quen ăn cơm Mọi, uống nước mạch và cùng các ủ rũ hát đối đáp dưới trăng rằm. Đêm đêm, tôi thức bên đèn giữa tiếng ngáy của Sơn Lâm say giấc và để cho lòng mình chảy thành mực trên giấy trắng.

Có thể nói, Lý văn Sâm không hề là khách lãng du khi viết truyện đường rừng. Ông sáng tác về cuộc sống của chính bản thân và những người chung quanh mình. Cho dù Thế Lữ, Lan Khai hoặc TchyA có nhiều năm tháng sống ở miền rừng núi, song khi sáng tác các ông đã trở thành người phố thị, kể lại những ký ức thuở ấu thơ. Sáng tác Lý văn Sâm không hoàn toàn như thế. Nhiều truyện đường rừng được nhà văn viết ngay giữa chốn rừng sâu, núi thẳm, bên tai là tiếng thác Trị An gầm réo, trước mặt là bóng tối của rừng cây mênh mang, trùng điệp:

Đêm nay mưa, gió đầy trời. Thác đổ gấp. Tiếng gió thổi ù ù trong các hốc đá nghe như tiếng hú.

Tôi cầm bút, run tay chép lại câu chuyện động Thần Ngư bằng tất cả tấm lòng tưởng nhớ những người đã mất (Thần Ngư động - Tháng bảy, năm 1942).

Lý văn Sâm bắt đầu sáng tác vào những năm bốn mươi khi tình hình chính trị ở Việt Nam thật sự có nhiều rối ren, thực dân Pháp đang còn đó với đầy đủ bộ máy cai trị hà khắc thì đội quân Phù Tang đã nhảy vào nghênh ngang. Trong lòng những thanh niên mới lớn như Lý văn Sâm vẫn còn đó âm vang các cuộc khởi nghĩa hồi đầu thế kỷ, nhưng trước mặt bộn bề gian khó. Ở vùng nông thôn, miền sơn cước nơi Lý văn Sâm có nhiều năm sinh sống, bộ mặt thật của xã hội với biết bao cảnh đói nghèo khốn khổ được phơi bày khá rõ. Trong một hồi ức, nhà văn kể:

Trước hết xin tâm sự vì sao tôi chọn nghề cầm bút. Viết văn đối với tôi là để phát biểu ý kiến, bày tỏ thái độ. Tôi xuất thân từ nghề làm báo. Sau đó chuyển dần ngòi bút sang viết văn.

Như nhiều người biết, trước năm 1945 tôi là một con người bất đắc chí, một trí thức bị vây hãm bởi những tư tưởng thù địch. Là con một viên chức kiểm lâm, nhưng tôi không nối nghiệp cha làm viên chức cho Tây. Trong đầu óc tôi bắt đầu có những tư tưởng phản kháng. Tôi ghét Tây, không chấp nhận xã hội mình đang sống. Ra trường, tôi thích phiêu lưu đây đó. Ở đâu những điều ngang trái nảy sinh từ một xã hội nô lệ cũng đều đập thẳng vào óc, vào tim, vào mắt tôi. Đau quá! Nhưng không sao tránh né được. Sau những năm lang thang mệt mỏi, tôi trở về quê cũ Tỉnh Biên Hòa, con sông Đồng Nai. Núi Châu Thới, chùa Thủ Huồng, Cồn Gáo. Núi Bửu Long. Tất cả đã tiễn tôi ra đi và vui mừng khi nhìn thấy tôi trở về. Năm đó tôi 19 tuổi. Mới chừng ấy tuổi mà đã mang nỗi chán đời. Bạn bè gọi tôi là ông cụ non.

Tuy nhiên quê hương vẫn nhiều hấp dẫn, con người bị đè nén nên vẫn âm ỉ một sự vùng dậy trong lòng. Sự vật chung quanh nhen nhúm và trang bị cho tôi một triết lý mới, không thể tồn tại như một thứ thảo mộc vô tri. Sống, phải có suy nghĩ và hành động. Hồi đó tôi chưa gặp Đảng nên chẳng biết mình phải hành động cách nào cho đúng. Thôi thì... hành động một cách tự phát vậy.

Thế là tôi làm báo, tôi viết văn. Bước vô cái nghề này coi mòi hợp với năng khiếu tôi. Không gào thét căm phẫn được thì than thở, ngậm ngùi cho vơi bớt những gì đè nặng tâm tư.

(Lý văn Sâm - Truyện ngắn đầu tay của tôi, Báo Văn nghệ Đồng Nai, số 59/7.1985)

Trên báo Xuân Sóng Mới, xuất bản ờ Sài Gòn, năm 1950, Lý văn Sâm cũng từng kể về lý do sáng tác những tác phẩm đầu tay của mình:

Mãi đến lúc tôi thay ba tôi cai quản lò than Cái thác nước ở Trị An, tôi rất thiếu bạn bè. Quanh tôi chỉ có rừng và thác. Trước mặt tôi giấy bút là bạn. Tự nhiên tôi cần phải viết để quên buồn, chớ không phải để gởi đăng báo...

Từ ấy, tôi ham viết, viết chơi chớ không bị sanh kế thúc ép như bây giờ.

Dù sao đi nữa thì lý do Lý văn Sâm sáng tác truyện đường rừng cũng không giống như các nhà văn lớp đàn anh. Ông tìm cách gửi gắm khát vọng, những đòi hỏi tự chính bản thân mình vào văn chương. Khát vọng ấy là tự do, công lý, cuộc sống đầy tình nhân ái - những điều mà xã hội thời bây giờ không thể có được. Nó được ấp ủ trong tâm hồn Lý văn Sâm, trong ý nguyện của những con người phản kháng mà nhà văn từng gặp gỡ. Sau này, Lý văn Sâm kể, khi viết truyện đường rừng là lúc ông đã gặp được một vài chiến sĩ cộng sản, những người yêu nước. Điều đó có ảnh hưởng đến sáng tác của ông, nhưng sự tác động ấy chưa đem đến cho Lý văn Sâm những thay đổi căn bản về thế giới quan, và cũng không thể nói ông là nhà văn cộng sản viết truyện đường rừng. Sự phản kháng đối với xã hội của Lý văn Sâm là sự phản kháng của một thanh niên giàu tính lãng mạn, khát khao tự do, công bằng. Vì thế, sáng tác Lý văn Sâm không hoàn toàn là chuyện hư cấu, tưởng tượng. Nó phản ánh tình cảnh, nguyện vọng của một lớp người và mơ giấc mơ được giải phóng, được sống cuộc đời thanh sạch hơn:

Các bạn hãy quên những phút phồn hoa đô thị và cùng với tôi đi sâu vào những chốn thâm u, cao cả cho lòng vợi bớt điều nhỏ nhen phàm tục (Lời tựa tập Kòn Trô, 11.1948).

