← Quay lại trang sách

Chương 4 Đấu trí với gia tộc làm giả đồ đồng

Căn hộ này có hai buồng một phòng khách. Tôi và Dược Bất Nhiên mắt sáng lên, chia nhau xộc thẳng vào hai gian trái phải. Gian phòng tôi xông vào là buồng ngủ, chẳng có gì ngoài một tủ quần áo lớn và một chiếc giường đôi. Cúi xuống nhòm gầm giường cũng chẳng có ai, tôi đành lùi ra cửa. Dược Bất Nhiên cũng đã kiểm tra xong gian bên kia, nói chỉ có chiếc bàn gấp và mấy cái ghế cùng một ti vi đen trắng.

Có điều gã nói trên bàn còn đĩa lạc và đĩa nộm sứa, cả một bình Mao Đài và một chén rượu nữa.

Bấy giờ bà lão mới kịp lao vào tóm lấy tôi và Dược Bất Nhiên, lu loa dọa báo cảnh sát. Tôi để ý thấy tay áo bà ta dính bột mì, chắc hẳn trước lúc mở cửa đang gói sủi cảo trong bếp.

Nói cách khác, kẻ ngồi uống rượu trong phòng khách, nhất định là một người khác.

Mắt tôi sáng lên, vội gạt bà ta ra giao cho Dược Bất Nhiên rồi quay lại phòng ngủ, nhìn quanh một lượt, đoạn đi thẳng đến tủ quần áo. Tủ làm bằng gỗ sồi, kiểu dáng rất cũ, chân còn chạm thành đầu hổ, hẳn là đồ gia dụng từ thời Minh Quốc, được giữ gìn cẩn thận nên bề mặt bóng loáng.

Bà lão đang la lối om sòm thấy vậy bỗng sững sờ rồi gào lên, “Này ông, mau đi đi!”

Hai cánh tủ tức thì bật tung, một lão già áo ba lỗ quần đùi nhảy ra, tay lăm lăm tua vít đâm thẳng vào tôi. Tôi không dám manh dộng, vội lùi mấy bước, lão ta thừa cơ lao khỏi phòng ngủ chạy thẳng ra cửa, động tác nhanh thoăn thoắt. Dược Bất Nhiên toan lao ra giữ thì bị mụ già kia cắn ngay vào tay, kêu oai oái.

Tiếc rằng lão không biết ngoài cửa còn một bà la sát chực sẵn, mới ló nửa người ra đã bị một bàn tay nõn nà đặt lên vai, tua vit keng một tiếng rơi xuống sàn bê tông, cả người tức thì đờ ra bất động.

Tuy hoảng sợ nhưng ánh mắt lão vẫn lóe lên đầy hung tợn, cả người càng cứng như một con chó dữ, chỉ cần được thả ra sẽ xồ vào cắn người. Lão vùng vẫy toan bò dậy, nhưng bị Hoàng Yên Yên ghì chặt xuống đất.

“Ông là Phó Quý, thanh tra Phó Quý đúng không nào?” Tôi ngồi xuống lạnh lùng nói.

Lão già đờ ra.

Thấy vậy, tôi càng tin chắc lão ta có chuyện giấu giếm, bèn ra hiệu cho Hoàng Yên Yên nương tay một chút, tươi cười xoa dịu, “Ông yên tâm, chúng tôi không đến vì cái đĩa sứ Quân kia đâu, chỉ muốn hỏi thăm chút chuyện thôi.”

Nghe nhắc tới “đĩa sứ Quân”, Phó Quý biết nếu không chịu hợp tác sẽ bị bắt về Thẩm Dương Đạo đành nằm im, trợn mắt nhìn tôi, “Các người… muốn hỏi gì?”

“Nào nào, ông đứng lên đã, kính lão đắc thọ, thế này nói chuyện sao được.” Tôi đỡ lão ta dậy, trong khi Hoàng Yên Yên vẫn cảnh giác giữ chặt tay lão, dẫn vào nhà. Dược Bất Nhiên nhăn nhó cười bảo bà cụ, “Bà già, bà cầm tinh con chó à? Còn không nhả ra?” Mụ già này răng lợi còn chắc phết, cắn Dược Bất Nhiên chảy cả máu tay.

Phó Quý xua tay, thở dài bảo bà ta, “Nguyệt, nhả ra rồi đi gói sủi cảo đi, bà xong việc ở đây rồi.” Bấy giờ bà ta mới chịu nhả Dược Bất Nhiên ra, hầm hầm lừ mắt nhìn chúng tôi rồi quay vào bếp. Nhìn cũng đủ thấy bà già có lẽ là vợ hoặc bồ nhí của Phó Quý, chẳng qua ở Thẩm Dương Đạo không ai biết quan hệ giữa họ mà thôi.

Để bà ta làm khổ chủ, một là qua mặt được mấy chủ hiệu, hai là tiện thể tung hỏa mù - ai ngờ được Phó Quý lại trốn đến nhà người bị mình lừa cơ chứ.

Phó Quý cúi xuống nhặt tua vít lên, chìa tay về phía phòng khách, “Mời các cô cậu.” Lão ta đã lấy lại bình tĩnh, phong thái điềm đạm, khác hẳn tên trộm vừa bị tóm ban nãy.

Tôi nghĩ bụng, lão già này dù sao cũng từng làm cảnh sát, không đơn giản chút nào. Đang yên đang lành ngồi ăn cơm, vừa nghe tiếng gõ cửa đã trốn ngay vào tủ, còn không quên vơ cây tua vít để thừa cơ phản kích. Nếu không phải Hoàng Yên Yên giỏi võ, có lẽ đã để sổng lão rồi.

Bọn tôi lục tục ngồi xuống. Phó Quý hỏi ngay, “Các người từ Bắc Kinh đến à?” Chúng tôi gật đầu. Lão hỏi tiếp, “Người của Minh Nhãn Mai Hoa sao?” Lần này chỉ Dược Bất Nhiên và Hoàng Yên Yên gật gật. Lão ta lấy ra mấy chén rượu, rót cho chúng tôi rồi tự cầm một chén uống cạn, hỏi câu thứ ba, “Vì chuyện Hứa Nhất Thành chứ gì?”

Lão già này đúng là tinh như cú vọ. Dược Bất Nhiên trỏ sang tôi, “Cậu ta là cháu nội Hứa Nhất Thành.”

Phó Quý thản nhiên nhìn tôi, “Trông cũng nhang nhác đấy.” Vừa nhắc đến ông tôi, phong thái lão bỗng khác hẳn, không còn là lão cò gian xảo lừa gạt nữa, mà đã trở thành thanh tra cảnh sát đội trời đạp đất giữa Bắc Bình năm xưa. Tôi để ý thấy bên phải cổ lão có vết sẹo gớm guốc, tuy đã bị cổ áo che đi, nhưng vẫn nhận ra là sẹo bỏng.

Giờ ngoài Hoàng Khắc Vũ ra, cũng chỉ còn Phó Quý từng biết ông nội tôi. Những gì lão ta tiết lộ hẳn sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc đời tôi sau này. Giọng tôi không giấu nổi căng thẳng, “Nghe nói chính ông đã bắt giữ và thẩm vấn ông nội tôi, nên tôi muốn hỏi thăm chuyện năm ấy.”

Phó Quý cầm chén rượu bằng ba ngón tay, hờ hững đáp, “Bao năm rồi, sao tự dưng lại lôi chuyện này ra? Các cô cậu mất bao công sức mới tìm được tôi, hẳn không chỉ muốn hàn huyên chuyện cũ đâu nhỉ?” Tôi bèn kể sơ đầu đuôi chuyện Kido Kana trả đầu Phật, cố tình nhấn mạnh ông ta là nhân tố quan trọng để giãi mã sổ tay của Kido Yuzo.

“Xem ra năm phái vẫn canh cánh vụ trộm đầu Phật này nhỉ.”

