Răng Sa Mát
Con đường đất đỏ bò lên một cái nổng [1], đổ xuống bên kia triền rồi chạy hút vào rừng sâu. Vẳng đâu đây tiếng nước xoáy vào hốc đá nghe như gió bão.
Răng Sa Mát dừng chân lại trên nổng cao đưa mắt nhìn quanh. Trời bao la và rừng bao la. Xa xa vài trái núi đứng cheo leo trong một vùng khói xám. Gió đưa mây tỏa. Vài sợi khói trắng còn quyến luyến đỉnh non cao trước khi tan vào khoảng hư vô thăm thẳm.
Chụm hai bàn tay làm loa, Răng Sa Mát kê lên miệng, phồng ngực ra và cất lên một tiếng hú dài. Buổi trưa quang đãng quá. Nắng vàng chói lọi rớt xuống ngàn cây xanh nõn.
Tiếng hú lanh lảnh của Răng Sa Mát tưởng chừng như rung động được bóng núi xa và đánh thức loài muông điểu đang sống trong cái vô cùng bí mật của Sơn lâm.
Tiếng hú ấy vang âm rất lâu và nghe đến lạnh lẽo, nhái được cái tiếng của một hòn đá lớn rơi xuống lòng giếng sâu. Tiếng hú vừa tắt thì Răng Sa Mát lại thấy mình trở về với sự trơ trọi lúc ban đầu. Răng Sa Mát chỉ là một sinh vật rất nhỏ đứng giữa cái bát ngát của núi rừng, cũng như một mảnh thuyền con đang chơi vơi trên bao la sóng gió.
Cậu bé ngồi phịch xuống một phiến đá mỏng ôm đầu thở dài. Mồ hôi lã chã trên trán và đẫm ướt cả cái thân hình vạm vỡ bóng lên dưới ánh nắng trưa. Trông cậu bé như pho tượng bằng đồng đen mà một nhà điêu khắc đã vô tình bỏ quên cái “công trình nghệ thuật” của mình trên đỉnh gò cao, giữa muôn trùng cây cỏ.
Răng Sa Mát mệt lả người. Đã hai ngày rồi cậu không có hột cơm nào trong bụng. Đói, cậu chỉ ăn trái rừng và khát, cậu chỉ qua cơn bằng nước suối.
Không một con đường nào mà không có bóng Răng Sa Mát đi qua. Không một hốc đá nào mà Răng Sa Mát bỏ sót không lục soát. Nhưng cậu bé vẫn không tìm được cái con người cổ quái không ngớt tiếng kêu, khóc nỉ non trong những đêm động rừng.
Còn nhớ đêm hôm qua, mưa như xối nước. Gió đè rạp các loài thảo mộc và tưởng chừng như làm trốc được những gốc cây cổ thụ. Nằm trong một gian lều bỏ hoang bên bờ sông, Răng Sa Mát quấn mình trong chiếc chiếu rách, lắng nghe tiếng nước văng qua mấy gộp đá hàng nghe như tiếng chân đi của thiên binh vạn mã. Mưa gào, gió thét. Muôn ngàn cây cao, tàn rậm vươn mình ra mà quay cuồng, nhảy múa trong bóng tối mênh mông. Thỉnh thoảng mới có lằn chớp xanh rực lòa lên chói mắt, rồi thì đêm tối lại trở về với sự âm u.
Vẳng trong ngàn sâu, vọng lên một tiếng hú não nuột.
Răng Sa Mát ngồi phắt dậy tuột xuống đất, toan chạy ra ngoài mưa gió. Một cái chớp sáng rực bừng lên. Một tiếng sét đánh ghê hồn tiếp theo. Tiếng ầm ì kéo dài ra rất lâu nghe như tiếng muôn ngàn tấn đá, tự một đỉnh núi cao đổ ào ào xuống lòng một cái thung lũng.
Răng Sa Mát ôm đầu lên kêu một tiếng thảm thiết:
- Bạp [2].
