← Quay lại trang sách

Xác Mu Mi trên núi đá

Đó là buổi loài người còn sống chung với muông thú và cùng ngơ ngác như nhau, lấy mắt nhìn năm, tháng trôi qua... Này là núi non của muôn đời tăm tối... này là cây cao, bóng cả của rừng núi âm u. Núi chưa có người đặt bước thám du, rừng cây chưa có dấu vết của lưỡi búa tiều phu hủy hoại.

Vẻ thiên nhiên còn nguyên vẹn màu trinh.

Ở một chốn sơn lâm vô danh kia có một giống Mọi man di đang giết lẫn nhau để giành sự sống. Cấu xé nhau, ăn thịt lẫn nhau chán rồi.

Họ họp nhau thành những bộ lạc ở dọc hai bên bờ của một con sông lớn (Bây giờ là sông La Ngà).

Trước hãy còn những cuộc đánh giết lẻ loi, một chọi một, để giữ quyền lợi cá nhân. Bây giờ lại khác. Người ta khởi sự những trận huyết chiến đại đồng để bảo tồn sự sinh sống chung cho toàn thể dân sự của mỗi bộ lạc.

Ngày nào cũng như ngày nào, dòng sông trước mặt họ là chỗ chiến trường để họ tàn sát lẫn nhau. Thủy triều pha máu đỏ đã nuốt không biết bao nhiêu sinh mạng con người rồ dại.

Họ đánh nhau thế nào?

Tang tảng sáng, người ở bên này sông đứng trên những chiếc bè hoặc những chiếc thuyền cây bằng súc [1], khoét ruột, chèo chống ra giữa sông là nơi mà bọn người bên kia sông đang chực sẵn. Có kẻ lại lội bừa xuống nước, không nại [2] gì những nguy hiểm gian nan.

Họ xáp chiến. Họ đâm nhau, chém nhau, bắn nhau, cắn nhau, ném đá làm u đầu, xé mặt nhau, ôm nhau lăn tòm xuống nước để làm mồi cho cá sấu.

Dự chiến có đủ mặt đàn ông, đàn bà, ông già bà cả và con trẻ. Họ gào như thú dữ và hú lên như con sơn cẩu.

Gần trưa thì họ đình chiến. Hai bên lui binh. Không cần kiểm soát coi ai mất, ai còn, họ bày cuộc múa hát để khao thưởng nhau.

Họ uống rượu kỳ say gục bên những thùng đựng rượu làm bằng gỗ súc khoét lõi. Rồi họ lăn đùng ra, ngủ như chết đến sáng mai.

Tù binh bị bắt sống không có lệ trả hoặc đổi chác. Những kẻ vô phúc ấy, nếu là đàn bà thì họ dùng làm vợ; là đàn ông thì làm nô lệ để sai khiến; là con nít thì làm mồi câu sấu hoặc để nhử cọp.

Không ngày nào là không có sóng gió trên sông.

Trong số tù binh bị bắt về hữu ngạn con sông không tên ấy (sông La Ngà hồi ấy chưa có tên), có một người đàn bà nguyên là vợ của viên tù trưởng bộ lạc người Mọi ở phía tả ngạn.

Từ khi bị bắt, người đàn bà ấy là vợ của một kẻ khác rồi. Tuy vậy, tình thương chồng cũ vẫn không phai lợt trong lòng thiếu phụ.

Thiếu phụ bị giam trong một cái hốc đá.

Người chồng mới của thiếu phụ là một gã đàn ông lông lá đầy mình như con giả nhân.

Từ mờ sáng, gã từ giã thiếu phụ đi đánh trận. Sau khi đã dùng thừng trói chặt chân, tay nàng và không quên lật một phiến đá lớn chắn cửa hang cẩn thận.

Chiều tối thì gã đến, lật phiến đá qua một bên vào hang. Gã đem vào một ống lồ ô đầy rượu và mấy miếng thịt nướng bày ra trước mặt nàng. Gã gom lại một đống chai cục rồi xát đá lấy lửa đốt lên làm đèn. Khi ngọn lửa đã lên cao, xua đuổi bớt khí lạnh ra ngoài, gã mới mở trói cho nàng rồi mời nàng nhập tiệc.