“Họ là họ, tôi là tôi. Nhà họ Hứa đã rời Minh Nhãn Mai Hoa lâu rồi.” Tôi đính chính. Nghe ba chữ “nhà họ Hứa”, ánh mắt Phó Quý hơi khang khác, lão hỏi, “Nhà các người bao năm nay sống thế nào?”

Tôi trả lời vắn tắt mấy câu. Phó Quý đặt chén rượu xuống chỉ ra cửa, “Thấy đôi câu đối kia không? Của Hứa Nhất Thành tặng tôi đấy. Hằng năm tôi đều nhờ người chép lại một đôi dán trước cửa, thế mà đã mấy chục năm rồi.” Tôi ngạc nhiên, “Ông từng có giao tình với ông nội tôi?”

“Đâu chỉ có giao tình, bọn ta còn là bạn thân ấy chứ!” Phó Quý lắc lư đầu, như đang ôn lại kỷ niệm, tự nhiên cũng cởi mở hẳn ra, “Ta quen hắn từ hồi Phổ Nghi mới thoái vị chưa lâu. Bấy giờ ta làm cảnh sát gần Lưu Ly Xưởng, hằng ngày cầm dùi cui đi lòng vòng quanh đó. Một hôm, ta bắt gặp một kẻ mặc áo khoác ngắn, nách cắp ô, trông như sinh viên đại học. Dạo ấy sinh viên là chúa gây chuyện nên ta bèn lân la gọi chuyện. Gã sinh viên đó giới thiệu tên là Hứa Nhất Thành, đang trên đường đi học ở Đại học Bắc Kinh. Thấy hắn cầm ô, ta sinh nghi bởi Bắc Bình hôm ấy trời quang mây tạnh, tự dưng đem ô theo làm gì, nhất định là có vấn đề!”

Kể đến đó, Phó Quý mỉm cười. Người già thường thích ôn chuyện cũ, nhất là những chuyện họ còn nhớ như in. Tôi cũng không vội hỏi chuyện về cuốn sổ tay mà im lặng lắng nghe, hy vọng biết thêm nhiều điều về ông nội mình.

“Nghĩ là làm, ta bắt ngay hắn về đồn, lôi sang phòng thẩm vấn. Vừa ngồi chưa nóng mông đã thấy một đám người ùn ùn kéo đến, nói rằng có kẻ lỡ tay làm vỡ một chiếc gương đồng trong tiệm đồ cổ. Chủ tiệm nói đó là gương từ thời Hán, bắt người kia đền bằng được, hai bên lôi nhau đến đồn cảnh sát. Ở đồn đang thiếu người, ta đành lùa luôn chủ tiệm lẫn khách vào phòng thẩm vấn, tra hỏi cả hai chuyện luôn thể. Sau khi hỏi qua đầu đuôi vụ cái gương đồng, ta chợt thấy Hứa Nhất Thành cười bảo, tôi giúp anh giải quyết vụ này, đổi lại anh thả tôi ra được không. Ta không tin, vặn lại, cậu tưởng mình là Bao Thanh Thiên chắc? Nào ngờ hắn vỗ ngực: vụ này hời lắm đấy.

‘‘Không ngờ hắn phá được án thật. Hắn nói gương đồng thời Hán Đường thường có nồng độ thiếc cao, trong giới có một phương pháp dùng thủy ngân, phèn chua, sừng hươu mài ra trộn với mạt thiếc đen chà lên mặt gương, gọi là thuốc chà gương, chà thật kỹ thì rất khó phân biệt, muốn thủy ngân ngấm vào hay nước sơn bên ngoài đen xỉn y như đồ cổ thật cũng dễ ợt. Đoạn hắn cầm tay lão chủ tiệm lên, thấy vẫn còn dính mạt thiếc, thoạt nhìn đã biết là chuyên làm đồ giả lừa người. Ta bèn còng tay chủ tiệm lại, rồi dẫn mấy cấp dưới đến tiệm lão tra rõ ngọn ngành xưởng làm giả đồ cổ, lập được công lớn.

“Đúng là phải nhìn người này bằng con mắt khác, ta thả hắn ra, còn mời đến tiệm Trương Ký chén một bữa dê hầm tương no nê. Từ ấy chúng ta đánh bạn với nhau. Ở Lưu Ly Xưởng thường xảy ra tranh chấp cãi cọ về đồ cổ, quen biết người trong nghề ta cũng dễ làm việc hơn. Về sau ta mới biết hắn là người của Minh Nhãn Mai Hoa, hạ mình kết bạn với một tay cảnh sát quèn như ta chủ yếu là vì quý mến. Sau này Hứa Nhất Thành làm tới chức chưởng môn, ta cũng nhờ vậy mà phá được mấy vụ án lớn, trở thành thanh tra ở Thành Nam.”

Kể đến đây, Phó Quý lộ vẻ băn khoăn, “Ta thực không ngờ, người ngay thẳng như Hứa Nhất Thành lại đi trộm đầu Phật. Tính tình hắn ta hiểu hơn ai hết, thứ nhất căm kẻ chà đạp văn vật, thứ hai hận người Tây cướp của báu, thường than vãn quốc gia yếu hèn, không bảo vệ được báu vật. Lúc Tôn Điện Anh cho nổ mộ Từ Hi, hắn giận đến không thở nổi kia mà. Người như vậy mà lại đi ăn trộm đầu Phật tuồn ra nước ngoài, đến giờ ta vẫn không sao hiểu nổi.”

“Lúc thẩm vấn ông nội tôi không nói gì sao?”

Phó Quý hậm hực hắng giọng, “Hừm, sau khi xảy ra vụ trộm đầu Phật, Sở Cảnh sát Bắc Bình phát lệnh truy nã Hứa Nhất Thành. Đây vốn dĩ không thuộc phận sự của ta, song ta chủ động xin tham gia thẩm vấn, bởi cho rằng trong vụ này ắt có oan khuất. Hứa Nhất Thành là bạn ta, ta phải nghĩ cách rửa tội cho hắn.”

“Sao ông dám chắc vậy?”

“Bởi vụ án này rất kỳ quặc. Chứng cứ duy nhất chỉ có bài báo của Kido Yuzo mà thôi, về phần trộm được ở đâu, trộm lúc nào, hoàn toàn không ai biết. Nhất Thành chỉ cần chối bay chối biến, bảo tất cả là do tên Nhật Bản kia làm, mình bị hắn lừa gạt có phải xong không, tuy chưa chắc được thả, nhưng ít nhiều cũng được giảm án. Ai ngờ tên khốn kiếp đó khăng khăng bất hợp tác, ngậm miệng không khai, hỏi đi hỏi lại chỉ đáp có một câu: Anh không hiểu được đâu. Mấy hôm sau hắn nhận tội, nói rằng đằng nào cũng chết, chi bằng để anh Quý lập công, cậu bảo có tức không chứ?”

Phó Quý đấm mạnh xuống bàn làm chén rượu rơi xuống đất vỡ tan, rõ ràng vẫn canh cánh trong lòng suốt mấy chục năm nay. Bà cụ nghe động hớt hải chạy ra, nhặt hết mảnh sứ đi rồi đưa lại cho lão chén mới.

Trong lúc đó, tôi vẫn thẫn thờ. Theo lời Phó Quý thì ông tôi tự chui đầu vào lưới, chủ động nhận tội. Thật vô lý hết sức. Thấy tôi lặng đi, Dược Bất Nhiên lanh chanh hỏi trước, “Ông đã bao giờ gặp Kido Yuzo chưa?”