Rồi cứ thế cậu ngất đi cho đến khi mưa tạnh.
Mưa đã ngớt, nhưng tiếng thác lại ầm ĩ thêm lên. Cậu bé vẫn còn ngồi lặng giữa đêm khuya không ngủ. Muỗi hát vo ve trong gian nhà lành. Rất nhiều con đom đóm, mang cái ánh lửa lập lòe xanh bay lững lờ trong bóng tối. Có con lại bay cả vào trong lều hoang.
Răng Sa Mát rùng mình nghĩ tới chuyện yêu tinh đêm đêm thường biến thành những cô gái đẹp, chân đi không chạm đất, tóc xõa dài xuống tận gót. Nhưng Răng Sa Mát bất chấp những trò quỷ quái ấy vì cậu có một thứ phép mầu giấu sẵn trong mình: ấy là tấm lòng thương cha cao như non và rộng như biển. Có những lúc mà chân cậu ê ẩm, gối cậu nhức nhối, tay cậu uể oải, rã rời. Ấy là những lúc cậu trèo qua một cái hố sâu, hoặc bám vào dây leo để đu mình qua một hốc đá. Những lúc ấy cậu mơ màng nhớ tới hình ảnh của người cha yêu quý hiện ra trước mắt vẫy tay ngoắt cậu. Vậy là cậu trút được hết những chán nản đang chất nặng trong lòng. Cậu hăm hở đi tới. Cậu sẽ còn đi mãi, qua đèo, qua núi, qua thác, qua gành, nếu tiếng hú của kẻ lạc loài còn vang dội một cõi núi rừng trong những chiều ướt sương và trong những đêm có cuồng phong nổi dậy.
Một buổi sáng, cách đây hai tháng, khi chim rừng vừa cất cánh sắp sửa lưu lạc phương xa thì tay săn giỏi nhất làng Thanh Sơn, cắp [3] cung, ná lên đường theo năm người bạn đồng nghiệp.
Người vợ của anh ta đã sửa soạn sẵn đồ ăn đường và vài món dụng cụ dành cho cuộc săn bắn. Chị dẫn đứa con nhỏ ra bìa rừng tiễn chồng.
Người đàn ông, trước khi lên đường, vò đầu con, nhỏ nhẹ từ giã:
- Bạp đi, nghe con!
Răng Sa Mát, chớp đôi mắt ướt, cầm tay mẹ hỏi:
- Cha đi về phương nào?
Người đàn ông lấy tay chỉ về phương Đông. Da trời hườm hườm đỏ như gò má một cô gái đang thì.
Thế rồi, đoàn người lên đường...
Từ ấy, cả một vùng sơn lam, chướng khí bị chuyển động. Đêm đêm người ta nghe tiếng rống sợ hãi của các loài dã thú.
Người trong “bồn” [4] trông về phía xa xanh có vài trái núi đội mây trắng đứng im lặng như những vị Tiên Ông bạc đầu, thủ thỉ bảo nhau:
- Năm nay, bồn ta đã trúng [5]. Chắc săn được nhiều cọp lắm. Đó! Đó! Rõ ràng là tiếng hộc của một con “klìu” [6] bị thương!
Cứ thế, ngày này tiếp theo ngày nọ. Răng Sa Mát đứng trên nhà sàn cao, đợi bóng cha về.
Một đêm, nó đang ngủ, bỗng nghe những tiếng đạp cửa thúc bách. Nó ngồi dậy rất tỉnh táo, rón rén bước xuống sập tre, định kiếm mồi lửa đốt đuốc chai. Tiếng đập cửa vẫn gấp và nghe đến khiếp đảm. Nó hoảng hốt, run lập cập, chạy lại phía sập chỗ mẹ nó ngủ định đánh thức mẹ nó dậy. Nó mừng quýnh, miệng lẩm bẩm:
- Bạp về! Bạp về!
