← Quay lại trang sách

Ngăn rạch bắt sấu

Năm nào cũng vậy, hễ bắt đầu vào mùa mưa thì có một đoàn người Cao Miên mạo hiểm vào những miền rừng rú, bắt cá sấu. Có một bận tôi định theo họ. Nhưng vì công việc nên tôi chưa đi được.

Không theo được bọn người bắt sấu, tôi buồn lắm. Một người giúp việc tâm phúc của tôi là ông Ba, an ủi tôi:

- Thầy Hai đừng theo họ thất công [1] mà nguy hiểm tính mạng nữa. Thầy đã thích bắt sấu, tôi xin kể chuyện này cho thầy nghe.

Và dưới đây là câu chuyện của ông Ba.

Ở miền Nam nước Việt chỉ có hai mùa chính thức là mùa nắng và mùa mưa.

Vào khoảng tháng Tư tháng Năm, tiết trời oi bức khó chịu. Thỉnh thoảng có những trận mưa thất thường báo trước mùa mưa gió lu bù...

Ở Nam Bộ, khoảng thời gian ấy không thuộc về mùa hạ như những xứ miền Bắc đã có. Nhưng ta cứ gọi là mùa hạ cũng được - mùa hạ của miền Nam nước Việt.

Vậy vào mùa hạ của một năm đã xa rồi, có một người Đức ngăn rạch bắt sấu để báo thù vợ.

Người Đức ấy tên là Bader và có vợ là người Nam phần tên Trang.

Ông Bader đến xứ Nam phần vào năm nào không rõ, khẩn [2] một sở đất lớn ở làng Đại An (Biên Hòa) trồng cao su.

Dân làng xúm nhau rất đông đến xin việc làm, ông Bader thâu nhận tất cả.

Đó rồi một viên “chủ soái” cùng với một đám “binh lính” hiệp sức khai phá chồi hoang, trồng cao su.

Ông Bader là người thẳng tính. Ông rất vui vẻ với người nào siêng làm việc và rất nghiêm khắc với kẻ nào lười nhác. Bởi vậy, khi ông nổi giận quở trách một người nào thì những người khác run sợ lấm lét.

Trong số dân sở, vừa đàn ông lẫn đàn bà có cô Trang là chăm việc hơn hết.

Vì thế cô rất được ông chủ yêu kính. Nhiều người gọi mát cô là “bà chủ”. Cô chỉ cười. Trong thâm tâm cô chỉ nuôi một ý nghĩ là làm việc cho thật nhiều để lãnh được nhiều tiền nuôi cha già mẹ yếu, thế thôi.

Tấm lòng cao quý và cái đức tính đáng yêu của cô Trang cứ mỗi ngày một sáng thêm lên. Tấm lòng ấy và đức tính ấy đã thu phục được tình cảm của một người, ấy là ông chủ sở. Lạ thay! Ông chủ sở càng oai nghi bao nhiêu thì đối trước mặt cô càng mềm mỏng bấy nhiêu. Riêng cô Trang, một đôi khi, cô thấy lòng mình rung động trước những cử chỉ hùng hiệp và hào khí cương trực của ông chủ sở.

Ở cô Trang, ông chủ sở chỉ thấy có một trái tim thuần lương và một linh hồn nhẫn nhục.

Ở ông Bader, cô Trang chỉ thấy một tấm lòng ngạo mạn rất đáng yêu và một tinh thần kiêu dũng rất đáng kính.

Họ không còn phân biệt nhau về phương diện khác nữa.

Thế nên khi ông Bader ngỏ ý muốn hỏi cô Trang làm vợ thì cô Trang nhận lời ngay.

Cuộc hôn lễ cử hành theo tập tục cổ truyền của người phương Đông. Chàng rể phải đến nhà nhạc gia, lạy tổ tiên và rước vợ về.

Vì yêu nhau dẫu khó khăn phiền phức bao nhiêu ông Bader cũng cam chịu vậy.

Rồi thì họ chung sống những ngày “ý hiệp tâm đầu”, chung gây nền hạnh phúc, chung hưởng sự giàu sang trên bước đường sự nghiệp vẻ vang của họ.

Người ta nói: Những kẻ khôn ngoan thường hay chết non. Cái chết của cô chủ sở làm cho câu này thêm phần đúng lý.