Phó Quý lộ vẻ lúng túng, lặng lẽ nâng chén lên hớp một ngụm rồi đáp, “Ta chỉ biết sơ sơ thôi. Ta từng ăn cơm với hắn hai lần, có cả Nhất Thành. Xưa nay ta chẳng ưa người Nhật, nhưng tên này trông không giống kẻ xấu. Làm thanh tra bấy nhiêu năm, hạng người nào ta cũng chỉ nhìn qua là biết. Kido Yuzo thuộc loại mọt sách, cận lòi mắt, ăn nói lại vụng về, rảnh ra là cắm đầu vào quyển sách, không quan tâm chuyện bên ngoài. Cùng ăn hai bữa cơm nhưng thực ra chẳng nói với nhau được mấy câu, phần lớn thời gian là ta và Nhất Thành trò chuyện, hắn ngồi chầu một bên, mặt mày thẫn thờ, chẳng biết nghĩ cái gì. Nếu sau này không phải vì hắn mà Nhất Thành bị bắt, ta còn tưởng tên này chơi cũng được chứ. Thế nên về việc giải mã sổ tay của hắn ta không dám chắc đâu, bởi ta không giao lưu gì với hắn cả.”

“Lúc ông thẩm vấn Hứa Nhất Thành, Kido có mặt không?”

“Làm gì có chuyện, nếu tên khốn ấy dám bén mảng sang Bắc Bình, ta bắn chết ngay!”

“Sổ tay ông ta có chữ ký thu giữ của ông, ông còn nhớ không?”

Phó Quý nghiêng đầu ngẫm nghĩ, “Hình như đúng là có… không đúng, là một xấp mới phải, tổng cộng ba quyển cơ.”

Ba quyển? Loại sổ bìa da như vậy tôi có một quyến, Kido Kana cầm một quyển, còn quyển thứ ba thì sao?

“Ông biết nội dung bên trong không?”

“Ta chịu, nó được viết bằng mật mã mà. Ta đoán là ghi chép khảo cổ gì đó. Hứa Nhất Thành tự nhận tội nên kiểm sát viên cũng chẳng đế tâm mấy cuốn sổ, coi là chứng cứ loại hai, không hơi đâu giải mã.”

Quả nhiên cuốn số thứ ba cũng bị mã hóa. Chỉ không biết nó dùng mật mã giống Tố đỉnh lục hay sổ tay của Kido Yuzo, hay lại có một loại mã riêng.

“Về sau mấy cuốn số ấy thế nào ạ?” Tôi hói.

“Một quan chức ngoại giao tên Anegakoji Eitoku từ lãnh sự quán Nhật nói đó là tài sản của chính phủ Nhật, phải thu hồi.”

“Thu hồi hết ư?”

“Dĩ nhiên, cả ba quyển.”

Vậy là đã tìm hiểu được nguồn gốc cuốn số tay của Kido Yuzo, nhưng lại nảy ra một nghi vấn mới: nếu chính phủ Nhật Bản đã thu lại cả ba cuốn, thì Tố đỉnh lục ở nhà tôi từ đâu ra? Cuốn số thứ ba giờ đâu rồi?

Tôi hỏi cặn kẽ từng chi tiết, cũng may Phó Quý có ấn tượng sâu đậm về chuyện này nên nhớ được rất nhiều. Tiếc rằng ông ta chỉ là một thanh tra nhỏ nhoi, chẳng qua muốn giúp ông tôi vì tình nghĩa bạn bè mà thôi, về tình tiết vụ trộm đầu Phật e rằng còn không nắm rõ bằng Hoàng Khắc Vũ.

Qua lời kể của Hoàng Khắc Vũ, Phó Quý và Kido Kana, hình ảnh ông tôi dần hiện rõ, chỉ riêng quãng thời gian từ tháng Bảy đến tháng Tám năm 1931 vẫn còn để trống, chẳng biết ông và Kido Yuzo đi đâu làm gì.

Tôi lại hỏi, “Đến chết ông nội tôi cũng không chịu nói gì ư?” Phó Quý lắc đầu, “Không hề. Hứa Nhất Thành cương quyết lắm, đã không muốn nói thì đừng hòng cạy miệng được nửa chữ. Đêm trước hôm xử bắn, ta đem rượu và đồ ăn tới tiễn, khuyên hắn nghĩ cho kỹ, nếu hắn nói một tiếng, ta chắc chắn có thể trì hoãn vụ này. Song hắn vẫn khăng khăng không hé răng. Mãi tới khi ta bưng mâm rượu và đồ ăn rời ngục mới nhận ra dưới đáy mâm dán một tờ giấy, viết rằng làm bạn cùng nhau bấy lâu, hắn muốn để lại cho ta món quà kỷ niệm. Theo chỉ dẫn trên giấy, ta tìm đến hầm trữ đông ở một nơi hẻo lánh phía Nam thành, lấy được một tấm gương đồng chạm hình hải thú bồ đào từ thời Đường. Ý hắn hẳn là: chúng ta kết bạn nhờ một tấm gương thì kết thúc cũng bằng một tấm gương vậy.”

Đến đây ông ta hít sâu một hơi, nhắm mắt lại.

“Ta định tìm vợ Hứa Nhất Thành nhưng bà ấy đã ẵm đứa con mới lọt lòng biến mất. Về sau chiến tranh nổ ra, người Nhật chiếm đóng Bắc Bình, ta không tản cư mà vẫn ở lại làm cảnh sát cho chúng. Sau đó quân ta đánh đuổi được giặc Nhật, ta may mắn không bị quy là Hán gian, còn bám víu được tư lệnh quân cảnh vệ Bắc Bình. Có điều vì vậy mà khi Bắc Bình hòa bình giải phóng, ta muốn rũ sạch quan hệ với ông ta cũng khó. Chuyện sau đó các cô cậu biết cả rồi đấy, ta ngồi tù gần nửa đời người, ra tù cũng chẳng làm cảnh sát được nữa, đành dựa vào chút kiến thức học mót dạo chơi bời với Hứa Nhất Thành để làm một tay cò đồ cổ ở Thiên Tân.”

“Lạ thật…” ‘Tôi lẩm bẩm, nhưng ba người kia đều nghe được. Phó Quý nhíu mày, “Cậu bảo cái gì lạ?”

Tôi ngẩng lên, “Chiếc gương ông lấy được rất lạ.”

“Ý cậu nói Nhất Thành tặng ta đồ giả ư! Hừm, cậu thì biết gì về ông ấy!” Phó Quý bực bội.

“Không, không, ý tôi không phải bảo chiếc gương đó là giả, mà…” ‘Tôi vội sắp xếp lại từ ngữ, “Địa điểm ông đến lấy cái gương có vấn đề. Vừa rồi ông nói nó được đặt trong hầm trữ đông đúng không?”

“Phải, ở một thôn nhỏ phía Nam thành, trước kia là nơi chuyên cung cấp nước đá cho hoàng cung.”

“Vậy mới lạ. Ông tôi là chưởng môn năm phái, cùng là chuyên gia giám định của Bạch môn, không lý nào lại làm một chuyện ngớ ngẩn như thế.”

Nghe vậy, mấy người kia đều đổ dồn mắt vào tôi. Tôi bẻ ngón tay giải thích, “Đồng điếu, chất liệu đúc gương đồng là đồng pha thiếc, mà thiếc ở nhiệt độ thấp sẽ biến thành mạt màu vàng. Nếu đặt gương đồng ở nơi điều kiện không phù hợp, thành phần thiếc bên trong sẽ bị ăn mòn, lan sang xung quanh, gọi là ‘loang thiếc’. Bởi vậy muốn bảo quản đồ đồng điếu, tuyệt đối phải tránh nhiệt độ thấp. ”

Hầm trữ đông là căn hầm bảo quản đá lạnh. Người xưa không có tủ lạnh, đành đào một căn hầm thật sâu, đến mùa đông chuyển đá cục vào đó bảo quản ở nhiệt độ thấp dưới lòng đất để đến hè sử dụng. Thế nên dưới hầm lúc nào cũng lạnh. Đặt gương đồng trong đó, chưa đầy một tuần sẽ bị loang thiếc.