Xuất phát từ quan niệm nghệ thuật như thế, truyện đường rừng của Lý văn Sâm đã mang bộ mặt khác hẳn. Xã hội mà Lý văn Sâm khát vọng là xã hội đối lập với hơn phân nửa cuộc đời còn lại. Với nhà văn, xã hội mà nhân loại đang sống là xã hội tù hãm, mất tự do. Ở đó, không có mảnh đất cho những cuộc đời dọc ngang, lại càng không có chỗ cho công bằng, tình nghĩa. Kòn Trô (truyện ngắn Kòn Trô) vốn chẳng phải là con người của “rừng rú” nào, từ chốn thị thành, anh “xa lánh hẳn loài người” để về chốn sơn lâm, lập một “xã hội” riêng:

Bọn chúng tôi trồng khoai, cấy lúa, gieo bắp, gây riêng một thế giới phóng khoáng, xa hẳn gió bụi chốn thị thành. Chỉ vì một năm, gạo thua, lúa kém, chúng tôi mới phải ép lòng đón người giật của và cướp kho lương của ông đồn tại đây. Từ đó, tiếng tăm Kòn Trô nổi dậy một vùng. Nhưng chúng tôi chỉ bạo động trong một năm ấy thôi, rồi thì cải ác tùng thiện, trở về chốn cũ, cầm lại cái cày, quơ lại cái cuốc, sống một cuộc đời lương thiện như những kẻ nông dân. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bị bao vây nhưng vì không thuộc đường lối nên trăm người vào đây, khó mà trở về cho đủ. Cuộc đời của tôi từ đó càng ngày càng nặng tội, càng ngày càng lem luốc, càng ngày càng xa nhân loại. Người đời cho bọn tôi là một lũ quỷ sống, uống máu người không tanh...

Còn Châu Phiên (Rồng bay trên núi Gia Nhang) thì sau khi được đưa về tỉnh học và sang Pháp ở trọn ba năm mới trở về Đông Dương, đã tìm lại nơi chôn nhau cắt rún, mộ dân lập ấp, cày ruộng trồng ngô sống một cuộc đời riêng biệt. “Xã hội” nơi Châu Phiên lập ra có trường dạy học, dạy dân mua bán và - bỏ lần hết những cổ tục phiền phức. Lạ hơn, ở đó có sách dạy người Kinh nói thổ âm và dạy thổ dân chữ Việt Nam và tiếng Pháp! Những sự đánh giết nhau cứ bớt lần cho đến khi dứt hẳn.

Chắc chắn “xã hội” đó nằm trong khát vọng của nhà văn hơn là sự thật đang diễn ra. Nó càng không phải là một kiểu hoài niệm về “thiên đường đã mất”, bởi cho đến khi Lý văn Sâm viết những truyện đường rừng “xã hội” ấy vẫn chưa từng có trong lịch sử.

Nói thế không có nghĩa là hiện thực trong truyện đường rừng của Lý văn Sâm chỉ là hiện thực hư ảo, giàu chất mộng mơ. Ở một phía khác, bên ngoài thế giới khát vọng của nhà văn, là một xã hội có thật, với bao lừa lọc, thù hận, đói kém. Xã hội ấy sẽ giết chết mọi ước mơ về hạnh phúc, tự do và công bằng:

Trong một cuộc đi săn lạc mất lối về, người nữ sinh ấy tình cờ lọt vào nội địa của Kòn Trô. Nó tiếp đãi nàng rất mực tử tế và sau cùng lại đưa nàng về thác Mu Mi. Vì quá nặng lòng trìu mến, nó còn hẹn với nàng rằng nó sẽ theo và tiễn nàng một lần chót trên một đoạn đường về. Cũng bởi mạng nó đã cùn, nên mới khiến cô nữ sinh kia đem khoe chuyện ấy với hai người bạn học cùng lớp. Hai người kia lén đi báo tin cho ông đồn Châu Mạ hay...

Thế rồi, một viên quản đồn và hai mươi người lính võ trang đầy đủ, ra mai phục ở ven rừng. Đúng mười lăm giờ kém một khắc, Kòn Trô lững thững cỡi ngựa, ung dung đi vào giữa hai hàng súng. Một tiếng hô to. Hai mươi khẩu súng cùng nhả đạn, một lượt. Kòn Trô bị đạn khắp mình, máu me tuôn ướt áo (Kòn Trô).

Kòn Trô chết có nghĩa là “xã hội” mà anh giàu công vun đắp không có cơ hội tồn tại nữa. Bởi vậy, bao năm rồi tiếng thác vẫn rền rĩ mãi không thôi như lời ai than khóc một nỗi hận dài.

Sự đen bạc của “xã hội thật” kia còn giết chết bao thứ tình cảm thiêng liêng của con người. Anh thợ săn giỏi nhất làng Thanh Sơn đã biến thành con chằn niên, linh hồn thoát khỏi thể phách, phảng phất trong cõi u minh mù mịt, bởi sau khi đi săn về thì người vợ lại đang quấn lấy tình nhân không chịu mở cửa, giải ngải cho chồng (Răng Sa Mát). Vì sự mê hoặc của bạc vàng, Tùy đã rủ Phú, một người bạn thân thiết đến nơi nguy hiểm để lừa đẩy xuống vực sâu (Sau dãy Trường Sơn). Chẳng khác nào Giới Tử Thôi, Tchô Phay đã đưa người em mù lòa trốn biệt vào rừng vì ghê sợ cái xã hội văn minh với những tình cảm bội bạc (Vợ tôi, người dân tộc thiểu số)... Thành ra, thế giới được gọi là văn minh, ánh sáng đó đối lập gay gắt với rừng sâu, núi thẳm:

Được trở về cuộc đời của một nông dân vô tội, lòng tôi bỗng dưng sắt đá với ánh sáng văn minh, lãnh đạm với cả những bạn tri kỷ “mắt xanh” nhất trần ai (...)

Tôi lại trở về với những người bạn thổ dân ở những mạn rừng sâu, xa hẳn nhân loại. Trải nhiều mưa, gió, thiên nhiên tuy có lợt màu nhưng vẫn chưa mất hồn man rợ. Tiếng thác vẫn xé ngàn và lời chim vẫn tri kỷ như những thuở nào (Vực thẳm).