Nhưng nó rất lấy làm lạ khi nó bị một bàn tay đàn ông xô ngã. Trong đêm khuya, nó nghe tiếng ho khàn khàn. Rồi có tiếng mẹ nó rầy nó:
- Sao không ngủ, làm rộn lên vậy? Ai mà kêu cửa. Chuột đó! Cha mầy chưa về đâu!
Rõ ràng, bên ngoài có tiếng đập cửa thúc bách. Răng Sa Mát chạy ra định mở cửa thì bỗng vấp phải cây cột nhà ngã ra bất tỉnh...
Khi nó nhớ lại mọi việc xảy ra hồi hôm thì trời đã sáng. Nó ôm mặt khóc hu hu. Thôi rồi! Còn chi nữa mà mong! Cha nó từ nay sẽ ra đi biền biệt và đời đời phải cam chịu đội lớp [7] dã thú sống xa hẳn xã hội loài người.
Quả như Răng Sa Mát nghĩ, tay săn giỏi nhất làng Thanh Sơn đã hóa thành giống chằn niên.
Người trong bồn có thương tiếc một kẻ có tài, cũng đành nén lòng thở dài. Mỗi khi mưa tuôn, gió cuốn, xao động rừng già, người ta nghe những tiếng hú thảm thương của người đàn ông xấu số này đã hóa thành chằn niên.
Trẻ con run sợ. Những mụ già lo ôm sát con vào lòng, vỗ đầu nó hát nho nhỏ và gọi Nhang [8] luôn miệng.
Những trai tráng gan dạ, ngồi im, nhắm hướng rồi bảo nhau:
- Trong rừng nứa!
Nhưng hôm sau cả làng rủ nhau ra rừng nứa để tìm thì chỉ đem về sự thất vọng.
Người đàn ông xấu số vẫn là con chằn niên làng Thanh Sơn.
Có một bữa, Răng Sa Mát đem chuyện cũ ra thuật lại cho ông Bống (cũng như thầy pháp của ta) nghe. Ông Bống vỗ mạnh hai tay vào với nhau đánh “đốp” một cái, đứng thẳng lên, nói với Răng Sa Mát:
- Thôi, rồi! Quả tình mẹ mầy đã hại cha mầy! Vì mẹ mầy không chịu mở cửa rước cha mầy nên mới ra cớ đổi [9]! Sao lạ vậy? Hổm nay mẹ mầy đi đâu?
- Mẹ tôi đi vào rừng lượm chai cục với chú Bướm. Bốn ngày rồi chưa về!
Ông Bống cau mày, nói với Răng Sa Mát giọng thương hại:
- Tội nghiệp cho con! Này con ạ! Mẹ con không về nữa đâu! Ít lâu nay Bống có nghe người ta xầm xì về vụ mẹ con... Nhưng thôi, nói ra tội nghiệp. Có lẽ nó theo luôn thằng Bướm! Quỷ quái cho con mẹ ấy! Nó ác thật. Con có biết không? Thôi để Bống nói cho mà rõ:
Nguyên, bọn người đi săn, đều có mang theo trong mình một củ ngải, đã “tom” thành một thứ phép mầu biến hóa phi thường.
Trước khi đi vào rừng già, mỗi người đều phải ngậm vào miệng mình củ ngải ấy. Từ ấy mà đi thì không ai ăn, uống gì cả, mà cũng không ai được nói chuyên với ai. Nếu lỡ ra có người nào quên mà hở môi nói chuyện tức thì hóa dại và điều này mới là nguy hiểm: người nào ngậm cục ngải ấy sẽ hóa ra vô hình trước đôi mắt gầm gừ của thú dữ. Người ngậm ngải có thể lại sát bên mình cọp dùng những khí giới nhọn và bén mà giết cọp. Nhưng nếu vô ý làm rớt cục ngải ra khỏi miệng, người thợ sản sẽ hoàn lại nguyên hình. Từ đó về sau, người thợ săn sẽ không bao giờ săn được con thú nào nữa cả.