Ông nội tôi chuyên nghiên cứu đồ đồng, sao lại phạm sai lầm cơ bản như thế được?

“Nhưng rõ ràng Nhất Thành để ở đó mà.” Phó Quý phân bua.

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta, “Vậy thì chỉ có một khả năng. Ông ấy muốn truyền đạt tin tức gì đó thông qua tấm gương đồng, lại không muốn kẻ khác biết, đành làm việc ngược đời như thế hòng để lại ám hiệu. Có lẽ chỉ khi tấm gương bị loang thiếc, ám hiệu mới lộ ra.”

“Khụ! Sao hắn phải vòng vo tam quốc thế? Có gì nói thẳng cũng được mà.”

“Vụ án đầu Phật này liên can quá rộng, bao nhiêu thế lực nấp nom trông vào. Ông tôi làm vậy hẳn có lý do của ông ấy. Sau khi lấy được tấm gương, ông còn nhớ trên đó có gì không?”

“Ta đến hầm trữ đông lấy gương đem về cất ở nhà, cũng chẳng hiểu nhiều về đồ đồng nên không nhìn kỹ bao giờ.”

Hoàng Yên Yên sốt ruột hỏi, “Vậy tấm gương ấy đâu rồi?”

Phó Quý lộ vẻ hổ thẹn, vỗ trán ngập ngừng, “Ừm… Ta không còn giữ nữa rồi. Hai năm trước bà nhà cần tiền khám bệnh nên ta đã bán đi. Tiếc rằng vẫn không đủ tiền, mới phải thông đồng cùng tay họ Tôn đánh quả lớn rồi dẫn bà ấy về quê dưỡng bệnh. Ai ngờ các cô cậu lại lần đến tận đây.”

Hóa ra ông là vì xoay tiền chữa trị cho vợ nên mới bày ra kế ấy. Có điều nghĩ kỹ lại thì ông ta bị giam mấy chục năm, ra tù không nghề ngỗng gì, làm cò chẳng được mấy đồng, cuộc sống khó khăn cũng phải.

Dược Bất Nhiên nôn nóng cướp lời, “Bán cho ai thế?”

“Một ông chủ ở An Dương. Ông ta nói muốn mua một tấm gương cổ trấn trạch. Chậc, nếu không cần tiền trị bệnh cho bà ấy, ta cùng không nỡ bán đồ Nhất Thành tặng đâu.”

Ba chúng tôi nhìn nhau, xem ra chuyến này vẫn chưa về được, phải đến An Dương xem sao đã. Tôi hỏi địa chí người mua, ghi lại cẩn thận, tay đó tên Trịnh Quốc Cừ, cái tên đến thú vị, có lẽ cha anh ta hâm mộ Tần Thủy Hoàng.

Tôi cầm chén rượu trên bàn, hai tay giơ cao đầy cung kính, “Ông Phó, chén này cháu xin tạ lỗi vì hôm nay lỗ mãng.” Đoạn ngửa cố uống cạn, rồi rót thêm chén nữa, “Chén này cháu thay ông nội kính ông, cám ơn ông bấy nhiêu năm nay vẫn nhớ đến ông cháu.” Lại uống một hơi cạn sạch.

Tửu lượng của tôi khá kém, đầu óc đã bắt đầu lơ mơ, nhưng vẫn cố rót chén thứ ba, “Chén này cảm ơn ông đã chỉ cháu một manh mối. Việc này rất liên quan mật thiết tới danh dự của ông nội cháu và cả nhà họ Hứa.”

Phó Quý chầm chậm đứng dậy, hai tay giữ lấy chén rượu của tôi, nước mắt giàn giụa, “Năm xưa ta không giúp được Nhất Thành, vẫn ân hận đến tận bây giờ. May sao hôm nay tâm nguyện ấy đã giải quyết được phần nào.” Uống cạn rượu trong chén, ánh mắt ông ta rực lên, “Ta cam đoan với cậu, Nhất Thành không phải kẻ trộm đầu Phật đem bán. Chuyện năm xưa ngoắt ngoéo thế nào ta chưa điều tra ra được, đành nhờ cậu vậy.”

Nói đoạn ông ta tự dưng đi ra ban công lục tìm một hồi, lôi ra một cuốn album đầy bụi bặm. Phó Quý phủi sạch bụi, ho sù sụ rồi mở cuốn album lấy một tấm ảnh cũ đã ố vàng, “Đây là bức ảnh duy nhất của Nhất Thành mà ta có, lúc thẩm vấn ta đã lén giữ lại. Tặng cậu làm kỷ niệm, coi như trả về chủ cũ.”

Nhìn bức ảnh, chúng tôi biến sắc.

Tấm ảnh này mấy hôm trước chúng tôi đã được Kido Kana cho xem, là ảnh chụp Kido Yuzo trên đường khảo sát từng đăng tải trên báo, chân giẫm lên gò đất, lưng dựa tường thành, phong cảnh, bố cục, tư thế, ánh sáng không khác mảy may.

Nhưng giữa hai bức ảnh lại có một điểm khác biệt cơ bản.

Trong bức này có thêm một người, đứng cạnh Kido Yuzo, mặc áo ngắn, chính là ông nội tôi.

Công nghệ chỉnh sửa ảnh đã có từ thế kỷ mười chín, chẳng phải mánh gì mới lạ. Người thời đó vận dụng một số thủ thuật phòng tối như sửa chữa, cắt xén và phơi sáng lại để chỉnh ảnh, người xem khó mà phát hiện được. Ví như bức Lenin phát biểu ở Matxcova năm 1920, vốn dĩ có Trotsky đứng bên cạnh, nhưng sau khi Stalin nắm chính quyền, đã vận dụng kỹ thuật phòng tối để xóa Trotsky đi. Tưởng Giới Thạch cũng chẳng kém, đã chỉnh sửa ảnh chụp tập thể với Tôn Trung Sơn và hai viên sĩ quan khác, xóa hai sĩ quan đi, chỉ để lại mình và Tôn Trung Sơn, nhằm chứng tỏ ông Tôn rất quý mình.

Tôi biết những chuyện này là nhờ quen một nhiếp ảnh gia ở Tân Hoa Xã. Dưới thời Cách mạng Văn hóa, anh ta liên tục nhận được những nhiệm vụ tương tự, ví như xóa các tướng và quan chức đã bị đánh đổ khỏi hình chụp chung với chủ tịch Mao, hoặc sửa những khẩu hiệu, trích dẫn bị che khuất v.v…

Dược Bất Nhiên và Hoàng Yên Yên nghe tôi kể đều lấy làm kinh ngạc. Họ đã thấy nhiều đồ giả cổ, nhưng thực không ngờ ảnh cũng bị làm giả. Dược Bất Nhiên gãi đầu cảm thán, “Mẹ kiếp, lại còn thế nữa à? Chậc, ông còn liên lạc với tay thợ ảnh ấy không? Tôi có mấy tấm chụp chung cùng bạn gái cũ, cũng muốn xử lý…”

Tôi đút hai tay vào túi, nhíu mày. Xem ra sự việc ngày càng trở nên rắc rối. Cùng một tấm ảnh lại lòi ra hai bản khác nhau, rốt cuộc là ảnh ông tôi chụp chung với Kido Yuzo bị sửa, hay ông tôi bị thêm vào tấm ảnh chụp riêng của Kido Yuzo, mục đích là gì?

Hết nghi vấn này đến nghi vấn khác dồn dập ập tới, trong khi tôi lực bất tòng tâm, muốn rút tơ bóc kén mà không thể.