Bối cảnh truyện đường rừng luôn là bức tranh thiên nhiên muôn màu sắc. Dù sắc thái có khác nhau, song thiên nhiên trong truyện đường rừng của Thế Lữ, Lan Khai, TchyA bao giờ cũng là vùng đất chưa từng khám phá, xa lạ với đồng loại và hẳn nhiên, đầy chất ghê rợn:

Sừng sững giữa trời, bao quát đôi cây gò đất, núi ấy trông đường bệ hách dịch như đứng làm chúa tể cho cả một vùng phong cảnh hoang vu. Dân Thổ ở các làng gần đó, ngày nào cũng trông thấy ngọn núi mù mù lan tím, nhô lên trên những hàng rừng xanh chi chít um tùm...

Lại nhiều khi, sau một hồi giông tố dữ dội, mây đen biến hết, ánh nắng lại soi xuống; bấy giờ trên đỉnh núi chập chờn một tầng khói phủ dần dần bay đi. Trong đám hơi trắng mà người ta bảo là nộ khí của thần hang, có người nói rằng thường trông thấy những hình bóng kỳ dị.

(Thế Lữ, Vàng và máu)

Ấy là chưa nói về khí hậu xứ Đồng Giao, ai đã qua vùng ấy độ dăm bảy tháng, ắt phải rùng mình ghê sợ, mỗi khi nói về thủy thổ miền giáp giới Bắc, Trung kỳ. Đó là tổ sốt rét rừng, dẫu uống ký-ninh đến điếc tai cũng khó lòng tránh khỏi (...). Đêm thì lạnh buốt phải đắp chăn tới sáng, ngày lại nóng bức như giữa mùa hè. Sống trong bầu hàn thử tương xung đó, phải có xương đồng da sắt mới tránh khỏi sự ốm đau quặt quẹo. Buổi sáng, tám giờ, sương trắng như sữa, đặc như khói, còn phủ kín non sông cây cỏ; mãi đến khi mặt trời lên cao mới tan dần. Chiều tới, vào khoảng bốn năm giờ, sương đã bắt đầu rỏ xuống rồi tụ lại, chỉ chốc lát là phong cảnh bị chìm đắm trong một bức màn trắng đục, ẩm thấp, khiến người đi trong năm bước khó lòng trông thấy mặt nhau. Trong vụ quý xuân, mỗi khi có mưa râm rích, sự nặng nề ướt át càng tăng gấp bội, trời thu một màu tiêu điều xám đục, đất thì vắng lạnh đìu hiu, phong cảnh thực là thê lương ảm đạm.

(TchyA, Ai hát giữa rừng khuya)

Truyện đường rừng của Lý văn Sâm, trái lại, thiên nhiên là môi trường sống thật sự, đặc biệt luôn chan hòa ánh sáng và đầy chất hùng tráng, nghĩa hiệp:

Ánh nắng một buổi hè, tươi vàng như một màu sơn mới, chan hòa khắp cảnh lâm tuyền...

Dưới ánh bình minh lộng lẫy, hàng ngàn tấn nước từ ngọn sông cao đổ xuống vực sâu thành những tiếng động kinh hồn (Kòn Trô).

Những mất mát, thua thiệt của người đời ở chốn thị thành sẽ được thiên nhiên bù đắp. Những nỗi đau rát, cả sự hận thù, thiên nhiên, cùng với thời gian sẽ là người bạn sẻ chia, gọt rửa:

Ngày ngày, khói vẫn lên xanh trên đầu núi cũ. Thiên nhiên vẫn nguyên vẹn như lòng kẻ chung tình. Chỉ có tôi là phụ bạc, chớ rừng núi có phụ bạc tôi bao giờ? (Thâm u và cao cả).

Thiên nhiên, vì thế, là người bạn tri kỷ của con người hơn là chốn sơn lâm mà họ phải khiếp sợ. Ở đâu lừa lọc, phụ rẫy người đời, còn thiên nhiên, luôn là kẻ chung tình, lòng không vướng bụi trần ai:

... Buổi chiều ôm một thứ ánh nắng vàng lợt ngã xuống mặt nước sông La Ngà. Nước chảy không mạnh lắm. Nước tháng Năm không đục ngầu như nước tháng Tám. Màu nước trong xanh, xanh như một thứ tấm lòng chưa gợn niềm thế tục (Một chuyện oan cừu).

Đôi lúc, nỗi đau của con người tràn vào thiên nhiên để núi rừng hát khúc ca ai oán:

Núi Bạch Hổ đứng sững trong cõi mịt mù của khói ngàn xanh xám. Một miếng mây trắng quấn qua đỉnh non xa như một bức khăn tang. Hình ảnh trái núi kia, trải bao nhiêu năm cách biệt, vẫn còn nguyên vẹn như tấm lòng không thay đổi của một người tri kỷ (Kòn Trô).

Phải chăng, đấy là thiên nhiên, nhân chứng của người đời, cả niềm hạnh phúc lẫn buồn đau? Thiên nhiên ấy làm sao có thể khiến con người run sợ một khi ở đó họ tìm lại những gì mình đã mất trong chốn gió bụi thị thành?

Nhưng đừng tưởng thiên nhiên trong truyện đường rừng Lý văn Sâm không có những huyền bí. Núi rừng phương Nam cho đến giữa thế kỷ trước vẫn chứa đựng biết bao lạ lùng, mới mẻ. Xa hơn nữa, vào thời Lý văn Sâm sáng tác, hàng trăm cánh rừng già phủ kín đất miền Đông Nam Bộ. Riêng vùng Mã Đà (Đồng Nai), nơi nhà văn có dịp sống ở đó nhiều năm, hàng thế kỷ đã lừng lẫy với tên gọi “Mã Đà sơn cước anh hùng tận”, nơi chôn vùi biết bao anh tài từng nuôi tham vọng thám hiểm “vùng đất chết”. Truyện Mười lăm năm hận sử mở ra vùng đất bí mật:

Lúc ấy đã gần đúng Ngọ.

Cả một khu Blàn-za như muốn bùng cháy lên dưới sức nóng của mặt trời mùa hạ.

Không một hơi gió thoảng. Không một bóng chim muông. Vòm trời xanh bát ngát ngập những hoa nắng rung động lập lòe gần nảy lửa.

Giờ này là giờ an nghỉ của các loài cầm thú, là giờ rong chơi của các đấng sơn thần, là giờ lang thang của các linh hồn mọi rợ ẩn trú nơi của sơn lâm huyền bí.

Truyện đường rừng của Lý văn Sâm không thiếu cảnh thiên nhiên hùng vĩ:

Khi đi gần tới chỗ giáp mối, Mã Đà giang bị đá hàng nổi chập chùng ngăn ngọn thủy triều. Sức nước đang chảy bị dội lại, liền tràn qua những gộp đá to, chuyển động vang trời đất. Và xa xa, về phía thượng lưu Sông Bé, có một hòn đá khổng lồ mọc lên khỏi mặt nước, trông giống như hình một con chim két (Thần Ngư động).

