← Quay lại trang sách

Thần Ngư động

Dòng Sông Bé đi đến Trị An thì gặp ngọn nước Mã Đà. Hai con sông liền họp nhau thành một dãy trường giang, cuồn cuộn chạy xuôi về những trị trấn xa xôi.

Khi đi gần đến chỗ giáp mối, Mã Đà giang bị đá hàng nổi chập chồng ngăn ngọn thủy triều. Sức nước đang chảy bị dội lại, liền tràn qua những gộp đá to, chuyển động vang trời đất. Và xa xa, về phía thượng lưu Sông Bé, có một hòn đá khổng lồ mọc vượt lên khỏi mặt nước, trông giống như hình một con chim két.

Ở khoảng giữa hai con sông ấy, là một khu rừng hoang vu, cỏ cây dày mịt, tự nghìn xưa không một vết chân người...

Năm ấy, nhà nước bắt đầu vào việc khai thác khóm rừng phía tả ngạn sông Mã Đà để dựng bên cạnh cái thác nước một tòa lữ quán nguy nga, dành riêng làm chỗ thừa lương [1] cho những khách nhàn du sau này.

Một buổi chiều về cuối tháng Sáu năm ấy, trời vần vũ mây đen, hứa cho thế gian một cơn mưa trút nước.

Có hai người viễn khách xuống ngựa trước một cái nhà thủy tạ đang cất dở. Họ hấp tấp dắt ngựa vào một căn trại bỏ trống gần đó. Nhưng vừa buộc ngựa xong thì trời lại đổ mưa xối xả.

Tà huy xuống thấp dần. Ngàn cây chìm trong khói nước lờ mờ. Nước sông Mã, sóng cồn nổi dậy.

Hai người khách đứng khoanh tay nhìn ra ngọn thác đang nổi cơn thịnh nộ.

Người thứ nhất, da mặt đen láng, thân thể vạm vỡ, cất giọng nói lớn như để át tiếng gào thét của gió mưa:

- Đêm nay đành ngủ ở đây rồi “bậu” ơi!

Người thứ hai, màu da xanh lợt, chừng như bị ngã nước. Gã nghe bạn nói, chỉ nhíu mày mà không nói gì. Thấy bạn ra chiều tư lự, người thứ nhất cười ha hả:

- Mấy năm bỏ nhà ra đi, băng rừng, vượt thác, không sao cả, huống hồ còn có một buổi chiều nay, chúng ta ra khỏi khu rừng này là sáng mai được cùng đoàn thê nhi hội họp mà anh không chịu được nữa, sao?

- Cứ gì nhớ nhà mới là buồn! Trong đời tôi hễ có những buổi chiều xám ngắt như chiều nay thì lòng tôi thắc mắc một cái buồn mênh mông vô cớ! Kìa, anh hãy trông khói sóng lạnh buồn trên mặt trường giang!...

Bỗng người khách thứ nhất vỗ vào vai bạn chỉ tay về phía dưới ngọn thác, la lớn, giọng sảng sốt:

- Trời! Kìa, Lê Tùng, anh hãy trông!

Người thứ hai đưa mắt theo ngón tay bạn:

- Nào tôi có trông thấy gì đâu?

Người khách thứ nhất giậm chân, chắc lưỡi:

- Nó biến mất rồi! Thật, anh không thấy gì sao?

- Không! Gì thế?

Người khách thứ nhất níu bạn ngồi xuống, nói:

- Ghê quá! Tôi đang nhìn lơ mơ ra sông thì tự nhiên trước tầm mắt tôi hiện ra hai ngọn đèn, lóng lánh như hai vì sao. Tôi định thần nhìn kỹ thì thấy như có một con thủy quái đang vùng vẫy trên những ngọn sóng. Hai ngọn đèn kia là cặp mắt của nó. Tôi vừa gọi anh và khi anh vừa quay lại thì nó biến mất.

- Hay mắt anh hoa?

- Không! Tôi không hoa mắt đâu! Tôi phải tìm cho thấy con thủy quái ấy một lần nữa mới được.

Đêm ấy, hai người khách đi hái lá buông làm võng treo lên xà nhà rồi ngủ luôn trong căn trại để giữ ngựa vì thời ấy trộm, cướp như trấu.

Không biết trong giấc ngủ của họ có những mộng quái dị gì không mà sáng sớm ngày sau, khi thức dậy người khách thứ hai phải ồ lên một tiếng kinh ngạc, hỏi bạn:

- Suốt đêm nay anh đi đâu mà quần áo ướt hết vậy? Anh không lạnh sao?

Người khách thứ nhất rùng mình, dòm khắp thân thể:

- Lạ thật! Quái lạ thật!