Chúng tôi đáp tàu quay lại Bắc Kinh. Phương Chấn ra ga đón, tiện thể báo cáo với cục trưởng Lưu. Chỉ thị của cục trưởng Lưu vẫn như cũ, bảo bọn tôi cứ việc điều tra, các ban ngành liên quan sẽ ủng hộ, nhưng không nhúng vào. Phương Chấn cầm hai tấm ảnh đi, nói rằng sẽ đem đến phòng Kỹ thuật giám định. Nếu bị chỉnh sửa, các hạt trên ảnh sẽ có khác biệt, họ có thể nhận ra được.

Phía Kido Kana cũng có tin mới. Cô ta đã thuyết phục được gia tộc Kido chụp lại từng trang sổ tay của Kido Yuzo fax sang, tuy hơi mờ nhưng vẫn đọc được.

Kido Kana đóng lại thành một tập, đưa tận tay tôi kèm ánh mắt đầy ẩn ý, “Hy vọng chúng ta hợp tác suôn sẻ. Ở Trung Quốc, tôi chỉ tin tưởng anh Hứa thôi.” Tôi hiểu ý cô ta. Theo quan điểm của Kido Kana, bất luận là cục trưởng Lưu hay Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa đều nhăm nhăm nhận lại đầu Phật, chỉ riêng tôi tham gia vì danh dự của ông nội, xét ngọn ngành ra cũng gần giống với việc cô ta muốn chuộc tội cho ông mình.

Nhưng tôi cũng không tin mục đích của Kido Kana chỉ đơn giản như thế. Cô ta luôn hành xử đầy bí ẩn, huống hồ cuốn Ghi chép về đồ cổ China của Hội phong tục China chẳng biết có liên quan gì tới Viện nghiên cứu Đông Bắc Á hiện giờ không.

Có điều hiện tại giữa chúng tôi không có xung đột lợi ích nên tôi tạm thời không nói toạc ra.

“Cô Kido, chuyện Phó Quý tôi đã kể hết với cô rồi. Tôi cũng rất để tâm tới Anegakoji Eitoku, cô có thể sử dụng các mối quan hệ tại Nhật để điều tra những ghi chép của phía Nhật Bản năm đó không?”

Sau khi vụ án của ông tôi nổ ra, Anegakoji Eitoku đã lấy ba cuốn sổ tay đi. Hiện giờ một cuốn đang ở Nhật, một cuốn trong tay tôi, còn cuốn thứ ba chẳng biết ở đâu. Nếu lần theo được manh mối này, chưa chừng lại thu được kết quả. Nghe tôi nói, Kido Kana cũng nhận lời sẽ gọi điện về Nhật kiểm tra.

Trao đổi xong xuôi, Kido Kana vén tóc ra sau tai, nhìn tôi vẻ khẩn cầu, “Anh Hứa, cho tôi đi cùng đến An Dương được không?” Tôi thoáng phân vân, rồi từ chối. Dược Bất Nhiên và Hoàng Yên Yên ấn tượng rất xấu với cô ta, bản thân tôi cũng chẳng biết cô ta thế nào mà lường, lần này đi An Dương chưa rõ sẽ xảy ra chuyện gì, nên hạn chế biến số là hơn.

Kido Kana lộ vẻ thất vọng, nhưng cũng không nài ép. Cô ta nói sẽ tranh thủ mấy ngày này tới khảo sát chợ đồ cổ Phan Gia Viên. Bấy giờ tôi mới nhớ ra hình như cô ta còn một bản luận văn bàn về định lượng hồ bọc. Ở Phan Gia Viên mười món thì đến chín là đồ giả, có lẽ cô ta chẳng thu được gì đâu.

Tôi sắp ra đến cửa thì Kido Kana gọi với theo, “Anh có biết ông nội tôi nhận xét về ông nội anh thế nào không?”

“Thế nào?” Tôi dừng chân ngoái lại.

“Ông ấy không bao giờ nhắc đến. Dù người trong giới học thuật ra sức gặng hỏi, ông ấy cũng không chịu hé răng nửa lời.”

Tôi hiểu ý, cúi gập người cảm ơn cô ta.

Nhìn bao quát sẽ thấy, tuy vụ án đầu Phật chấn động một thời, nhưng hầu như không có tình tiết nào được công bố, ông tôi bị xử bắn là do tự nhận tội, Phó Quý không moi được tin gì cả. Bài báo của Kido Yuzo cũng chỉ nhấn mạnh giá trị lịch sử của đầu tượng Phật chứ không hề nhắc tới quá trình tìm được. Nói cách khác, hai người liên quan mật thiết tới chuyện này đều sống để bụng chết mang theo, chẳng bao giờ nhắc đến khoảng thời gian trống năm 1931.

Một vụ án nổi tiếng như vậy lại chẳng hé lộ tình tiết nào mới là kỳ lạ. Khi nhắc tới, phần lớn mọi người đều tập trung vào đại nghĩa dân tộc như phê phán Hán gian và trộm cắp báu vật quốc gia, rất ít người chú ý tới điểm này. Sự bất thường ấy khiến tôi nhìn thấy một tia hy vọng.

Vừa rời khách sạn Bắc Kinh thì Dược Bất Nhiên gọi tới, báo rằng ông gã muốn gặp tôi.

Nhà họ Dược nằm ở phía Đông thành, là một khu nhà tách biệt mang hơi hướm phương Tây, ngói đen tường xanh, trang hoàng vô cùng tinh tế. Tôi vừa vào cửa đã thấy hai ông cháu Dược Bất Nhiên ra đón. Ông Dược Lai trông khá vui vẻ, tay trái chống gậy, tay phải lục cục mân mê hai quả óc chó bằng vàng tím, thoạt nghe đã biết không phải vật tầm thường.

Đợi mọi người yên vị, Dược Lai vào đề ngay, “Hôm ấy lúc ăn cơm cậu có thấy gì bất thường không?”

Tôi cười khan, tối hôm đó những điểm bất thường quá nhiều, kể sao cho xiết, đành lắc đầu xin ông ta chỉ rõ. Dược Lai hỏi, “Cậu không nhớ cục trưởng Lưu giới thiệu mình thế nào à?”

Ngẫm lại mới nhớ, cục trưởng Lưu đã nói “đây là cậu Nguyện, con trai Hứa Hòa Bình, truyền nhân duy nhất của Bạch môn.” Dược Lai nheo mắt, vẻ suy tư, “Hiểu ra chưa?”

Tôi thoắt vỡ lẽ. Đối với năm phái, thành viên cuối cùng mang họ Hứa là Hứa Nhất Thành. Cả đời ông Hứa Hòa Bình bố tôi không hề dính líu đến giới đồ cổ, cũng chẳng qua lại với họ. Họ đáng lẽ không thể biết đến mới phải. Vậy mà khi giới thiệu tôi, cục trưởng Lưu không nói là cháu nội Hứa Nhất Thành, lại nói là con trai Hứa Hòa Bình, thật đáng suy ngẫm.

Chứng tỏ bố tôi cũng đã tiếp xúc với Minh Nhãn Mai Hoa, hơn nữa quan hệ không phải bình thường. Nghĩ vậy, tôi thầm rúng động, lẽ nào người cha không tranh giành với đời của mình cũng có một bộ mặt khác mà tôi chưa biết?

Thấy tôi biến sắc, Dược Lai đắc ý, “Hôm nay tôi gọi cậu đến đây, là có chuyện muốn nói. Quan hệ giữa năm môn phái phức tạp hơn cậu tưởng tượng nhiều, nhà họ Hứa các cậu dù bị khai trừ, nhưng quan hệ xây đắp hàng trăm năm nay, cũng không phải nói cắt đứt là cắt được.”

Tôi không đáp, tự biết ông ta sẽ còn nói tiếp. Dược Lai ra hiệu cho Dược Bất Nhiên đóng cửa lại, thong thả nhấp ngụm trà rồi nói, “Nghe Bất Nhiên kể, cậu vẫn luôn khiếu nại kêu oan cho bố mẹ mình đúng không?”