Lại có những cảnh giàu chất sử thi như trong truyện cổ hồi xa xưa của các dân tộc:

Trời làm phong vũ ngót bảy ngày tròn. Gió tung rách rừng. Mưa chan đầy nội cỏ. Lá níu lấy đá. Nhành níu lấy nhành. Chim rừng xao xác. Bọn dã thú lấm lét nhìn trời (Rồng bay trên núi Gia Nhang).

Đôi lúc, nhà văn trở thành người hát rong kể với mọi người câu chuyện truyền kỳ về lịch sử giống nòi của họ:

Đó là buổi mọi người còn sống chung với muông thú và cùng ngơ ngác như nhau, lấy mắt nhìn năm tháng trôi qua... Này là núi non của muôn đời tăm tối... Này là cây cao, bóng cả của rừng núi âm u. Núi chưa có người đặt bước thám du, rừng cây chưa có dấu vết của lưỡi búa tiều phu hủy hoại (Xác Mu Mi trên núi đá).

Thế nhưng, thiên nhiên trong sáng tác Lý văn Sâm không bao giờ là chốn thâm u mãi mãi. Bức màn bí mật ấy cứ dần hồi được vén lên. Rừng sâu, núi cả chỉ thật sự bí hiểm đối với những ai lỡ chân, lạc bước hay ở về phía xã hội của “ánh sáng thị thành” như nàng Thể Phụng trong Kòn Trô:

Nàng nhìn quanh mình, chỉ thấy rừng cây trùng điệp chìm trong bóng tối mênh mang và ngửa mặt lên cao, cũng vẫn một vòm trời chót vót tối om như địa ngục.

Đến lúc người ta thật sự sống trong “xã hội” ấy, núi rừng mang vẻ đẹp hùng tráng, hiên ngang, tựa hồ là người bạn thân thiết, là chỗ dựa tinh thần cho con người:

Lúc ấy đúng vào mùa hoa chai nở. Những cánh hoa li ti điểm trắng rừng xanh, lờ mờ như một lớp tuyết phủ. Mặt trời đỏ chói, trồi lên sau ngọn Bạch Hổ sơn; rực rỡ như một vừng hào quang tỏa quanh đầu đức Phật...

Phụng ngước nhìn trái núi. Ngọn Bạch Hổ sơn hình như cũng đang nhìn nàng (Kòn Trô).

Lý văn Sâm đã đến với rừng theo cách riêng của mình như thế. Nhà văn không có chủ ý kích thích sự tò mò, trí tưởng tượng ở người đọc như Lan Khai, Thế Lữ hay TchyA trước đó đã làm. Cây bút truyện đường rừng phương Nam mong mỏi bạn đọc hãy quên những phút phồn hoa đô thị để cùng với mình đi sâu vào chốn thâm u, cao cả cho lòng vợi bớt những điều nhỏ nhen phàm tục.

Rõ ràng, thiên nhiên đã đóng vai hết sức quan trọng trong sáng tác truyện đường rừng của Lý văn Sâm. Với ông, ở đó có hình mẫu về một nơi chốn thanh cao, không chen lấp bụi trần, đủ sức cho những ý chí dọc ngang vẫy vùng, cho những ước mơ phóng khoáng được thể hiện. Thế nhưng, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn được thể hiện tập trung nhất ở những nhân vật mà ông đã dày công xây dựng.

Như đã nói, tất cả các tác phẩm truyện đường rừng nếu không có những nhân vật khác thường, kỳ dị thì chẳng mấy ai xem đó là truyện đường rừng nữa. Cô gái trong Người lạ của Lan Khai mang vẻ đẹp một cách dị thường: mặt dài thon; da trắng mòng mọng lại có những ván đỏ và phủ một lượt tơ như vỏ đào non; lông mày rậm, vàng như râu ngô lượn tròn trên cặp mắt sáng quắc. Lạ một điều là lòng đen mắt cô ta đỏ và trong suốt như mắt thỏ trắng. Cô ta nhìn một cách lấm lét đáng nghi: miệng cười như đốt lòng người. Nhưng đến hai hàm răng thì ghê quá...! Răng người đâu mà nhọn hoắt như răng mèo! Y phục không ra Kinh không ra Mán, chẳng phải Khách chẳng phải Nùng... Toàn thân có một mùi thơm như hắc hương... Đọc đến đây, hẳn ai cũng nghĩ rằng đó là ma! Còn cô gái Thổ trong truyện Đêm trăng của Thế Lữ có những hành tung rất bí mật, quyến rũ, trong trẻo, say đắm đấy, thoắt đã nghiến răng mà lẩm bẩm, xốc nách người chết để ngồi rũ dưới chân rồi đứng dạng hai chân ra, cái mép váy đằng trước căng thẳng bởi hai ống chân thô và trắng. Một tay nó xốc ông Ba đứng dậy, một tay nửa nâng ở ngang lưng (...) dướn mình quăng cái thây xuống... Nhân vật của TchyA bí hiểm đến nỗi không rõ ma hay người, cõi âm và cõi dương luôn hòa lẫn làm một:

Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khói đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra sao, chỉ hình như cùng mặc áo chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Đó là một thứ trang phục tôi tưởng tượng ra, vì trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cường tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo hơn những người có mắt nhiều (Ai hát giữa rừng khuya).

Điều lạ là tác giả Thần Hổ bao giờ cũng dùng lời lẽ thuyết phục bạn đọc rằng đó là những con người có thật, những câu chuyện không bao giờ bịa đặt. Thậm chí, TchyA còn tự hào mình đã nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh vì đã thấy ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt là mấy!

Khi viết truyện đường rừng hẳn Lý văn Sâm đã đọc Thế Lữ, Lan Khai, TchyA, kể cả Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh... Sau này, có lần nhà văn nhận xét Lan Khai là cây bút tiêu biểu nhất của thể tài truyện đường rừng. Tuy vậy, Lý văn Sâm đã không đi con đường mà tác giả Tiếng gọi của rừng thẳm hay Trại Bồ tùng linh đã chọn. Nhà văn tìm thấy ở những “mã thượng giang hồ” hình bóng của những con người nghĩa khí, khát khao tự do, không cam chịu bất công. Bởi vậy, về tính cách, những “mã thượng giang hồ” mà Lý văn Sâm dày công xây dựng mang khí khái Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha của những Lục Vân Tiên, Tử Trực trong truyện thơ Nguyễn Đình Chiểu. Họ không hề man rợ và ngu dốt, giết người chẳng ghê tay. Sự bí ẩn, nếu có, cũng chỉ là hình thức.