Ăn uống xong, gã đàn ông cười lên sằng sặc, ôm người đàn bà quật ngã xuống bên cạnh đống lửa. Đó là gã sung sướng...

Ngọn lửa tàn dần để cho bóng tối chiếm phần hơn.

Khắp nơi người ta reo hò hát xướng. Gã đàn ông ngủ một mạch đến sáng.

Cái trò ấy diễn mãi, cho đến một chiều kia gã đàn ông không về nữa. Gã đã chết trong trận đánh hồi sáng. Người đàn bà hiểu như vậy, lòng nửa buồn, nửa vui.

Nàng biết rồi đây sẽ có một gã đàn ông khác đến lật phiến đá để vào hang, và nàng sẽ lại làm vợ của kẻ ấy... Nhưng không ai đến cả! Người ta quên nàng rồi. Bây giờ thì nàng phải nghĩ một cách thoát thân. Làm thế nào? Tay chân nàng bị một sợi thừng xe bằng vỏ cây trói chặt!

Nghĩ mãi rồi cũng ra kế. Thiếu phụ lết lần lại đống chai cục. Hai tay nàng cầm viên đá lửa, kẹp theo một miếng bùi nhùi, xơ cây “đủng đỉnh”. Nàng xát mạnh viên đá lửa vào vách đá sần sùi. Lửa nhấp nhoáng hai ba lượt mới bắt vào bùi nhùi. Nàng phồng má thổi mạnh lửa lên ngọn. Nàng châm lửa vào đống chai cục, lửa sèo sèo cao ngọn như một ánh hy vọng. Bậm môi, nàng đưa chỗ bị trói vào ngọn lửa đang cháy mạnh. Lấy ra, để vào hơn mười bận, sợi dây thừng mới bị lửa cắt đứt. Da thịt hai ống tay nàng phồng lên gần muốn chảy mỡ. Nàng thè lưỡi liếm chỗ đau.

Xong nàng mở trói cho hai chân.

Nàng đứng lên, làm vài ba cử chỉ sung sướng. Rồi lần lần lại bên phiến đá, nàng kê vai vào lật nó sang một bên. Kìa là không khí và gió mát! Như con chim sổ lồng, nàng chạy một mạch ra bờ sông!...

Bấy giờ trời đang hoàng hôn. Mặt trời chưa xuống thấp lắm, nhưng cảnh vật đã lờ mờ.

Thiếu phụ nhìn qua bên kia sông. Nhiều ngọn khói õng ẹo lên cao như thúc giục lòng nàng.

Có tiếng người chí chóe gần đấy. Thiếu phụ nằm rạp xuống. Ba người đàn ông đi qua trước đầu nàng. Chờ cho mấy người kia đi khỏi, thiếu phụ mới tìm cách qua sông. Nàng bơi rất giỏi, nhưng nàng không dám xuống nước. Là vì dưới dòng sông kia có rất nhiều cá sấu, thuồng luồng, và đến một giống rắn hễ cắn ai thì người ấy ngủ cho đến chết. Nàng mon men theo bờ sông đi mãi. Đến một chỗ, nàng bỗng gặp một con cá sấu khổng lồ nằm trườn mình trên bãi bùn cạn. Nàng giật mình lùi lại và suýt nữa thì kêu lên một tiếng. Nhưng vốn gan góc, nàng không sợ. Nàng đứng lại nhìn kỹ con sấu. Nàng thấy nó bị trói vào một gốc đa lớn. Nàng men lại gần. Mình sấu bị đâm, chém nhiều vết trông rất thảm thương. Ở hàm trên của nó, chỗ gần mũi, một sợi thừng rất dai, rất chắc, xiên qua giữ ở đó.

Thiếu phụ vỗ vào đầu nó. Cặp mắt nó buồn buồn tỏ ra đau đớn lắm. Thiếu phụ liền đi kiếm một mảnh đá sắc và nhọn để cắt sợi dây cứu sấu. Công việc ấy, nàng làm rất công phu. Sợi dây đứt thì trời đã nhá nhem. Cảnh vật ngả sang màu lọ. Gió lạnh xì xào trên tàn cây.