Sau khi Tố đỉnh lục bị trộm, Dược Bất Nhiên cũng thấy chồng tài liệu dày cộp trong két bảo hiếm nhà tôi. Hẳn gã đã kể lại với ông mình.

Bố mẹ tôi đều là giảng viên đại học, bố tôi dạy chữ Hán cổ ở khoa Tiếng Trung, còn mẹ tôi là giảng viên khoa Kiến trúc. Trong ấn tượng của tôi, họ sống rất kín tiếng, ngoài sinh viên và giảng viên trong trường, gần như không có bạn bè gì khác. Dưới thời Cách mạng Văn hóa, họ bị quy là phần tử phản cách mạng, bởi đã ca ngợi lễ giáo phong kiến và giai cấp tư sản trên lớp. Trong thời đại điên loạn ấy, tội danh ngớ ngẩn nào cũng có cả. Cách dăm ba hôm họ lại bị lôi ra diễu phố đấu tố, nhà cũng bị lục soát không biết bao nhiêu lần.

Vài sinh viên họ từng giảng dạy còn hăng hái đấu tố thầy cô, khơi khơi nói đã tìm được chứng cớ quan trọng chứng minh họ phản đảng phản nhân dân. Sau cuộc đấu tố ấy, bố mẹ tôi không chịu nổi nhục nhã, đâm đầu xuống hồ Thái Bình tự tử. Về sau Cách mạng Văn hóa kết thúc, nhưng họ đến giờ vần chưa được minh oan, nên mấy năm nay tôi vẫn đôn đáo lo việc này.

Giờ nghĩ lại, bỗng cảm thấy thật mỉa mai. Tôi không chỉ phải đòi lại danh dự cho bố mẹ, mà còn phải lấy lại thanh danh cho ông nội. Nhà họ Hứa trọng nhất là danh dự, nhưng đời nào cũng có người bị lụy vì danh dự.

Nghe xong, cụ Dược nghiêm nghị nói, “Trong năm phái, có người luôn muốn đưa nhà họ Hứa trở về, nhưng cũng có người chỉ muốn dồn họ Hứa vào chỗ chết.” Tôi như rơi xuống hầm băng. Câu này của ông ta rõ ràng có ý, cái chết của bố mẹ tôi trong Cách mạng Văn hóa dường như không đơn giản là tự tử. Có một bàn tay đen sau màn đã lợi dụng tình hình khi đó để hãm hại nhà họ Hứa.

“Nhưng tại sao chứ?” Tôi đau đớn hỏi. Nhà họ Hứa đã rời giới đồ cổ, không thể uy hiếp gì đến Minh Nhãn Mai Hoa nữa mà.

Dược Lai cười nhạt, “Thất phu vô tội, có ngọc là tội. Dưới thời Cách mạng Văn hóa, rất nhiều nhà sưu tập đã bị lục soát nhà cửa, bao món đồ tốt bị hủy hoại, một số thì mất tích luôn.” Ông ta không nói rõ, nhưng tôi hiểu, có lẽ kẻ nào đó ngấp nghé đồ của nhà họ Hứa nên đã xúi giục “đội đấu tố” kéo tới soát nhà rồi thừa cơ thó luôn.

Nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất trong nhà tôi khiến bọn họ thèm muốn, cũng chỉ có cuốn Tố đỉnh lục kia thôi. Bố mẹ tôi đã cất nó trong kho sách thư viện trường đại học, chỉ để lại cho tôi số hiệu tra cứu, nên họ soát nhà mấy lần vẫn không tìm được.

“Là ai? Nhà họ Hoàng ư?” Tôi bất giác siết chặt nắm đấm, lòng đầy căm phẫn.

Dược Lai lắc đầu, “Tôi không rõ. Trong Cách mạng Văn hóa, Minh Nhãn Mai Hoa cũng bị tổn thất nghiêm trọng, các nhà đều co cụm lại, giữ thân còn chẳng xong. Thực ra tôi thấy nhà nào cũng đáng nghi cả.”

Tôi chợt liên tưởng đến lời răn “tứ hối” mà bố để lại, lẽ nào “tứ hối” ám chỉ mối quan hệ chồng chéo với Minh Nhãn Mai Hoa? Tôi gặng hỏi Dược Lai xem bố mình có quan hệ thế nào với Minh Nhãn Mai Hoa, ông ta đáp, “Hứa Hòa Bình tuy không quyết đoán như Hứa Nhất Thành nhưng cũng là người tử tế, biết tiến thoái. Anh ta ẩn cư đất kinh kỳ, luôn muốn cắt đứt quan hệ với Minh Nhãn Mai Hoa, tiếc rằng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Đáng tiếc, đáng tiếc…”

Tôi lặng đi, lòng rối như tơ vò. Dược Lai cười khà, nói thêm, “Hôm nay gọi cậu đến đây là muốn cho cậu biết, nhà họ Hứa vẫn luôn ở trong tầm mắt của Hội. Lần này đầu Phật ngọc được trả về, ắt sẽ động chạm đến vài người, họ đã hại nhà cậu một lần, thì ngại gì hại thêm lần nữa. Cậu coi chừng, chuyện gì cũng phải cẩn thận, đừng giẫm vào vết xe đổ của bố mẹ mình.”

Bàn tay đen ẩn mình trong Hội là ai, đến giờ chưa rõ. Nhưng có thể khẳng định, thế lực kẻ này không phải vừa, ngay giữa thời Cách mạng Văn hóa loạn lạc là thế cũng có thể đẩy chúng tôi vào cảnh tan nhà nát cửa. Giờ hắn vẫn ẩn trong bóng tối, bất cứ lúc nào cũng có thể xồ ra. Dược Lai nghĩ cho Huyền môn nên chỉ nói nửa chừng, tôi cũng không tiện gặng thêm.

“Cảm ơn ông.” Tôi thành thật cảm tạ. Lão Dược xua tay, “Năm phái liên kết, chẳng khác một nhà. Tôi không cứu được ông cậu, cũng không giúp được bố cậu, đến đời cậu tôi còn khoanh tay đứng nhìn thì mặt mũi nào gặp tổ tông nữa? Trước đây thằng cháu tôi có gì mạo phạm, tôi thay nó xin lỗi cậu.”

Tôi phì cười, “Chưa hẳn đâu ạ. Dược Bất Nhiên đến tìm cháu gây sự, chẳng phải vì ông gợi ý ư?”

Dược Lai muốn tìm hiểu về tôi, nhưng lại không tiện ra mặt, đành xúi Dược Bất Nhiên đi thăm dò thực lực. Những ngoắt ngoéo trong chuyện này cũng dễ đoán thôi.

Lão Dược cười ha hả, “Tay họ Lưu nói cậu thông minh nhanh nhẹn, quả nhiên là vậy. Thằng Nhiên nhà này tâm cao khí ngạo nhưng thẳng ruột ngựa, xúi mấy câu là hùng hổ đi ngay. Bất Nhiên à, về lão luyện trải đời, mày còn phải học cậu Nguyện nhiều lắm đấy.” Dược Bất Nhiên ngồi bên, mặt thoắt tái thoắt đỏ, lén giơ ngón giữa về phía tôi.

Rời nhà họ Dược, tôi quăng luôn di động cho gã, “Ông dùng đi, tôi về nhà ngủ đây, có gì thì gọi đến máy bàn.” Dược Bất Nhiên cười toét, “Chia ngọt sẻ bùi thế mới là anh em chứ.” Tay phải cầm di động, tay trái gã vỗ vai tôi, hạ giọng, “Đằng Yên Yên ông định…”

Theo lời Dược Lai, có lẽ nhà họ Hoàng là đáng ngờ nhất. Hoàng Khắc Vũ khăng khăng bắt Hoàng Yên Yên đi theo chúng tôi điều tra vụ việc, động cơ khá khả nghi. Thế nên Dược Bất Nhiên lo ngại nếu điều tra tiếp, có lẽ sẽ xảy ra những biến động khó lường, dù sao Hoàng Yên Yên cũng giỏi võ, đến Hà Nam tìm đại một vách núi bờ sông nào đó là có lý do giải thích cho sự biến mất của tôi và Dược Bất Nhiên hai thằng tổng cộng hơn trăm mười cân rồi.