Rồi nhìn bạn, người ấy nói:

- Có lẽ hồi hôm tôi vào động Thần Ngư thật, anh Lê Tùng ơi!

Lê Tùng cười khẩy:

- Anh Lương Điền hôm nay lại có chuyện hoang đường ngộ quá!

- Tôi không đùa đâu, anh nghiêm trang lại, tôi kể chuyện này cho mà nghe.

Thấy vẻ mặt quả quyết của bạn, Tùng bật buồn cười:

- Ừ! Thì tôi xin nghe. Anh cứ kể chuyện anh đi!

Điền vào chuyện:

- Hồi hôm này, khi giấc ngủ vừa đến với tôi thì tôi mơ màng thấy một người thiếu nữ, mặt tròn, mắt sáng, mình mặc chiếc áo mỏng màu óng ánh như kim tuyến. Nàng hiện ra trước mặt tôi, rồi bằng một giọng nghiêm nghị, bảo tôi rằng:

- Người hãy theo ta!

Lúc ấy linh hồn tôi bị thu hút bởi đôi mắt sắc và lạnh của nàng. Tôi vùng đứng dậy, một bàn tay lạnh như đồng nắm lấy tôi dẫn đi. Da thịt tôi, lúc ấy, nổi gai như một luồng điện nước đá truyền sang. Tôi định giật tay lại thì một tiếng nói thoảng bên tai, nhẹ hơn hơi gió:

- Buông tay thì chết!

Tôi đánh liều bước đi. Nhưng lạ thay, chân tôi như không chạm đất, thân thể tôi lơ lửng như bay giữa từng không. Bị lôi kéo bởi một sức vô hình không thể cưỡng được, tôi đi nhanh vùn vụt trên những gọn sóng trắng. Mỗi lần tôi đặt chân lên một ngọn sóng nào thì ngọn sóng ấy đẩy bắn tôi lên cao. Khi tôi rơi xuống lại có ngọn sóng khác tiếp. Cứ thế, tôi bị bàn tay ma quái của người thiếu nữ kỳ dị lôi đi tuồn tuột.

Gió thổi hu hút. Mưa bay vèo vèo. Tôi ngộp hơi, vừa sắp nôn thì cái tốc lực đang bay cũng vừa giảm bớt. Tôi nhìn lên hai bên bờ. Những tấm vách đá đồ sộ, đứng sừng sững cao ngun ngút.

Tới một tảng đá lớn, người thiếu nữ buông tay tôi ra. Bằng một giọng hiền lành hơn trước, nàng nói:

- Tôi sắp đưa người vào một cõi mà phàm nhân, nếu không có duyên nghìn dặm, hồ dễ đã được tới nơi. Người đừng sợ gì cả. Lát nữa tôi gieo mình xuống nước để hóa thành con cá vảy bạc. Người cứ ngồi trên lưng tôi, can đảm và bình tĩnh là được.

Thiếu nữ nói xong liền lao mình xuống nước. Phút chốc có một con cá vảy bạc rất lớn nổi lên mặt nước. Tôi mạnh bạo lên ngồi trên mình nó. Tức thì nó lội đi vùn vụt như một con tàu rẽ sóng.

Một cái hang sâu mở rộng ra như sắp nuốt chửng tôi. Tôi rùng mình nhìn những khối nước trôi ùng ục vào hang.

Trong ấy đưa ra một luồng khí lạnh buốt xương.

Con cá vảy bạc từ từ lội vào hang. Tôi có cảm tưởng là mình đang đi xuống cõi Âm. Tôi nhắm mắt lại. Khi mắt tôi vừa mở ra thì chân tôi cũng vừa chạm đá. Những dòng thạch nhũ rơi thánh thót trên vai tôi. Ngoài cửa hang bóng tối mênh mang.

Một mình tôi đi vất vơ trong thạch động. Càng vào sâu càng thấy ấm áp dễ chịu. Ánh sáng hai bên vách đá tỏa ra, rực rỡ như muôn nghìn ánh kim cương.

Ba chữ Thần Ngư động mọc ra giữa một vùng sương khói lờ mờ. Một tiếng cồng ngân lên tiếp theo một tiếng nói hùng hồn:

- Mở cửa ra cho ta đón khách!

Phút chốc khói tan, mây tạnh để lộ ra trước mắt tôi một cái sảnh đường lộng lẫy, huy hoàng.

Trên một chiếc ngai vàng, chạm trổ rất khéo, ngự một ông già, râu tóc bạc phơ. Hai mắt sáng xanh, như hai viên ngọc. Mình ông quàng một chiếc áo rộng ngũ sắc sáng chói, trông hoa cả mắt.