Thiếu phụ rùng mình. Nàng nói với sấu:

- Ngươi đã thong thả rồi, sao chưa đi đi?

Bỗng thoáng một cái, sấu trườn tới, lấy đuôi hất nàng xuống nước, rồi lội theo, há họng, gắp ngang mình nàng đưa lên khỏi mặt nước. Thiếu phụ kinh hãi vô cùng. Nhưng khi biết ra là sấu không có ý hại mình, nàng rất vững lòng.

Sấu lội rất mau. Phút chốc đã sang bờ bên kia. Nàng vui vẻ bước lên bờ.

Sấu phì ra một hơi dài rồi bỗng khạc ra một hòn lửa đỏ. Hòn lửa ấy rơi nằm trên bãi bùn, ánh sáng tỏa ra rực rỡ. Rồi sấu văng mình xuống nước biến đi.

Thiếu phụ đứng nhìn hòn lửa chăm chăm. Nàng lấy chân khẽ hất vào nó một cái. Hòn lửa không làm bỏng chân nàng. Nàng liền cúi xuống nhặt hòn lửa lên, ngạc nhiên trước ánh hồng của nó.

Nàng vui vẻ hú lên một hồi dài, lần lên bờ chạy đi. Tiếng con trúc gù xa xa báo trước cái đêm ghê rợn... Đêm rừng bí mật biết bao nhiêu!

Thiếu phụ nhắm hướng có đống lửa lớn, chạy lại. Mọi người đang ngồi quây quần đó giương cặp mắt thau láu [3] nhìn nàng. Họ đã nhận ra rồi. Họ nắm tay nhau nhảy tròn quanh nàng, hát nghêu ngao.

Thiếu phụ được họ báo tin chồng nàng đã chết trận hồi sáng và quân nhà đã bị một mẻ thua to. Nàng trợn mắt ngó qua bên kia sông, mắt nàng như nảy lửa.

Bên kia sông, ánh lửa chập chờn nhảy múa. Tiếng hò reo văng vẳng đưa sang. Nàng chập hai bàn tay lại đưa lên miệng làm kèn rúc một hơi dài. Ấy là nàng đau đớn.

Bao nhiêu người trong bộ lạc đều chạy lại, vây quanh nàng. Họ ngạc nhiên lắm. Họ nhìn nàng ra vẻ thán phục vô cùng. Họ coi nàng như một thiên thần bất khả xâm phạm. Đã bị bắt, nàng lại trốn thoát được và trở về đây nguyên vẹn như thế kia, không phải thiên thần là gì! Họ liền đồng lòng đặt nàng lên ngai Nữ chúa. Nàng sẽ thay quyền chồng nàng mà sai khiến. Họ sẽ vui lòng cúi đầu dưới chân nàng.

Nữ chúa trèo lên một gộp đá cao.

Tất cả thủ hạ của nàng đốt lửa lên làm sáng rực một góc rừng. Họ ca hát vang lừng để ca ngợi tài ba của Nữ chúa.

Nữ chúa đứng im như pho tượng. Gió ngoài sông lùa vào, vuốt ve mái tóc xấp xõa trên vai nàng.

Ngọn lửa lên cao, cao mãi.

Nữ chúa đưa hai bàn tay cóng rét ra hơ trước ngọn lửa. Thật là một bức tranh hùng vĩ của Sơn Lâm. Hình ảnh Nữ chúa hiện ra trong ánh lửa lấp loáng, chập chờn, trông như một bóng yêu tinh của một thời ma quái nào! Da thịt nàng láng ướt như đồng đen. Mặt nàng phát một vẻ đẹp vừa độc ác, vừa hiền từ. Mắt nàng xa xôi huyền bí.

Nữ chúa, từ khi được sấu biếu ngọc, đã thay đổi hẳn hình sắc. Nàng đã hoàn toàn không giống người thiếu phụ bị giam trong hang đá, những ngày tù ngục trước kia...