“Yên tâm đi, tôi thấy khả năng đó không cao đâu.” Tôi phân tích, “Nếu nhà họ Hoàng là kẻ đứng sau chuyện này thì khi Tứ Hối Trai khai trương, họ đã ra tay rồi, đời nào để tôi sống đến giờ? Mấy hôm trước họ mới sai người đi ăn trộm, rồi trả lại nhanh như chảo chớp, chắc chỉ là tham lợi mờ mắt thôi…”

“Mong là thế.” Dược Bất Nhiên lầm bầm rồi vỗ ngực, “Yên tâm đi, nhà họ Dược chúng tôi sẽ dốc hết sức ủng hộ ông. Dù họ khoanh tay ngồi nhìn, Dược Bất Nhiên tôi cũng không phản bội ông đâu.”

“Tự dưng nói gì nghiêm túc thế, nghe ngứa cả ráy.” Tôi cười.

Dược Bất Nhiên tắt nụ cười, ngoái lại nhìn vách tường cao lừng lững, thở dài, “Tôi đây thực ra có thiết đếch gì đồ gốm, tôi thích học guitar chơi rock’n’roll, nào ngờ bị cả nhà phá thối. Trông đám truyền nhân bọn tôi ra ngoài vờ vịt nghiêm chỉnh, vênh vang thế thôi, thực ra toàn cứt cả - chỉ được cái mẽ. Nhà tôi quản con cháu nghiêm lắm, chỉ thua nhà tù Tần Thành là chưa có súng máy.”

Nói tới đó, gã đấm mạnh vào tường, như muốn trút hết bực bội trong lòng. Tiếc rằng bức tường vẫn sừng sững không sứt mẻ mảy may, trái lại nắm đấm của gã bị rách toạc.

Dược Bất Nhiên xoa xoa vết thương trên tay, giọng nặng nề, “Mấy lão già ấy chơi đồ cổ nhiều quá, đến nỗi cũng biến thành đồ cổ luôn rồi. Trong khi tôi đây là thanh niên bốn có, lý tưởng đâu thể gói gọn trong cái vòng phái phủng cổ hủ chán ngắt này. Nói câu thực lòng nhé, tôi rất ngưỡng mộ đứa tự do tự tại, muốn gì làm nấy như ông đấy.”

Tôi chẳng biết nói sao, đành vỗ vai gã, tỏ vẻ thấu hiểu.

Về Tứ Hối Trai, tôi thấy trong nhà tối om, cậu chạy vặt nhà họ Thẩm đã về, chỉ để lại sổ sách hôm nay. Tôi bật đèn, cúi xuống theo thói quen, chợt thấy dưới khe cửa nhét gì đó. Cúi người nhặt lên, không ngoài dự đoán, lại là một mảnh giấy báo. Bên lề viết nguệch ngoạc hai chữ bằng bút bi: “Gian trá”.

Trước khi tôi đến Thiên Tân, cũng đã nhặt được mảnh báo tương tự. Chủ nhân bí ẩn của nó dường như rất quan tâm đến tôi, cảnh báo một lần chưa được lại cảnh báo thêm lần nữa. Tôi mở rộng mảnh báo ra, thấy vẫn có một mẩu quảng cáo được khoanh tròn, bao gồm địa chỉ, giống hệt địa chỉ lần trước cung cấp.

Nếu là hai ngày trước, tôi chắc chắn không để tâm. Nhưng hôm nay nghe Dược Lai nói chuyện, tôi lại đâm nghĩ ngợi. Cứ ngỡ nhà họ Hứa không tranh với đời, nào ngờ cuộc đời ông tôi thì mịt mờ bí ẩn như sương phủ, đến đời bố tôi cũng chẳng kém, cứ như có tay phù thủy từ từ kéo tấm màn vẫn luôn bao phủ gia tộc tôi lên, để lộ ra đủ điều bí ẩn chôn giấu từ lâu. Giữa lúc thật giả khó phân thế này, lại có người liên tục nhắc nhở tôi rằng có điều gian trá, rốt cuộc là dụng ý gì, thật khó hiểu.

Lúc này tùy tiện tiếp xúc có lẽ không phải ý hay. Tôi quyết định tạm gác sang một bên, âm thầm ghi nhớ địa chỉ rồi châm lửa đốt mảnh báo, thổi bay tro đi.

Sáng sớm hôm sau, tôi và Dược Bất Nhiên, Hoàng Yên Yên hẹn nhau ở ga Bắc Kinh, đáp tàu đến An Dương.

Lúc tôi đến, Hoàng Yên Yên đã ở đó. Hôm nay cô nàng mặc quần bò, áo cánh dơi xám nhạt, vai khoác một chiếc túi da kiểu tiểu thư, rất hợp thời trang, khiến ai ai cũng phải liếc nhìn.

Tôi bèn lấy chiếc xuyến đồng ra bảo Hoàng Yên Yên, “Ông cô đền cho tôi thứ này, nhưng tiền tôi đã đòi được về rồi, chuyện với nhà họ Hoàng coi như xí xóa. Trả cô đấy.”

Hoàng Yên Yên sầm mặt, “Anh coi nó là gì đấy hả?” Đoạn gạt tay tôi ra, xách túi chui lên tàu trước. Tôi đứng trơ ra, bụng nghĩ lúc tôi lấy cô hầm hầm giờ tôi trả cô lại sưng sỉa, đúng là sáng nắng chiều mưa.

Hoàng Yên Yên đứng trên bậc thang lên tàu, ngoái lại, “Đồ của nhà họ Hoàng không tùy tiện tặng ai, cũng không tùy tiện đòi về. Khi nào đầu Phật được trả về, tự tôi sẽ lấy lại.”

Tôi thoáng ngạc nhiên, không phải vì cô ta không lấy lại xuyến ngay, mà bởi lần đầu tiên nghe cô ta nói một câu dài thế. Xem ra cô ta dần dà đã chịu nói chuyện với tôi, đây là tín hiệu tốt.

Ngoảnh lại bắt gặp Dược Bất Nhiên đang cầm di động của tôi đứng ngoài hành lang thủ thỉ nói chuyện với bạn gái. Mấy hôm nay tên này không ở Thiên Tân thì cung cúc theo cạnh ông nội, giờ lại sắp đi An Dương, hiển nhiên phải dỗ dành nàng. Tôi bước đến vỗ đầu gã, giục mau lên tàu, Dược Bất Nhiên miệng vẫn ngọt xớt, giơ hai ngón tay ra khua khua, ý bảo cho gã thêm hai phút nữa.

“Tôi đợi ông nhưng tàu không đợi đâu!” Tôi giật lấy di động, nhảy lên tàu. Dược Bất Nhiên đành đuổi theo sau, không quên ghé đầu vào ống nói hôn chụt một cái.

An Dương nằm ở phía Bắc Hà Nam, tiếp giáp với Hà Bắc, Sơn Tây, được coi là một trong tám kinh đô cổ của Trung Quốc. Với giới đồ cổ, đặc biệt là những kẻ chơi đồ kim thạch, nơi này có thể coi là thánh địa. Ở đây có gò Ấn lừng danh, nơi người ta tìm được một lượng lớn giáp cốt vân, cùng rất nhiều di chỉ cung điện cuối thời Thương và vô vàn đồ đồng điêu, ví như dinh vương Tư Mẫu Mậu nổi tiếng. Ngoài ra còn nhiều di tích và mộ cổ nằm rải rác khắp nơi, đủ khiến bất cứ nhà khảo cổ hay lái buôn đồ cổ nào phát điên lên.