Răng Sa Mát ơi! Cái đêm cha mầy về kêu cửa, nếu mẹ mầy ra đón tiếp như thường lệ, lấy chổi đập lên đầu người trở về thì bao nhiêu sức nhiệm mầu thấm trong đầu óc cha mầy sẽ biến mất.
Suốt thời kỳ ngậm ngải linh hồn người liệp hộ (thợ săn) đã tách ra khỏi thể phách mà phưởng phất [10] ở trong cõi u linh mù mịt. Đúng bảy ngày sau mảnh hồn ấy mới trở về với xác thịt nhưng chưa nhập hẳn vào người. Đợi khi nào có kẻ thân nhất dùng chổi gõ lên đầu ba lần, đánh tan cái sức huyền bí của ngải, thì linh hồn mới có chỗ đậu.
Răng Sa Mát, mầy có biết không? Cái đêm cha mầy về là cái đêm mẹ mầy chứa thằng Bướm trong nhà. Đôi tình nhân ấy nhất định dứt bỏ cha mầy để cùng nhau ân ái đến trọn đời. Cho nên... cha mầy mới mất tích trong hoang rậm. Chắc hẳn có những đêm, cha con nhớ làng, nhớ nhà, nhớ vợ, nhớ con. Cho nên chúng ta vẫn còn nghe tiếng hú của người. Nghĩ mà tội nghiệp!
Răng Sa Mát ôm đầu khóc nức nở:
- Tôi không dè mẹ tôi lại nhẫn tâm đến như thế! Bây giờ biết cha tôi đâu mà tìm. Trời ơi!...
Lão Bống thương hại:
- Răng Sa Mát con ơi! Cũng còn có cách cứu cha con được. Nhưng... khó lắm con à!
Răng Sa Mát hít mũi, mừng rỡ:
- Bống nói sao? Cứu cha tôi được à?
Cậu nắm tay lão Bống năn nỉ:
- Tội nghiệp con, Bống! Xin Bống làm phước cứu dùm cha con... đời đời con không dám quên ơn!
Lão Bống nghiêm giọng:
- Con phải nghe lời ta, ta mới giúp cho. Này!...
Lão Bống ôm đầu Răng Sa Mát nói vào tai cậu bé.
Răng Sa Mát đứng lên chấp tay xá lão Bống.
- Tưởng gì! Được! Con sẵn lòng hủy bỏ đời con, để cho cha con được hườn [11] lại kiếp người. Có một điều này: Sau khi cha con “đã trở về với mình”, xin Bống làm ơn nói lại với người rằng: Răng Sa Mát nó bằng lòng chết để cha nó sống. Nhưng cha nó phải giết thằng Bướm để trừ một kẻ gian ngoan quỷ quyệt và trừng trị thẳng tay mẹ nó mới được!
Lão Bống gật đầu:
- Được! Ta hứa sẽ làm như ý con muốn.
Từ đó về sau, mỗi ngày Răng Sa Mát chịu cho lão
Bống vẽ một đạo bùa vào mình và ăn một củ ngải rừng. Trong lúc vẽ bùa, lão Bống dùng dao nhọn rạch da Răng Sa Mát, máu chảy đỏ mình.
Răng Sa Mát là một đứa bé can đảm. Nó không hề kêu khóc một tiếng.
Lão Bống khen:
- Con là một đứa con chí hiếu. Không có đứa trẻ nào can đảm bằng con và không có đứa nào có cái đức hy sinh lớn lao như con hết! Ta sẽ giữ chuyện này để sau thuật lại cho con cháu ta nghe. Chắc không đứa nào dám xả thân như Răng Sa Mát đã làm. Ta thương con quá!
Răng Sa Mát sung sướng cười ra nước mắt.
Một tháng sau, Răng Sa Mát từ giã lão Bống nhắm phía mặt trời lặn, đi vào rừng sâu. Nó theo lời dặn của lão Bống cứ đi theo con đường đất đỏ, dẫn nó tới một trái núi lớn.