Một “tướng cướp rừng xanh” như Kòn Trô nhưng biết yêu tha thiết, đôi lúc lãng mạn như một nhà thơ:

Kòn Trô cảm giác như mình ngồi trên ngựa không vững nữa. Trời mau sáng quá, Kòn Trô không giữ được cảm động, ngùi ngùi ngâm lên như một người say rượu:

Mais je demande en vain quelques moments encore,

Le temps m’échappe et me fuit.

Je dis à cette nuit: “Sois plus lente” et l’aurore

Va dissiper la nuit.. [1]

.

Xin lưu ý bạn đọc, đó là đoạn thơ trong bài Le lac của thi sĩ Pháp Lamartine.

Còn đây là lai lịch của Châu Phiên (Rồng bay trên núi Gia Nhang), một người được xem chẳng những là vị cứu tinh của người Mọi mà lại là một vị thần đã mang sự thái bình lại cho thôn dân các ấp: Mỹ Trà, Thanh Sơn, Bù Lu, Bù Cháp v.v...

Tcau Fien được đưa về tỉnh ăn học và sang Pháp ở trọn ba năm mới trở về Đông Dương. Gã con trai ấy sanh đẻ giữa một vùng thiên nhiên phóng khoáng nên rất yêu thương những khung cảnh rừng núi tự do. Khi trở về nơi chôn nhau cắt rún, Châu Phiên liền mộ dân lập ấp, cày ruộng, trồng ngô sống một cuộc đời riêng biệt. Không ai thấy bóng Châu Phiên đâu nữa. Người ở thành cũng quên lần gã con trai kỳ dị ấy.

Lâu nay, không ít người cố công đi tìm nguyên mẫu, gốc gác của những Kòn Trô, Châu Phiên, Răng Sa Mát... Nhà biên kịch điện ảnh Phạm Thùy Nhân kể, có lần ông tìm đến nhà văn Lý văn Sâm để nói với ông nhận định của mình về nguồn gốc của Kòn Trô. Đọc nhiều tài liệu, đối chiếu với hoàn cảnh lúc tác giả sáng tác, Phạm Thùy Nhân quả quyết: Kòn Trô nhất định là người Châu Mạ, một dân tộc sinh sống ở vùng Đồng Nai thượng. Nhà văn Lý văn Sâm chỉ cười rồi bảo: Cậu có biết Kòn Trô thực là ai không? Tất nhiên, Phạm Thùy Nhân không thể trả lời. Lý văn Sâm “sau khi hít một hơi thuốc, chậm rãi nói: Là tôi! Tôi lấy tôi làm hình mẫu cho Kòn Trô” (Tạp chí Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh, số 16/2000). Tương tự, các nhân vật chính của truyện đường rừng Sương gió biên thùy đều có bóng dáng xa gần với những con người mà tác giả từng thân thiết và ngưỡng mộ. Khi viết truyện đường rừng, Lý văn Sâm không hoàn toàn hư cấu. Đất và người phương Nam hồi ấy đã cung cấp cho nhà văn không ít những nguyên mẫu thật sự hấp dẫn. Những nguyên mẫu ấy phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn, hoặc chí ít là những gợi ý khi sáng tác người viết có dịp thể hiện ước mơ, khát vọng của mình.

Lý tưởng của những con người trong truyện đường rừng Lý văn Sâm dẫu còn rất mơ hồ nhưng trong bối cảnh chung của văn học Việt Nam trước năm 1945, đó vẫn là một tiếng nói khác lạ. Trước hết, nó xua đi ý nghĩ về một lớp người thảo khấu, lấy việc giựt dọc, cướp bóc, chém giết làm phương tiện sống và cuộc đời chìm trong bóng đêm của rừng thẳm thâm u. Kòn Trô vì muốn “gây riêng một thế giới phóng khoáng, xa hẳn gió bụi chốn thị thành” nên mới tìm về nơi sơn lâm cùng cốc. Chung quanh anh là những kẻ vô gia cư, không cha, không mẹ, thân thế và cuộc đời gần giống nhau. Họ không cần phải cắt máu ăn thề mà họ cũng ăn ở với nhau một niềm chung thủy. Lý do thật đơn giản, bởi sự chung đụng trường niên nó gây cho họ cái dây đoàn thể bền bỉ, không ai có thể cắt đứt được. Ở đây, không có sự phản bội, không có sự man trá, không có sự ghen tị (...). Tâm hồn họ đã hòa hợp cùng cỏ cây hoang dại. Trong một “xã hội” như thế, người “dị kỳ” nhất là Kòn Trô. Dị kỳ ở chỗ, vượt lên hàng trăm thủ hạ gan dạ và đanh thép vốn là thổ dân, anh dược họ tôn xưng là “Con Trời”. Những cuộc đời què quặt khi gặp Kòn Trô bỗng bừng sáng, hạnh phúc. Mọi người không những nghe theo mà còn trung thành, thương yêu và kính trọng anh như cha. Cái chết của Kòn Trô được nhà văn miêu tả như một anh hùng thật sự:

Kòn Trô quả thật không thẹn với tên. Thật là một người anh hùng dũng mãnh. Tuy khắp người bị thương, nó cũng còn sức ngồi trở mặt ra phía đuôi ngựa, thúc chân một cái, con tuấn mã nhảy khỏi vòng vây. Con ngựa phi mức lớn. Nó ngồi trên mình con thú tinh khôn nhắm bắn ngã luôn năm người lính đồn rồi kiệt sức, rơi nhào xuống ngựa. Người ta xúm lại quanh nó. Nó nằm ngửa trên mặt lá ủ, mắt mở trừng trừng...

Vẻ dị kỳ của các nhân vật trong sáng tác Thế Lữ, Lan Khai, TchyA... thường tập trung vào những hành tung hết sức bí mật. Cho dù gan lì, không biết sợ ai, nhưng người đọc chỉ thấy đó là những kẻ bất chấp chông gai để thỏa mãn sự tò mò, đôi khi là tham vọng của mình:

Hai người cứ trông thẳng phía núi đá mà tiến lên; lúc xéo lên những lối rậm rạp bên đồi, lúc giẫm gãy những nấm rạ cụt ở ruộng lúa. Qua hết đồi này lại đến đồi khác; những bụi cây xanh mưa ấm mỗi ngày một rậm, đồng ruộng ngày một thưa; ngọn núi đá mờ mờ trong đám sương mù cũng ngày một rõ (Thế Lữ, Vàng và máu).