Mười người con gái, người nào người ấy, từa tựa giống nhau, đứng hầu quanh chiếc ngai.

Trước cảnh lung linh, huyền ảo ấy, lòng tôi giá lạnh, tôi vội quỳ xuống.

Tiếng ông già nói, oai như tiếng sấm:

- Ta chào mừng quý khách! Sở dĩ ta cho đón quý khách đến đây là vì lúc ban chiều, quý khách có ý muốn gặp ta một lần thứ hai, vậy bây giờ hẳn quý khách bằng lòng rồi chứ?

Tôi run sợ không nói nên lời.

Lại tiếng ông già:

- Ta là thủy thần ở biển Đại Thanh, nhân đi tuần du các sông, ngòi, mới lạc lõng tới đây. Ta ở động này đã có hơn nghìn năm. Trước kia ta vốn có lời nguyện, hễ khi nào ta bị con mắt người đời dòm thấy lập tức phải trở về biển Đại Thanh. Ta vì quý khách mà phải rời bỏ cõi này. Bắt đầu từ mai, ngai vàng bỏ lạnh. Kho tàng không người trông giữ. Muốn kỷ niệm cuộc gặp gỡ hiếm có này, ta xin tặng quý khách tất cả của cải của ta. Ngày mai, quý khách cứ tìm đến đây mà khuân cái sản nghiệp súc tích từ mấy mươi thế kỷ. Thôi ta đã cạn lời. Quý khách bình an mà về. Kim Ngư thần nữ đâu? Mau mau đưa quý khách về nơi cư ngụ!

Tôi giật mình tỉnh dậy, giữa lúc gà rừng lên tiếng. Từ đó, đến sáng tôi thao thức không ngủ được. Mình mẩy ướt dầm. Không biết đó là mồ hôi hay nước mưa?

Anh Lê Tùng ơi! Chúng ta sẽ giàu to, giàu hơn hết cả thiên hạ này. Người đời sẽ sùng bái chúng ta. Muôn nhà sẽ mở cửa để đón rước chúng ta. Thế nhân ơi! Hãy mở mắt mà trông bọn ta trả thù! Ha! ha!...

Thế rồi, Điền nhất định ở lại để đi lấy kho vàng vô giá trong thạch động Thần Ngư. Tùng dùng hết lý lẽ để cản ngăn cái huyễn vọng điên rồ của bạn, nhưng cũng không chuyển nổi lòng Điền. Điền đã bị cám dỗ bởi giấc mộng kim ngân nó ăn sâu vào tâm hồn chàng thành ám ảnh.

Trong số hai người đã bỏ quê hương ra đi để theo đuổi cái chí nguyện của tuổi tráng niên, ngày nay chỉ còn lại có một người lần mò về chốn Tử Phần..

Tôi đã sống đúng theo câu Làm trai chí ở bốn phương. Nhưng sau khi đã ăn nhiều cơm của thiên hạ, thẹn mình không làm nên trò trống gì, tôi thôi làm khách lãng du, trở về quê ngoại sinh phương, lập nghiệp. Đất Trị An từ đó, đã giữ được chân con người mã thượng giang hồ.

Chiều chiều, tôi có thói quen, hay ra thác nước Trị An để uống rượu hoặc đánh cờ với ông già giữ cái lữ quán.

Một đêm về cuối tháng Sáu, trời mưa lớn. Tiếng gió lùa vào các hốc đá ù ù. Tôi ngồi đối ẩm với ông già trước một ngọn đèn con leo lét.

Gió nhiều quá... nhiều quá! Thác reo ầm ầm. Trong tiếng gió văng vẳng như có tiếng ai hú.

Tôi hỏi ông già:

- Hình như có tiếng hú?

Ông già lắng tai nghe. Ông nói:

- Không! Không có tiếng hú! À, mà có, hay là tiếng hú của Lương Điền?

Tôi hỏi:

- Lương Điền nào?

Câu chuyện Thần Ngư động vì câu hỏi của tôi đã được ông già kể lại rành mạch.

Vậy mà chưa thỏa tính hiếu kỳ, tôi còn đòi hỏi thêm:

- Xin bác cho biết cái kết quả cuộc đi lấy kho tàng ở động Thần Ngư của Lương Điền sau ra sao?

Ông già lặng lẽ đi lấy một tờ giấy cũ nát đưa cho tôi. Tôi kê nó vào đèn, thì thầm đọc:

Lê Tùng bạn chí thân,

Ngày bạn lên đường để về quê là ngày tôi sắp sửa đi vào động Thần Ngư. Tôi không biết cái thủy động ấy có thực hay không, nhưng theo con đường đi đã thấy trong giấc mơ kỳ khôi đêm nọ, có lẽ tôi sẽ đạt được mục đích.