Vào mùa hạ một năm, trời nồng nã bực bội hơn cả bao giờ. Trưa nào ở cái bến nước ven sông cũng có rất nhiều người tắm. Họ ngâm mình hằng giờ dưới nước mà không biết chán.

Một hôm, cô chủ sở chừng muốn hưởng cái thú ngâm mình dưới nước nên lần xuống bến nhà tắm. Cô cởi lớp ngoài rồi phóng mình xuống nước. Đã lâu lắm cô mới lại được vẫy vùng trên làn nước mát của con sông thân yêu...

Sông Đồng Nai ở quãng này có nhiều đá hàng. Đứng trên dòm xuống, người ta thấy cả một khúc sông xanh leo lẻo, quanh co giữa đôi bên đồi cao vòi vọi. Dọc theo tả ngạn là rừng cao su chen vào những xóm làng rải rác.

Về bên kia sông, dân cư nhà cửa thưa thớt. Sâu vào nữa là rừng thẳm ngút ngàn. Người ở bên này sông ít hay nghĩ đến sự qua bên kia sông để nối tình giao hảo giữa hai bến nước. Họ thủ phận sống và nhìn những xóm làng đối diện như những thế giới xa lạ nào cách biệt trùng dương, mặc dầu chỉ có một tiếng chó sủa bên này sông cũng đủ đánh thức giấc ngủ của người bên kia. Vì vậy, suốt tháng con đò chỉ phải thất công làm vài chuyến sang ngang, đưa vài người khách lạ băng triều qua lại để buôn hay bán vài món hàng vặt rẻ tiền.

Đứng dưới bến sông, quát to một tiếng, người ta sẽ nghe rừng xa đem lại tiếng vang của mình...

Ấy, cái địa thế buồn teo của một quãng sông hiểm trở, có rất nhiều loài thủy tộc quái dị...

Giữa buổi trưa mùa hạ ngày hôm ấy, dân sự hai bên bờ sông đang lúi húi làm việc, bỗng nghe một tiếng la bài hãi, dưới một bến nước. Họ ùa chạy về phía ấy. Một cảnh tượng ghê mình. Giữa sông nổi lên một cái mõm dài của một con cá sấu. Nó đang quắp một con mồi, lội xuôi giòng. Con mồi của nó là một người đàn bà, tóc xõa rũ rượi.

Tức thì có tin cô chủ bị sấu gắp, nổ bùng lên như một tiếng sét. Tiếng sét ấy làm cho ông chủ điếng hồn.

Ông nén khóc, tức tốc lấy xuồng, cùng bọn người tâm phúc đuổi theo con sấu. Ông đứng trên mũi xuồng, nhắm bắn con sấu mấy phát. Nhưng nó lặn xuống tránh khỏi cả.

Phần vì sợ con sấu lặn xuống, vợ mình sẽ bị ngộp thở, phần thì sợ bắn trúng vợ, ông chủ thôi không dám bắn nữa.

Đến một khúc sông có nhiều nhánh nhỏ, con sấu liền trốn vào cái rạch. Đây là rạch Lăng, một con rạch sâu lòng. Tre mọc dài theo hai bên bờ, nghiêng mình xuống sát mặt nước làm thành những hàng rào dày bịt, chắn cả lối ra, vào. Con sấu vào rạch thì mất tích.

Ông chủ liền kêu gọi lòng nhân của dân chúng quanh vùng.

Một cuộc ngăn rạch khổng lồ giàn bày ra trong vài giờ sau.

Người ta đóng một cái vỏ khẩu rất lớn, bịt mất cửa rạch. Rồi họ chia nhau đứng hai bên bờ ngăn đường thoát thân của một con sấu quái ác.

Thật là một công trình vĩ đại hiếm có.

Người ta bày đủ cách để nhử con sấu ấy nổi lên mặt nước, nhưng nó khôn quá chỉ ép mình nằm mãi ở một xó kín nào người ta không biết.

Ông Bader hạ lệnh thả xuống nước rất nhiều lựu đạn bắn cá, giết hại vô số loài thủy tộc vô tội. Nhưng con sấu tinh khôn kia vẫn không chết. Nó nấp ở xó nào giỏi quá.