Vì thế, nhân vật truyện đường rừng cho đến trước Lý văn Sâm thường gieo vào lòng người đọc cảm xúc vừa thán phục, vừa kinh sợ. Trong mắt người đời, dù sao đi nữa, đó là những kẻ, hoặc tự thân đã là man rợ, hoặc bóng tối của núi rừng đã phủ lên những tia ánh sáng cuối cùng của cuộc đời họ. Ngay cả Vũ Ngọc Phan, khi phê bình Thế Lữ, đã không giấu nổi ngạc nhiên: Từ chỗ ca tụng tình yêu bát ngát, ca tụng cái đẹp tuyệt vời mà đi tới chỗ tả những cảnh khủng khiếp thì cũng hơi lạ. Người ta có thể nói: trong thi ca, Thế Lữ có những tình yêu về lý tưởng, ông muốn tìm lên Thiên đường để làm bạn với tiên; còn trong tiểu thuyết, Thế Lữ muốn xuống Âm phủ để ở gần với quỷ (Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập hai, tr.705).

Truyện đường rừng của Lý văn Sâm, trái lại, nhân vật chính luôn được nhà văn nâng niu, vun đắp. Vẻ dị kỳ của họ, có chăng, chỉ là sự vượt trội lên tất cả những người chung quanh:

Châu Phiên không phải là một tên lục lâm cường đạo. Châu Phiên không phải là một người tầm thường mà bất cứ một kẻ thường nhân nào cũng có thể gần được.

Châu Phiên là một ngôi sao sáng giữa một vùng sơn lâm, quanh năm khói ám. Châu Phiên là một vị thần cứu tinh của bọn đồng chủng bịnh hoạn. Châu Phiên là một ông hoàng trẻ tuổi đã cầm ngọn đèn dẫn đạo cho đám đồng chủng nhiều mê tín. Châu Phiên đã đánh tan sự khinh bỉ của bọn người ở thành đối với thổ dân miền trên mà họ quen gọi là người Mọi: những người rừng hôi hám, đầu bù như ổ quạ, mắt toét và mình mẩy ghẻ chốc quanh năm (Rồng bay trên núi Gia Nhang).

Họ không chỉ can trường, quả cảm, giàu nghĩa khí mà còn là những người đề cao lòng nhân hơn quyền lợi, giữ trọn vẹn chữ tín cho dù phải trả giá bằng cái chết. Cậu bé Răng Sa Mát khi biết mẹ mình vì mê nhân tình khiến chồng trở thành con chằn niên sống quẩn quanh trong rừng, đã nhờ ông Bống mỗi ngày vẽ một đạo bùa vào mình, ăn một củ ngải rừng và tự dùng dao nhọn rạch vào thịt da. Sau một tháng ròng với biết bao đau đớn, Răng Sa Mát đã một mình, nhắm phía mặt trời lặn, đi vào rừng sâu, tự nguyện hiến thân cho chằn niên ăn thịt để hoàn lại người thợ săn lừng danh năm nào. Trước khi lao từ cây cao xuống, Răng Sa Mát chỉ bật lên tiếng nói cuối cùng: Hãy trả thù cho con! Kòn Trô vì giữ đúng lời hứa sẽ tiễn người yêu trên đoạn đường nàng trở về đã sa vào chỗ chết. Ngược lại, những ai bội tín đã phải trả giá bởi nỗi ân hận không bao giờ dứt như người chồng của nàng Tchô Phay hơn mười năm qua đã mang “tâm tang” trường đời, thậm chí cái giá phải trả là cái chết thảm khốc như Giác (Vực thẳm), hay người vợ chàng thợ săn làng Thanh Sơn (Răng Sa Mát)...

Lý văn Sâm không có cuộc “lột xác” về tư tưởng sau năm 1945 như nhiều văn nghệ sĩ cùng thời. Những khát vọng về tự do, nhân nghĩa về sự công bằng trong xã hội của nhà văn đã dễ dàng bén rễ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai. Có điều, lúc này, lý tưởng đó đã trở nên sáng rõ hơn. Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Lý văn Sâm ở trong đoàn người nổi lên đi cướp chính quyền và liền sau đó đứng trong hàng ngũ của những người kháng chiến. Lý văn Sâm tiếp tục viết văn, làm báo và in các tác phẩm của mình không phải ở vùng chiến khu mà ngay trong đô thành, giữa vòng kiềm tỏa của chính quyền thực dân - tay sai. Bởi vậy, nhà văn phải chọn lựa cách thể hiện tư tưởng của mình vừa vẫn có thể tác động đến tầng lớp độc giả đô thị, hướng họ cùng chung bóng cờ, vừa tránh sự kiểm duyệt gắt gao của chính quyền Sài Gòn. Đó quả là sự lựa chọn chẳng mấy dễ dàng gì. Và, nếu không hiểu hết điều này, người đọc sẽ không bao giờ hiểu đúng về tác phẩm Lý văn Sâm sau năm 1945.

Như đã nói, từ năm 1946-1950 là giai đoạn sáng tác sung mãn nhất của Lý văn Sâm. Những truyện đường rừng được nhà văn viết trước năm 1945 được tập hợp và in thành tập như Kòn Trô, Rồng bay trên núi Gia Nhang... Ngoài ra, ông còn viết một loạt truyện đường rừng mới như: Mười lăm năm hận sử, Sương gió biên thùy, Thù nhà nợ mức, Vằn Phay Khửn, Chiếc vòng ngọc thạch, Sau dãy Trường Sơn. Nhiều tác phẩm không hẳn là truyện đường rừng nhưng có những yếu tố của thể tài này như: Cỏ mọn hoa hèn, Ánh sáng người mù, Ngà và Thuần. Ngay ở thể loại kịch, nếu xét về phương thức phản ánh, đó là những truyện đường rừng như: Người đi không về, Nham hiểm, Một bi kịch đã hạ màn, Nửa mảnh trăng thề, Đường về xứ Phật v.v... Ở các tác phẩm này, người đọc như gặp lại những người quen cũ trong một bối cảnh mới. Nếu nói “Quan niệm con người là hình thức đặc thù nhất cho sự phản ánh nghệ thuật, trong đó thể hiện sự tác động qua lại của nghệ thuật với các hình thái ý thức xã hội khác” (E. Kuprêanôva) thì truyện đường rừng sau năm 1945 của Lý văn Sâm thể hiện bước thay đổi về căn bản tư tưởng của nhà văn trước những biến thiên của thời cuộc. Trước đấy, nhà văn viết để “quên những phút phồn hoa đô thị”, khiến cho người đọc “lòng vợi bớt những điều nhỏ nhen”, còn bây giờ, “là một công dân Việt Nam nên tôi tham gia vào phong trào chống xâm lăng”, ý thức được “muốn làm văn hay phải hòa mình vào thực tế xã hội. Phải tạo cho mình và người đọc mình những quan niệm mới về nhân sinh”. Hình ảnh nhà văn trong sáng tác Lý văn Sâm bây giờ không còn là “gã giang hồ phiêu lãng” nữa mà đã là “một kẻ bộ hành lê những bước chân nặng nề bên bờ hố Bất Bình”. Có điều, đó không phải là bước thay đổi hoàn toàn khác trước mà chỉ là sự đi tiếp con đường nhà văn đang đi. Nếu như trong truyện đường rừng kiểu Kòn Trô, Rồng bay trên núi Gia Nhang, con người mang khát vọng tự do, công bằng, ao ước cuộc đời thanh sạch, giàu nghĩa tình thì truyện đường rừng mới của Lý văn Sâm lại là những con người đấu tranh cho tự do, chiến đấu để giữ lấy độc lập dân tộc. Ở họ, bây giờ, nghĩa vụ đối với Tổ quốc, sự sống còn của đất nước là trên hết. Họ là những nam thanh nữ tú vừa từ bỏ chốn thị thành, làng xóm đã rơi vào tay ngoại bang để ra đi:

Họ là những người đã từ nơi “tử địa” đi tìm “sinh lộ”. Kinh đô đã thất thủ rồi. Những thị trấn muôn trùng người, những thành quách lâu đài, tiêu biểu cho một nền kiến trúc văn minh đã lọt vào tay quân đội Phù Tang sau một đêm bạo hành (Sương gió biên thùy).

Cũng có thể, đó là những “mã thượng giang hồ” từng một thời vẫy vùng như Cả Tiễn:

Cách đây vài năm, có một cuộc khởi nghĩa trên bến đò đã khiến nhiều dân lành vì quá say mê hai chữ tự do để máu mình nhuộm đỏ lòng sông. Biết bao nhiêu nhân tài gục dưới cuộc đàn áp mạnh và chớp nhoáng như cuồng phong. Thế rồi, ngọn cờ vừa mới dựng lên giữa vùng cỏ xanh đã tan tác trên dòng máu đỏ. Tiếng kêu ai oán của một dân tộc vừa bùng lên như ngòi lửa của một hòn Hỏa diệm bỗng phải tắt ngấm vì thiếu sự ủng hộ của kẻ đồng chung sắc máu, màu da. Hỡi ôi! Ta chưa thấy cuộc chết chóc thê thảm nào bằng! (Mũi Tổ).

Nhưng khi quân Anh - Ấn đánh thẳng một đường ra Phan Thiết và thiết lập một ổ canh phòng giữa quan lộ, đặt ụ súng khống chế đường rút binh của hàng ngủ kháng chiến, nhà thiện xạ Cả Tiễn đã không ngại cưỡng lại lời nguyền của cả đời mình:

Tôi sẽ phạm vào Mũi Tổ vì tên lính da đen kia chỉ cho ta thấy đôi mắt trắng dã của gã mà thôi! Đây có lẽ là mũi tên cuối cùng, chấm dứt cái tài thiện xạ của tôi. Nhưng, tôi không ngần ngại gì mà không hy sinh cho đại cuộc. Vâng! Tôi đã dành một mũi tên cho Tổ quốc. Nay là lúc tôi dùng nó vậy!

Dù là ai đi nữa, nhưng tất thảy đều nhận thức được cái giá của tự do, công bằng, hiểu rõ nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Đối với họ, trong lúc sơn hà nguy biến, chỉ có một bổn phận, vừa thiêng liêng, cao cả, vừa hết sức máu thịt, đó là bổn phận đối với Tổ quốc! Anh Tư lục bộ (Tiếng rên trong rừng lạnh) sau khi cùng đồng đội giật sập chiếc cầu, cắt đứt con đường tiến quân của quân địch, bỗng phát hiện còn một người đàn bà ôm con nhỏ đang khóc thê thảm ở phía bên kia đã vội vàng quay lại. Oái ăm, người được cứu thoát nạn, còn chính anh Tư lục bộ lại để chân vào kẹt ván gãy, rút mãi không ra. Nhưng không để đoàn quân vì mình mà sa vào tay quân Anh - Ấn đang ráo riết truy đuổi, anh Tư lục bộ đã hối thúc mọi người ra đi. Một năm sau, khi trở lại cánh rừng già ấy, người ta thấy một nắm xương khô treo lỏng lẻo giữa hai khúc ván cầu chưa lìa nhau. Từ ấy, trong khu rừng kia luôn có tiếng rên thê thảm và người ta giải thích, đó là tiếng rên của oan hồn người lục bộ đã xả thân vì đồng bào, vì đất nước khi mới có tiếng súng trên cõi này, là tiếng kêu đau của một dân tộc.

Một khi đã nhận thức về “sứ mạng tối thiêng liêng”, nhân vật trong truyện đường rừng Lý văn Sâm thường không có sự lựa chọn nào khác. Họ hành động quyết liệt, đi đến tận cùng của bổn phận, không đắn đo, đòi hỏi với mục đích “cố đem những ngày tàn lấp bằng vực thẳm đã chôn vùi bao nắm xương vô định của những kẻ muốn yêu, thương nhau sau những năm dài đau đớn” (Vực thẳm), nếu thất bại, chỉ “gục ngã trên đường nghĩa vụ” (Đờn Chín Kha La). Trong lòng họ, nếu không đang dâng lên những “đợt sóng hờn” (Ngày ra đi) thì cũng chẳng thể nào quên được “hận nước” (Trời như muốn sáng). Còn những ai đang cầm súng, ở phía trước chỉ có một con đường:

Lưng chúng tôi cũng uốn vòng cung. Súng cầm ngang tay sửa soạn nhả lửa để trả lời cho những tiếng vi vút bên tai...

Sau lưng tôi, tiếng ve bỗng nghe hùng hồn như kèn thúc trận. Tiếng súng vun vút bên tai... Vui quá đi mất! Chúng tôi đang xé trận tuyến mà xuống núi (Tàn một mùa ve).

Thế nhưng, truyện đường rừng mới của Lý văn Sâm không hoàn toàn là những sáng tác “minh họa” cho ý đồ tư tưởng của nhà văn hay chỉ là những câu chuyện đề cao nghĩa vụ. Mỗi câu chuyện nhà văn kể là một cuộc đời thường đẫm đầy nước mắt của những éo le, ngang trái.