Đêm hôm ấy, Nữ chúa nằm ngủ trên gộp đá. Chung quanh nàng, thủ hạ vẫn thức canh lửa cho nàng. Nữ chúa mơ màng thấy một người kỳ dị, cao lêu nghêu, đến viếng nàng. Nữ chúa mở tiệc thết đãi. Người ấy nói với Nữ chúa rằng:

- Ta là Ngạc Ngư thần [4], làm chúa cả loài thủy tộc ở con sông này. Hồi sáng, ta sa cơ bị bọn người bên kia sông bắt được. Nếu không được nàng giải cứu thì ta đã hết kiếp rồi! Nghĩ oán giận bọn họ biết mấy! Viên ngọc mà ta hiến dâng nàng là tinh huyết của ta kết thành. Ta đã gửi một phần tinh huyết vào viên ngọc ấy. Kẻ nào giữ ngọc, sẽ luôn có phù trợ ở bên mình. Kẻ ấy sẽ khôn ngoan đúng mực, mạnh khỏe và giàu sang đời đời. Kẻ ấy ngậm ngọc vào miệng hú lên một tiếng, bao nhiêu sấu ở con sông này đều hiện lên. Tiếng hú thứ hai lại gọi được tất cả xã hội loài sấu ở những sông rạch miền xa. Tiếng hú thứ ba gom chúng nó lại; chừng ấy người có ngọc muốn sai khiến thế nào, sấu sẽ làm y như vậy.

Ngạc Ngư thần từ giã Nữ chúa biến đi.

Tinh sương hôm sau, Nữ chúa thức dậy thật sớm. Nhớ lại những điều thần đã dạy bảo trong mộng, nàng sung sướng mỉm cười một mình.

Ngàn rừng đã thức dậy. Muôn loài bắt đầu sống một ngày mới mẻ. Gió khơi nguồn cho hoa lá ngửa nghiêng đùa cợt. Chim đập cánh bay lên, chới với trong biển sa mù. Không khí ngạt ngào và mát lạnh.

Nữ chúa lần xuống gộp đá.

Bao nhiêu người vừa thấy nàng liền rập lên một tiếng mọi rợ, để chào mừng nàng.

Trên tay mọi người đã sẵn sàng khí giới. Ngoài bến sông, thuyền bè đang đợi họ.

Nữ chúa dõng dạc tuyên bố với họ:

- Hôm nay, các ngươi không cần phải ra trận! Các ngươi hãy đứng trên bờ mà xem ta giết kẻ thù không còn một mạng. Rồi các người xem! Rồi các người sẽ thấy!...

Mọi người nhảy cỡn lên, bấu nhau, ôm vật nhau, hò hét tưng bừng.

Nữ chúa mạnh bước đi ra bờ sông. Theo sau nàng là một toán binh ô hợp. Nữ chúa nhảy lên một chiếc thuyền. Hai người đàn ông lấy sào khuấy nước đưa nàng ra giữa dòng.

Bên kia sông, người ta cũng chống bè, cỡi xuồng, ùa ra đen nghịt một quãng dài.

Tiếng reo hò triền miên không dứt.

Chưa đánh nhau với ai mà kẻ này đã xô đẩy kẻ kia rơi lóp ngóp trên mặt sông.

Nữ chúa đứng chống nạnh trên thuyền mình ngó ra sông. Lửa giận phừng phừng trong huyết quản.

Đối phương còn đang ngơ ngác trước một người đàn bà độc thân, độc mã thì bỗng nghe một tiếng hú rợn mình nổi lên.

Từ dưới nước nhô lên vô số cá sấu. Lại một tiếng hú nữa. Lần này người ta nghe rõ cả tiếng thở phì phì của loài sấu đều nhắm chỗ thuyền Nữ chúa lội ùa lại.

Nữ chúa quát to:

- Bây xé tan thây những kẻ kia cho ta!

Sau lời truyền, thuyền chìm, bè rã; người ta bị sấu quất nhào xuống sông như cây ngã. Thật là một cuộc tàn sát phi phàm. Bọn giặc Mọi, đứa nào còn sống sót đều ôm đầu chạy lủi vào rừng, không dám quay đầu trông lại.

Nữ chúa vỗ tay truyền:

- Thôi, cho bây về!