Bè tre đã đóng xong rồi. Chỉ lát nữa tôi sẽ dấn thân vào bước đường nguy hiểm. Viết đến đây tôi không cầm được nước mắt. Cái lần đi này mới ghê gớm làm sao!

Một là tôi sẽ đi tới cái hão vọng kia thì giàu sang chúng ta cùng cộng hưởng. Hai là đời tôi đoản, thân này cầm bằng như gửi ngọn thủy ba. Sống chết phú mặc trời.

Tôi vừa do dự một phút, nhưng được rồi, thế nào tôi cũng phải đi một chuyến anh ạ! Tôi sẵn lòng rước lấy cái chết. Chứ không như chúng ta còn nghĩa gì? Họ hàng khinh bạc. Thế nhân ruồng rẫy. Sở dĩ ta bỏ làng mạc mà đi là cũng vì lẽ đó. Nay chúng ta mang hai bàn tay trắng trở về thì sống thế nào được với làng, nước, anh ôi!

Ngày anh trở lại đây có phải là ngày vinh quang của chúng ta không? Hay lại là ngày anh phải để rơi dòng lệ thương bi khóc người bạn xấu số?

Thư bất tận ngôn, anh hãy vì tôi mà lãnh gánh thê nhi quằn quại. Con tôi sau này có khôn lớn, anh hãy giấu đừng cho nó biết cái chết điên rồ của cha chúng.

Lau nước mắt giã từ anh.

Tôi cảm động lắm khi đọc dứt bức thư của con người đã vì cái bất đắc chí nhất thời mà đành coi rẻ mạng sống.

Ông già còn kể cho tôi nghe đoạn kết câu chuyện:

- Tôi ở quê nhà vừa lên đúng một tháng sau ngày tôi cùng Lương Điền chia tay. Người ta trao thư Lương Điền để lại cho tôi. Tôi biết ngay là bạn đã chết rồi. Giấc mộng giàu sang cũng theo bạn mà chôn vùi đáy nước. Vì thương bạn, vì bực tức thói đời cũng có, vài tháng sau tôi cũng đóng một chiếc bè định đi tìm cho thấy bạn ở chốn suối vàng. Theo con đường bạn đã vẽ ngày trước, tôi thả mảng xuống dòng nước Mã Đà. Tôi chết đi, sống lại mấy lần trên dòng thác lũ. Sau cùng, tôi đã xuôi được xuống vực nước bằng phẳng. Tôi cho mảng đi sát bờ đá cao. Quanh quẩn một hồi lâu, tôi thấy một cái hang sâu mở ra trước mặt, hủng vào vách đá. Nước ở ngoài tràn vào cuồn cuộn. Bọt trắng tung tóe lên như khói. Suýt nữa, chiếc mảng trôi tuột vào hang, nếu tôi non tay lái. Tôi đoán có lẽ bạn tôi đã liều lĩnh thả mảng vào đấy nên mới mất tăm dạng đến ngày nay...

Tôi ngắt lời ông già:

- Đấy có phải là động Thần Ngư không?

Ông già mơ màng:

- Phải Thần Ngư động hay không chỉ có một Lương Điền biết được mà thôi. Nhưng Điền đã không còn thì cái thủy động kia, đối với chúng ta, là một cái hang tối vô danh vậy.

Ngày nay đã có rất nhiều du khách đến viếng cái mỹ cảnh của thác Trị An. Ngựa xe tới lui tấp nập.

Đứng bên này bờ thác dòm qua bên kia, khách du nào cũng thấy vách đá dựng đứng như trường thành kiên cố. Trên là khu rừng rậm hoang vu vẫn còn giữ mãi cái vẻ bí mật của nghìn xưa.

Có mấy ai còn nhớ đến chuyện Thần Ngư động? Vì sống trên đời mà luôn luôn có những sự thay đổi mới mẻ thì ai hơi đâu đi nhớ một câu chuyện cũ ngày xưa!

Ông già ở thác Trị An vừa chết cách đây vài tháng. Đoạn tâm sự ngày xanh cũng theo ông mà xuống mồ.

Đêm nay mưa, gió đầy trời. Thác đổ gấp. Tiếng gió thổi ù ù trong các hốc đá nghe như tiếng hú.

Tôi cầm bút, run tay chép lại câu chuyện động Thần Ngư bằng tất cả tấm lòng tưởng nhớ những người đã mất.

Tháng bảy, năm 1942

Chú thích:

[1] Hóng mát.