Rosée (Sương gió biên thùy), cô gái Việt lai Pháp, theo gia đình chạy loạn từ thành thị về hướng biên giới. Khi đi ngang qua khu rừng rậm dọc theo sông Đồng Nai, họ rơi vào ổ phục kích của quân Nhật. Cả đoàn bị bắt, trừ Rosée được Phong, chủ trại Thanh Sơn cứu, đưa về sóc. Đây là “giang sơn” riêng của Phong lập ra để mọi người cùng chung sống, “không nhìn nhận một pháp luật nào cả khi mà nước nhà tôi còn ở trong tay kẻ khác”. Sau đó, quân Nhật tấn công, Phong và Rosée lạc nhau. Tháng Tám năm ấy, ở Việt Nam, một cuộc cách mạng bùng lên như vũ bão (...). Khắp nơi, những ổ giặc cướp đều tự giải tán trở về quy tụ dưới bóng cờ Tổ quốc. Trong một trận thư hùng ở miền Đông, “một viên chỉ huy Việt Nam bị thương và bị sanh cầm”. Người đó chẳng phải là ai khác mà chính là Phong, người chủ trại Thanh Sơn ngày nọ. Nhưng oái ăm cho chàng, trong đồn Thanh Sơn của viên trung úy Pháp, có một phụ nữ trẻ đẹp. Hôm trước, tên chủ đồn ra lệnh nhốt gã tù binh vào trại giam thì mờ sáng hôm sau đã có tin anh vượt ngục:

... Trên một lối “sạn đạo” đi vào chiến khu của Vệ quốc đoàn Việt Nam, một con ngựa phi nước lớn đưa người chiến sĩ trở về với Sương gió biên thùy.

Khi mặt trời làm một vệt sáng dài vạch đôi chân trời và quả đất, người trẻ tuổi cho ngựa đi chậm lại và giở một bức thư ra đọc.

Bức thư ấy là của Sương, cái tên không hề xa lạ đối với Phong, vì mấy năm trước anh đã đặt cho Rosée để kỷ niệm một thời Sương gió biên thùy!

Khi đề cao nghĩa vụ thiêng liêng và chiến đấu cho lý tưởng, Lý văn Sâm không đơn giản hóa nhân vật của mình. Đó là những cuộc đời có thật, phần nào đặc biệt nữa, chuyện lý tưởng đan xen với tình duyên trắc trở, nỗi hận lòng trong nỗi hận dài của cả dân tộc. Vì thế, truyện đường rừng Lý văn Sâm luôn giàu chất lãng mạn, mang đậm yếu tố sử thi. Nhiều người nhận thấy tác phẩm Lý văn Sâm vừa tân kỳ, vừa cổ kính chính là như vậy. Nhà văn miêu tả về một chuyến đi nguy hiểm của người chiến sĩ:

Anh bò lên miệng hầm, lưng anh uốn vòng cung, súng cầm ngang tay, anh đội vành trăng chếch mà đi.

Không có rượu tân khách tiễn người qua sông. Chỉ còn một ngụm nước vũng thôi, ngụm nước ấy anh nhường cho anh Ngọc đang đau bịnh rét. Anh ra đi một mình. Anh gởi túi vải lại cho tôi giữ. Trong bao vải mà anh bảo là đựng cả “cuộc đời” của mình, có những gì bí mật? (Tàn một mùa ve).

Còn đây là cách miêu tả của nhà văn về cái chết:

Một ngọn đèn trăng đã lụn rồi! Ngọc, Hồ và Trân đang sắm cho anh một chiếc quan tài bằng vạt tre và gói thi hài anh trong lá cờ rách nát...

Nắng hè trong ráo! Ngàn ve đang họa cùng giọng thác như một khúc hùng ca dành riêng cho đoàn người xuống núi. Các loài hoa mùa hè đã nở dưới ánh mặt trời. Mà nơi đây lại một tài hoa của Đất Nước! (Tàn một mùa ve).

Như thế vẫn chưa đủ, tác giả còn dành những ngôn từ đẹp nhất để ca ngợi cái chết vì bổn phận thiêng liêng:

Quanh anh, lá rụng như những trang sử đang xây cao một nấm mồ danh dự. Anh không còn nghe tiếng ve. Mà loài ve vẫn lên tiếng đều đều trong mênh mông nắng hạ. Không ai tắt được tiếng ve cả!

Đất Nước đang làm những mùa ve vĩnh viễn.

Nhân vật Lý văn Sâm sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, không bận lòng nỗi nhớ quên của người đời, còn nhà văn như người hát rong luôn bật lên những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh:

Tiếng đờn Chín Kha La bặt là khi nào tre hết mọc trong rừng! Nhưng tre mỗi ngày một sanh sản thêm. Dưới gầm trời này, ngàn năm sau, tiếng đờn Chín Kha La quyết không bao giờ tắt (Đờn Chín Kha La).

Trải bao mùa lá rụng, không ai qua cõi rừng hoang vắng này để nghe tiếng rên dài của người xấu số mà Phùng bảo là tượng trưng tiếng kêu của cả một dân tộc (Tiếng rên trong rừng lạnh).

Bạn đọc đừng thắc mắc vì sao một nhà văn hiện đại như Lý văn Sâm lại luôn sử dụng cả một hệ thống ngôn từ giàu tính ước lệ, nhiều khi là cổ điển. Cùng với ngôn từ, những cảm xúc lãng mạn đã đem đến giọng điệu khi mềm mại, tha thiết, lúc ngang tàng, hào sảng trong văn chương Lý văn Sâm:

Một giòng thác ào ạt giữa cõi sơn ngàn huyền bí. Người đàn ông tưởng mình đang đi trên một bãi biển, và tai chàng phảng phất nghe những tiếng sóng rất xa, rất buồn (Ngày ra đi).

Tuyết Sĩ rút dao găm, vạch ngực vợ khắc vào ngực vợ một chữ “Tuyết” và tự khắc vào ngực mình một chữ “Hận”.

Hai vợ chồng mỉm cười nhìn máu đổ ròng ròng.

Muôn ngàn năm sau, hai chữ “Tuyết Hận” vẫn còn lưu dấu trên đôi ngực ấy như chữ son khắc vào núi đá... (Trời như muốn sáng).

Gã đàn ông trẻ tuổi ngửa mặt lên trời thở dài rồi thúc ngựa phi mau qua gió lạnh. Trước mặt gã, rừng núi hát lên trong gió sớm như muôn quân reo hò... (Sương gió biên thùy).

Xuất hiện muộn màng hơn nhiều so với các cây bút truyện đường rừng khác, nhưng có thể nói, Lý văn Sâm đã đi một ngả riêng, với thời gian dài nhất (trên mười năm). Trước năm 1945, truyện đường rừng Lý văn Sâm là khúc hát ca ngợi tự do, đòi hỏi công bằng, khát khao cuộc sống giàu tình nhân ái; sau năm 1945, là lời thúc giục đấu tranh, giữ lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc, bởi không có tự do của cả một dân tộc thì cũng sẽ chẳng có tự do nào cho mỗi con người.

Bùi Quang Huy

Chú thích:

[1] Nhưng tôi đã hỏi một cách vô ích thêm một vài khoảnh khắc,

Thời gian thoát khỏi tôi và tôi đã chạy trốn.

Tôi nói đêm nay "Hãy chậm lại" và bình minh

Sẽ xua tan những đêm tối âm u...

Danh sách chương


Sách tương tự