Dòng nước lại phẳng như trước. Sấu nhặt thi thể bọn Mọi bại trận lôi vào những hốc rạch để làm một bữa no nê.

Nữ chúa vẫy tay một cái. Bọn thủ hạ của nàng liền chống bè, chèo thuyền qua sông. Bọn họ lấm lét nhìn nàng, cả sợ. Trước họ hùng hổ cả tiếng bao nhiêu, bây giờ họ lại im lặng bấy nhiêu. Nữ chúa sang sông giải thoát cho bọn tù binh đã bị giặc bắt giam cầm trong bây lâu.

Ngay hôm ấy, nàng mở cuộc múa hát long trọng để ca tụng Sấu thần và để kỷ niệm một chiến công oanh liệt.

Từ ấy, thái bình...

Người ta không còn kẻ nghịch đánh nhau nữa thì lại buồn. Bởi tâm hồn họ là những tâm hồn hiếu động. Họ không thể sống mà không chinh chiến!

Mỗi khi đưa mắt nhìn qua bên kia sông, họ chỉ thấy rừng cây u uất, lau sậy phất phơ thì lòng ngao ngán vô cùng.

Trong khi ấy, Nữ chúa đã trị dân rất khôn khéo. Nàng lập nên làng mạc, cất nhà dựng cửa, mở mang bờ cõi, đi dần xuống hướng Nam.

Nàng bày cho người Mọi cách đuổi bắt bò rừng và tập cho nó thuần lại để dùng làm gia súc.

Chẳng bao lâu...

Có một đoàn xe bò kéo, trẩy xuống hướng Nam. Xe đóng rất thô sơ, bánh đặc và nhỏ, có một cái ách để cho con bò kéo đi.

Một bọn người đi trước đẵn cây, phá rừng, làm đường để cho bọn sau đi tới.

Gập ghềnh dấu thỏ đường cheo...

Bao nhiêu sóng gió, bấy nhiều đoạn trường!

Bọn họ về đâu?

Một ngày kia họ sẽ tới một nơi xa lạ, có nước non thanh tú. Họ sẽ dừng chân lại và mở một làng mạc mới, để cho cuộc đời lữ khách của họ tạm ngừng trong ít lâu. Rồi họ lại ra đi...

Giữa sóc Mọi Cao Cang (Định Quán [5] đi sâu vào) có hai trái núi nhỏ, hình thể tương tự như nhau, đứng cách xa nhau chừng vài cây số đường rừng.

Người ta kể lại rằng, ngày xưa hai trái núi ấy ở khít bên nhau như hai anh em ruột.

Nhưng sau này, vì một sự xích mích, hai núi giận hờn nhau nên dang ra xa nhau như thế!

Nguyên do?...

Trên hai ngọn núi ấy, ngày xưa, ẩn hai vị sơn thần. Một ông anh và một ông em.

Một hôm, sau một cuộc tuần du về, anh gọi em qua nhà chơi. Anh thuật lại cho em nghe cuộc tàn sát của Nữ chúa trên sông đã làm cho trời sầu đất thảm, đã động đến lòng nhân đạo của ông. Ông không trách Nữ chúa bạo tàn mà ông hờn Ngạc Ngư thần, người đã cho Nữ chúa viên ngọc sấu.

Ông nói:

- Ngạc Ngư thần làm như thế rất trái với đạo trời. Tự nhiên vô cớ, Ngạc Ngư thần lại dự vào việc làm của bọn phàm tục, làm giảm giá cả giới Địa Tiên. Ta phải trừng trị hắn mới được.

Em nghe xong nói:

- Biết thế! Nhưng Ngạc Ngư thần là bạn của chúng ta thì cũng nên lượng tình tha thứ cho hắn.

Anh giận dữ:

- Ai lại dung túng cho một kẻ tàn ác như thế! Ngày mai ta sẽ mời hắn đến đây, kể tội hắn, rồi chặt đầu hắn để làm gương cho những loài linh thú sau này. Hắn đã cho Nữ chúa viên ngọc của hắn thì hắn đã thành ra một kẻ thường rồi. Tài phép không linh nghiệm nữa! Thôi! Em đừng bênh vực hắn! Cứ để cho ta xử hắn.