Trưa hôm ấy nó đi tới một cái nổng đất...
Động con Công là một cái hang đá tối om ở dưới chân núi Beo. Người Mọi gọi nó là Trồmkuangbra. Đường vào động rất khó đi vì dây mọc chằng chịt như đan võng.
Đứng xa trông như có một cụm khói bốc ra từ cửa hang.
Răng Sa Mát tới động con Công thì trời đã xế chiều. Cậu bé dòm vào cửa hang chỉ thấy một cái lỗ sâu hoắm, tối mịt, không biết phải đi bao lâu mới tới đáy.
Cậu dòm xuống mặt đất ẩm. Nhiều dấu chân nằm chồng lên nhau cho cậu bé biết rằng: Có một người rừng đã ở đây, và vẫn lấy lối này để ra vào.
Cậu nghĩ thầm: “Không biết trong bấy lâu cha ta ăn ở ra sao! Tội nghiệp quá! Cũng tại cái lòng gian hiểm của mẹ ta mà cuộc đời và thân thể cha ta mới có sự thay đổi lớn như vậy.
Lạy ơn trên phù hộ cha ta hườn lại kiếp người, cho cha ta trông thấy lại những ngày oanh liệt củ. Còn cái thân của Răng Sa Mát này dẫu có tan ra tro bụi cũng cam đành!”
Cậu vừa nghĩ tới đó bỗng nghe nổi lên một tiếng rống rất lạ tai. Vốn sẵn gan lì, Răng Sa Mát cũng thấy da thịt mình nổi gai. Cậu rùng mình, mân mê con dao nhọn hoắt giắt bên sườn, liếc mau mắt sau, trước và đứng thành thế thủ.
Tiếng rống thứ hai nghe gần hơn, giống như tiếng hai miếng đồng mỏng chạm vào nhau.
Răng Sa Mát phải bịt tai lại. Và không còn giữ được sự can đảm nữa, cậu bé phóng lại một cây “nhàu” [12] trèo rất mau lên ngọn.
Khi lên cao rồi, cậu mới đưa mắt quan sát, về phía mặt trời lặn, gần bên một vũng nước phản chiếu ánh tà huy trộn với hình cây, bóng núi rung rung trên mặt hồ, có một hình thù quái dị đang giơ cánh tay đầy lông lá lên khỏi đầu, mở hai chân ra thành hình chữ “nhân”.
Mặt trời đỏ như một hòn lửa lớn ngấm [13] mình xuống một đám mây hồng đang dâng lên cao, như mặt biển lúc triều lên.
Con người quái dị kia như luyến tiếc vừng thái dương, đưa hai tay lên trời ra vẻ như muốn giữ ánh sáng của muôn loài lại.
Nhưng quang cảnh sẫm lần. Buổi chiều ở sơn lâm mau quá. Con người quái dị chạy băng băng xuống vũng nước và cất lên một tiếng hú ảo não như một tiếng rên dài. Lần này không phải là một tiếng rống dữ tợn như Răng Sa Mát đã nghe lúc nãy.
Cậu bé lắc đầu:
- Ôi! Bạp ôi! Con không ngờ thân thể Bạp ra như thế này! Ngày nay biết cha có còn nhìn ra con là thằng Răng Sa Mát mũm mĩm của cha không? Mẹ ôi! Sao mẹ nhẫn tâm quá vậy. Nỡ nào mẹ phân rẽ tình cốt nhục của chúng con!
Răng Sa Mát nín thở khi thấy con người quái dị kia từ từ đi lại phía gốc cây để đi vào hang. Cậu ôm chặt thân cây “nhàu” chỉ sợ không khéo mình sẽ rớt xuống đất.