Lòng thương vợ khiến ông chủ sở quên cả mọi sự hiểm nguy, mệt nhọc. Suốt một tháng trường, ông bỏ cả công việc nhà. Ngày, đêm, cầm một khẩu súng trường, ông men theo bờ rạch để tìm bắn cho kỳ được kẻ thù.

Dân sự trong làng hiệp cùng ông và quyến thuộc của cô Trang canh giữ cửa rạch rất nghiêm nhặt. Người ta kể lại rằng có một đêm, trời đất chuyển động. Con sấu kia đã nương cơ hội, thoát khỏi trùng vây.

Đêm ấy, bọn người canh cửa rạch đang ngồi quây quần nói chuyện bên một đống lửa lớn, bỗng thấy đằng xa đi lại một ông già lạ mặt. Ông già ấy hỏi họ làm gì mà ngồi đó. Họ liền kể chuyện cho ông già nghe... Ông lấy làm lạ, liền đi lại phía vỏ khẩu, xem xét rất kỹ lưỡng. Ông khâm phục và khen mãi cái bức rào kiên cố ấy. Bỗng ông yêu cầu họ:

- Các người có thể giở cái khẩu này lên cho già này xem được không?

Vài người trong bọn họ đáp:

- Trời tối, ông thấy gì mà đòi xem.

Ông già khẩn khoản:

- Tôi chỉ muốn biết, người ta làm cách nào mà mở và đóng nổi cái cửa nặng nề như thế này mà thôi.

Họ cười:

- Có khó gì!

Tức thì họ quay trục kéo thử một cánh vỏ khẩu lên cho ông già thấy. Cùng lúc ấy, dưới lòng rạch sâu có tiếng thở phì phì, rồi có tiếng một con vật lớn quẫy mình ra sông. Họ hô to một tiếng buông vỏ khẩu xuống. Đồng thời ông già cũng biến đi đâu mất.

Ông Bader vừa định lấy thuyền đuổi theo con sấu, thì trời nổi cơn gió lớn như muốn làm mưa to. Sóng cao, sông sâu, thuyền không thể ra sông được. Sự kiên gan trong bao nhiêu ngày rút cục đành bỏ dở vì một phút sơ ý của bọn người canh vỏ khẩu.

Ông Bader đành ngậm ngùi để tiêu tan cả một ý định bảo thù mãnh liệt.

Năm sau, cũng vào mùa hạ, ông Bader nghĩ thương vợ chết oan nên lập đàn cúng tế ngay ở bến sông. Lễ bày ra rất linh đình.

Ông Bader thân đứng chủ tế.

Thình lình người ta thấy nổi lên giữa sông, một con cá sấu rất lớn. Nó từ từ tiến vào bờ, trườn mình lên bãi. Nó nằm yên, hình như để lắng nghe tiếng tụng kinh của mấy nhà sư trên đàn cúng tế. Ông chủ sở chạy vội lên nhà lấy súng.

Con sấu vẫn nằm im đó không trốn chạy.

Ông chủ nổi cơn giận tràn lòng, nhắm vào đầu nó bắn luôn hai phát. Nó rống lên một tiếng chùi mình xuống sông.

Ông Bader liền lên thuyền dò theo giòng máu đỏ chạy dài trên mặt nước, đuổi theo.

Đến rạch Vũng Gấm, con sấu trồi lên. Nó định trốn vào rạch. Con vật bị thương nặng liền trèo lên bờ rạch. Dân làng thấy vậy đập nó chết luôn ở đấy.

Chở con sấu về sở, ông Bader thân cầm dao mổ bụng ra. Trong bụng nó, đồ nữ trang của vợ đeo ngày trước vẫn còn nguyên mà thi thể người yêu dấu đã không còn nữa.

Ông khóc sướt mướt, băm con sấu tan tành...

Đến bây giờ có một ông già ngoại chín mươi cứ ngày ngày ra đứng bờ sông, nhìn dòng nước chảy. Già như thế mà trời chưa bắt ông chết. Ông sống để nhìn trò đời thay đổi, để khóc một tâm sự gì đau đớn tận ngày xưa. Nhưng... hình như nước mắt lòng ông đã khô rồi. Bởi tuổi cao, lòng nguội.

Tuổi già lẩm cẩm, ông hầu quên hết mọi sự ở đời...

Chú thích:

[1] Sic.

[2] Khai phá đất hoang.