Đã ba hôm, trời nổi cơn bão tố.

Thật là một cơn gió giận, mưa hờn! Rừng cây chuyển động; thác đổ băng băng. Nước sông sùi bọt dâng cao lên, làm lụt cả những vùng lân cận.

Nước sông đỏ ngầu như pha máu, cuồn cuộn trôi đi, cơ chừng như muốn sụp đổ những gộp đá hàng ở hạ lưu.

Sấm sét vẽ những lằn điện nhì nhoằng trên khoảng trời đen ngòm. Người ta tưởng tượng rằng quả đất sẽ nổ bùng ra, tan tành từng mảnh vụn như xác pháo. Loài dã thú khiếp sợ, núp vào những hốc đá, giương mắt nhìn mưa, gió tơi bời.

Nhà cửa, làng mạc như trong cơn động đất.

Người ta đồ chừng sẽ có một cuộc thay đổi lớn lao giữa Tạo Hóa và loài người; không thì cũng một cuộc “ruộng dâu hóa bể” chi đây!

Ngày thứ tư, mưa ngớt, gió ngừng.

Trời đất sáng dần dần. Mây đen lui về bốn góc trời. Cảnh vật tiêu sơ, xa lạ như thuộc về thời khai thiên lập địa.

Người ta bỗng giật mình, kinh hãi mà hỏi nhau rằng:

- Hai trái núi kia sao bây giờ lại xa nhau thế?

(Người Mọi về sau này, quả quyết cái đêm mưa gió đầu tiên hồi ấy là đêm Sơn thần hạch tội Ngạc Ngư thần; rồi chém thần Sấu chết, mới có cơn giông tố ghê hồn liên tiếp mấy ngày sau).

Trèo lên đỉnh núi Võ Đắc, trông về hướng tây, người ta thấy, lẫn trong rừng trùng trùng, điệp điệp, hai trái núi trắng như hai viên đá cuội. Hai trái núi ấy ở xa nhau lắm, người ta nhận không rõ được hình thể.

Tò mò, hỏi chuyện, người ta sẽ được thổ dân cho biết rằng đấy là hai trái núi đá, trùi trùi không có lấy một gốc cây nhỏ làm bóng mát.

Thổ dân kể rằng:

- Ngạc Ngư thần chết rồi liền đến báo mộng với Nữ chúa kể lể sự tình. Nữ chúa hứa với Ngạc Ngư thần rằng mình sẽ nhớ ơn xưa, rửa mối thù nọ cho thần được mát lòng nơi cõi u Linh.

Nữ chúa liền quy tập toàn thể dân sự ở Võ Đắc kéo rốc về thôn Cao Cang, toan đạp bằng hai trái núi đó.

Một toán binh ô hợp len lỏi đi qua những thác ghềnh, khe, rãnh, tiến ngược dòng sông Đồng Nai, đi mãi... Họ đi theo bóng một vị Thiên Thần, một bà Chúa đã khai thác [6] cuộc đời họ, đã dẫn họ lên con đường sáng.

Ngày đi, đêm nghỉ, dầu có mệt mỏi đến đâu họ cũng không nao dạ. Họ cười, họ hát, họ gầm, họ thét. Trong lòng họ ngùn ngụt một ngọn lửa quả cảm: chỉ có tiến chứ không có lùi! Nữ chúa có đi đến mặt đất, gầm trời nào, họ cũng nguyện theo bước chân nàng tới trọn đời mãn kiếp.

Hỡi Mu Mi linh thần! [7]

Hồn thiêng phảng phất xa hay gần?

Hãy theo bước chúng dân,

Cùng nhau, cùng vượt thác băng ngàn!

Ngài vì ai thác oan?

Nhìn thấy sông xưa, luống căm hờn!

Nhớ chuyện, biếu ngọc;

Cám nghĩa thần linh.

Nhớ ngọn sông xanh.

Đấy nơi ngang dọc!...

Chỉ một nhát kiếm mầu,

Đầu ngài rụng, lòng ngài đau!

Máu nhuộm sông xưa đỏ ngầu...