Bỗng nhiên “con chằn niên” đứng dừng lại, đưa hai tay lên gãi mạnh cái đầu bờm những sợi tóc dài chấm ót của mình. Cặp mắt nhiều lòng trắng hơn lòng đen của người rừng láo liên trong hai hố mắt có một quầng sáng bao quanh. Hình như người rừng “đánh hơi” và biết có một giống lạ tới viếng “cấm địa” của mình. “Người ấy” rống lên một tiếng thật lớn. Răng Sa Mát tưởng tấm màng mỏng trong lỗ nhĩ của mình đã rách. Tai cậu “điếc” đi trong hai phút.
Quả nhiên, người rừng đã thấy Răng Sa Mát. Con người quái dị ấy trong phút bỡ ngỡ, tưởng đã nhận đứa nhỏ ngồi trên nhành cây cao kia là con mình.
Nhưng, không! “Con chằn niên” đã mất hẳn trí khôn của loài người. Trong cái hình thù đầy lông lá kia chỉ có cái bản năng của một con thú, và là một con thú dữ!
Răng Sa Mát lần lưng lấy ra một củ ngải nhỏ quăng xuống trước mặt người rừng. Con chằn niên vồ lấy củ ngải và bỏ tuột vào miệng nhai ngấu nghiến. Hai hàm răng trắng xanh nghiến vào nhau nghe ken két.
Trong lúc ấy, Răng Sa Mát đọc mau những tràng kệ đã học thuộc lòng của lão Bống. Xong xuôi, cậu nhìn quanh như để thấy lại thế gian lần cuối cùng rồi buông tay lao mình xuống đất sau khi nó đọc một câu cuối cùng này:
- Bạp ơi! Hãy báo thù cho con!
“Con chằn niên” vồ lấy con mồi! Những móng tay có móng nhọn như đinh cắm sâu vào những gân máu ở cổ Răng Sa Mát.
Cậu bé thét lên một tiếng lớn, trong khi người rừng cười lên sằng sặc, há lớn miệng cắn vào cổ cậu bé.
Đã hơn năm ngày, mưa xuống mù trời. Sấm sét nhiều hơn cả bao giờ. Người ta nói rằng: Quả đất sắp tan ra từng mảnh vụn!
Lão Bống khôn ngoan hơn. Lão mừng rỡ nói với bọn trai tráng trong làng:
- Người thợ săn giỏi nhất làng ta sắp trở về với chúng ta.
Không ai tin lão cả. Lão Bống phải cắt nghĩa:
- Có gì đâu! “Con chằn niên” đã hút được máu của con mình nên lông lá rụng hết. Răng Sa Mát đã ăn đủ một trăm củ ngải rừng và đã hiến thân cho cha nó...
Bọn đàn bà ôm mặt khóc hu hu. Ai cũng thì thầm nói:
- Tội nghiệp cho Răng Sa Mát quá!
Cả làng Thanh Sơn huyên náo như có cuộc đại hội. Trọn ba ngày người ta bày ra các cuộc múa, hát để ăn mừng sự “tái sinh” của người anh hùng thiện xạ đã trở về với họ. Người ta múa, hát và bày ra những cuộc thi bắn để nhớ lại những thành tích oanh liệt của Răng Sa Bang cha thằng Răng Sa Mát.
Đèn đuốc sáng choang một vùng. Tiếng đờn “chìn-kha-la” nổi lên những bản hùng tráng nghe như tiếng xô xát giữa hai đội hùng binh.
Đứng trên sàn nhà cao, Răng Sa Bang, người trưởng đoàn liệp hộ khoanh tay trước ngực, lòng buồn hơn cả bao giờ. Chàng trông cho mau dứt đám hội để đi làm cái việc mà Răng Sa Mát, con chàng, trước khi xả thân trối lại.
Lão Bống đứng lên, nói nhỏ vào tai chàng:
- Thằng Bướm không dám về dự lễ đâu! Chúng nó là cặp uyên ương mới. Có lẽ chúng nó đang quấn quýt với nhau ở nhà thằng Vắn. Nghe đâu chúng vừa làm được một mẻ trộm ở sở cao su ông Xả khá lắm. Muốn gặp chúng nó, cứ qua nhà thằng Vắn...