Bao cơn dâu bể,

Máu đổ, xương tan!

Nhắc đến lửa bừng gan!

Nguyện rửa thù, báo ơn,

Hỡi Mu Mi linh thần!

Hãy độ bước chúng dân! [8]

Nữ chúa cất giọng ca não nuột làm mủi lòng bọn người theo sau. Họ cũng cao tiếng hát theo, lòng buồn mang mang.

Trải bao sương gió, ngày nọ, họ đã dừng chân trước hai trái núi mà họ đã phí công tìm kiếm bấy lâu. Họ đã tới đích. Nhưng trên bước đường đi của họ, họ đã đổ nhiều máu và mồ hôi.

Nữ chúa thét to một tiếng chỉ hai trái núi trước mặt truyền:

- Các người hãy phá tan hai ngọn núi kia đi!

Họ điên cuồng vâng theo mệnh lệnh của Nữ chúa. Họ tàn phá cây cỏ; chặt nhánh, bứng rễ, giày xéo biết bao công trình vĩ đại của Trời!

Nhưng họ ngạc nhiên biết bao! Họ thất vọng nặng nề. Hai trái núi đất bỗng biến thành hai trái núi đá cứng như gang.

Nữ chúa cả giận, kéo thủ hạ trèo lên đỉnh núi lớn. Trước mặt họ bày ra một cảnh tượng thê lương. Một con sấu bị đứt lìa hai đoạn. Đầu một nơi, mình một ngả. Một dòng máu tuông ra, chảy loang xuống tận chân núi. Ngạc Ngư thần cũng hóa đá như hai ngọn núi ấy. Ngày nay, trải bao tuế nguyệt, hình con sấu đá có lu mờ đôi chút, nhưng nó cũng đủ làm bằng chứng cho những cuộc tang thương của một thời qua.

Nữ chúa buồn rầu kéo binh trở về.

Dọc đường có nhiều người bỏ mạng. Mãi đến mùa xuân năm sau, Nữ chúa mới đặt chân trên đất cũ.

Mãi đến bây giờ, người Mọi làng Võ Đắc vẫn còn thờ phụng cá sấu, vẫn còn khư khư ôm giữ nền tôn giáo đặc biệt của nghìn xưa truyền lại.

Họ rất ghét kẻ nào dám xâm phạm đến sấu, dám bắt sấu để lột da, hoặc lấy mật. Họ sẽ mua bằng một giá rất đắt những con sấu bị bắt sống. Họ mua sấu để phóng sinh.

Hằng năm, nước sông La Ngà theo mùa mưa gió, dâng cao lên. Những vùng lân cận đều lụt. Nước sông đỏ ngầu như máu, trôi băng ra sông Cái (sông Đồng Nai).

Gió lạnh thổi từ ngoài bể vào làm đổ những cổ thụ âm u. Mưa và sóng gào lên như những con quái vật.

Mọi người khép cửa lều lại và chất thêm củi vào lò. Họ ra đời với tiếng gió gào, sóng thét, nên đã quen đi, hầu như là không nghe thấy nữa.

Họ cời than đỏ, sưởi tay cho ấm và liếc nhìn ra biển cả, mênh mông một màu đen. Ở đó, chúng sinh của sóng nước đương giận nhau và kể lại bằng thổ âm câu chuyện truyền kỳ có ảnh hưởng đến lịch sử giống nòi của họ.

“... Đó là buổi loài người còn sống chung với muông thú và cùng ngơ ngác như nhau, lấy mắt nhìn năm tháng trôi qua...”

Chú thích:

[1] Cây gỗ to đã đẽo vỏ ngoài.

[2] Sic. Các bản Trẻ 1988, Đồng Nai 1992, Văn nghệ TPHCM 1997: ngại.

[3] Sic. Đúng là thao láo.

[4] Ngạc Ngư thần: Thần cá sấu (LVS).

[5] Thuộc tỉnh Đồng Nai nay.

[6] Sic. Bản Trẻ 1988: khai hóa.

[7] Thần Sấu, theo câu hát Mọi (LVS).

[8] Làm theo một điệu hát Mọi (LVS).