Người trưởng đoàn liệp hộ nghiến răng ken két. Hai bàn tay nắm chặt lại, miệng lầm thầm:
- Răng Sa Mát ơi! Hồn thiêng của con phảng phất đâu đây hãy về mà coi cha phân thây [14], xẻ thịt kẻ thù đã phá tan hạnh phúc của nhà ta.
- Ai đó?
Bướm ngồi dậy và vớ lấy lưỡi mác của anh ta gối sẵn dưới đầu mình. Một cái bóng to lớn và mạnh mẽ đã ôm lấy Bướm và siết chặt rất mạnh. Bướm chém phầm phập vào cái bóng, nhưng chẳng ăn thua gì. Lưỡi mác bén của anh ta đã trở thành vô dụng khi chạm vào da thịt của người trưởng đoàn liệp hộ làng Thanh Sơn. Anh ta nghe xương mình kêu lên răng rắc dưới cái sức ôm ghì của đối thủ.
Bướm kêu lên một tiếng:
- Răng Sa Bang! Hãy tha tôi! Tôi đã nuôi nấng vợ người trong một năm nay.
Một tiếng cười khan nổi lên giữa đêm khuya. Hai bàn tay có những ngón nhọn và cứng bấm chặt vào cổ Bướm.
Máu đổ ra tung tóe. Răng Sa Bang há miệng ra cắn vào cổ kẻ thù như khi “con chằn niên” cắn cổ Răng Sa Mát.
Mười phút sau, người trưởng đoàn liệp hộ tìm thấy vợ mình trốn trong chuồng trâu.
Người đàn bà rung lên như bị sốt rét.
- Tôi lạy mình! Mình tha tôi! Tôi đã có mang. Giết tôi thì được rồi! Nhưng... tội nghiệp hòn máu vô tội!
Người đàn ông căm tức:
- Mầy biết hòn máu trong bụng mầy. Còn con mầy!... Hừ!...
Răng Sa Bang giơ lưỡi mác lên định hạ sát con đàn bà gian ác. Nhưng không biết nghĩ sao, chàng dừng tay lại.
- Tao tha cho mầy! Hãy sống đời mà nuôi cái hòn máu nhơ nhuốc sẽ thành hình.
Người trưởng đoàn liệp hộ buông lưỡi mác, rồi lao mình vào đêm tối.
Người đàn bà gục xuống và kêu lên:
- Mình ơi! Hãy trở lại mà giết em! Tội em đáng chết lắm!...
Hai bàn tay run rẩy của người đàn bà sờ soạng đi kiếm lưỡi mác rớt dưới sàn tre...
Chú thích:
[1] Pn. Gò đất cao.
[2] Cha (LVS).
[3] Các bản Tân việt 1949: cấp. Lỗi chính tả do phát âm.
[4] Làng (LVS).
[5] Săn được nhiều thú (LVS).
[6] Cọp, hổ (LVS).
[7] Sic. (Pn). Bâ của đội lốt.
[8] Người Mọi thờ một vị thần linh mà họ gọi là “Nhang” (LVS).
[9] Sic. Từ cũ, ít dùng như: nỗi.
[10] Pn. Bâ của phảng phất.
[11] Bâ của hoàn.
[12] Bản Tân Việt 1949: nhào. Lỗi chính tả do phát âm? Nhiều trường hợp trong tác phẩm Lý văn Sâm trước năm 1950, âm au được viết thành ao. Ví dụ quê nhao rún, nhao rún... Khi đối chiếu với một bản thảo chép tay của Lý văn Sâm, năm 1954, chúng tôi thấy nhà văn viết nhau. Vì thế, đây có lẽ là lỗi nhà in.
[13] Sic. Chìm dần.
[14] Sic. Thường viết: phanh thây.