Dĩ nhiên, An Dương còn một đặc điểm mà người trong nghề đều rõ: đây là nơi làm giả đồ đồng nổi tiếng toàn quốc. Truyền thống làm giả đồ đồng từ thời Xuân Thu kéo dài đến bây giờ, đã có lịch sử mấy ngàn năm. Trong những làng xóm quanh An Dương, có rất nhiều dòng tộc truyền đời mô phỏng, nắm giữ những công nghệ làm giả không thể tưởng tượng nổi, dù là chuyên gia lão luyện cũng bị lừa. Đáng sợ nhất là theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, tay nghề làm giả cũng ngày càng tinh vi.

Tôi từng nghe nói, đầu những năm tám mươi, người ta tìm ra một cách giám định đồ đồng mới. Thuở xưa khi đắp khuôn đất để đúc những đồ đồng tương đối phức tạp, người thời cổ sẽ cắm liên tiếp những miếng kim loại nhỏ vào trong khuôn để cố định. Khi đúc xong, khuôn đất bị gỡ ra, những miếng kim loại này có khả năng bị nấu chảy hòa lẫn vào đồ đồng, hoặc tạo thành những lỗ hổng li ti. Nếu chiếu tia X, sẽ thấy dấu vết của những miếng đệm, đây là một trong các tiêu chuẩn để phân biệt thật giả. Kết quả nghiên cứu này vừa công bố chưa được mấy năm, những món đồ đồng rởm trên thị trường cũng xuất hiện miếng đệm kim loại, không theo quy tắc nào cả, hệt như đồ thật…

Người tên Trịnh Quốc Cừ mà chuyến này chúng tôi đến tìm, nghe nói cũng là một thế gia làm giả đồ đồng. Những tư liệu này phần lớn do Hoàng Yên Yên cung cấp. Từ khi nhà họ Hứa bị khai trừ, nhà họ Hoàng đã nắm giữ ngành này, hiểu rõ thị trường đồ đồng và những tay làm giả trứ danh như lòng bàn tay.

Trịnh Quốc Cừ là cao thủ mô phỏng, đồ đồng do y chế tạo ít cũng có đến hai mươi mấy món rất khó giám định ra. Tính tình y lại hung hãn xảo quyệt, nghe nói đã hại chết mấy mạng người. Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa từng hợp tác với cảnh sát vài lần, song chẳng động được vào sợi tóc y. Nên lần này chúng tôi đi, có thể nói là dấn thân vào đất địch.

Xuống tàu ở An Dương, có người quen của nhà họ Hoàng tại đây đến đón. Chúng tôi tìm một quán trọ nghỉ lại, sắp xếp xong xuôi tôi mới gọi Hoàng Yên Yên và Dược Bất Nhiên cùng bàn xem tiếp theo nên làm thế nào.

Đơn giản nhất là để tôi ra mặt đi tìm Trịnh Quốc Cừ. Tôi và y không quen biết, sẽ không gây ra hiềm khích. Huống hồ tôi chỉ mượn xem gương, không phải mua, tin rằng nếu vung tay rộng rãi, y sẽ không từ chối.

Nhưng Hoàng Yên Yên lại phản đối. Cô ta nói Trịnh Quốc Cừ không giống người chơi đồ cổ bình thường, chẳng thiết tha gì với việc sưu tầm, giám định hay thưởng ngoạn cả, tiêu chí duy nhất để đánh giá đồ cổ là tiền. Nếu đến mượn xem chiếc gương, không chừng lại khiến y nổi lòng tham. Dẫu trả đủ tiền, y vẫn nghi ngờ, cho rằng tấm gương ẩn giấu bí mật gì đó. Lỡ như tin tức ông tôi để lại trong gương bị Trịnh Quốc Cừ phát hiện hoặc phá hoại, chẳng phải là hỏng bét.

Hoàng Yên Yên nói rất nghiêm trọng, đủ thấy Hội vô cùng kiêng dè tay Trịnh Quốc Cừ này.

“Thế ta phải làm sao?” Tôi hỏi.

Hoàng Yên Yên lấy trong túi ra một chiếc tước* bằng đồng, miệng rộng, đáy chạm váy cụp, chân trụ hình nấm, phần bụng chạm rồng quấn quanh, phía dưới con rồng là hoa văn uốn khúc hình sóng tôn lên đáy tước, ba chân như chân kiềng, mang đặc trưng đồ đồng thời Chu. Hàng loạt đặc điểm này hàm ý “rồng dựa vào vây để bơi dưới nước”.

Cốc uống rượu thời xưa. Mỗi khi ban thưởng cho ai đó hoàng đế sẽ ban rượu bằng tước hoặc tặng cho tước luôn, thành lệ sau này được hoàng đế cho thăng quan tiến chức thì được gọi là ban tước. Tước có miệng rót ở phía trước và đuôi cao ờ phía sau, chính giữa là phần lòng chứa nước, dưới có ba chân trụ, một bên tước là quai rót. (TG)

Tước đồng xanh lục vừa lấy ra, không khí xung quanh như cũng cổ kính thâm u hẳn.

“Biết tước Phụ Tân không?” Hoàng Yên Yên hỏi.

Tôi gật đầu. Đó là quốc bảo đào được vào tháng Mười hai năm 1976 ở thôn Phù Phong, Thiểm Tây, xếp hạng nhất trong số những tước đồng thời Thương Chu. Hoàng Yên Yên lắc lắc chiếc tước trong tay, “Đào ra cùng đợt đấy.”

Tôi hít vào một hơi. Đây có thể coi là văn vật hạng một, theo quy định sẽ bị đưa vào viện bảo tàng nhập sổ lưu giữ, dù là nhà họ Hoàng cũng không thể tùy tiện lấy ra được. Huống hồ dù lấy được ra, nó cũng có giá cực cao. Dùng tước đồng thời Chu đổi gương đồng thời Đường, chẳng khiến người ta nghi ngờ ư?

Nghĩ tới đây, tôi chợt vỡ lẽ, “Tôi không nghĩ vậy, đây chẳng qua là hàng nhái chất lượng cao thôi.” Hoàng Yên Yên đặt tước xuống, cười nhạt, “Cũng không đến nỗi ngu.”

Tôi cầm chiếc tước chạm rồng từ tay cô ta, lật đi lật lại ngắm nghía, càng nhìn càng kinh hãi. Tước này được mô phỏng khá tinh vi, cả hoa văn, chế tác, hồ bọc hay gỉ đồng đều hoàn hảo, trình tôi không sao nhìn ra được. Tôi ngước nhìn Hoàng Yên Yên, cô ta hiếu ý gật đầu, tôi mới cạo nhẹ mụn gỉ hơi gồ lên bên mép tước, nhưng không cạo được. Thông thường chỉ có gỉ đồng thiên nhiên kết tụ nghìn năm mới cứng được như vậy. Gỉ mới dùng thuốc thử hóa học tạo ra khá giòn, cạo nhẹ là rụng.

Tôi không cam lòng, bèn cầm lên săm soi tiếp. Đồ đồng thời Thương Chu đều đúc từ nhiều khuôn đất trong ngoài ghép lại, giữa khuôn và khuôn không thể khít chặt với nhau được, ắt sẽ có khe hở. Trong khi đúc, đồng nóng chảy sẽ len lỏi vào những khe này, tạo thành những đốm sần trên bề mặt. Những đốm sần này còn được gọi là dấu khuôn, rất khó thấy, dễ bị bỏ sót, nhưng trong mắt người sành sỏi, đây là một trong những tiêu chí để phân biệt thật giả. Có điều chăng mấy chốc tôi tiu nghỉu lần được dấu khuôn cụp vào trong bên sườn tước.

Thậm chí tôi còn định dùng kỹ thuật “treo tơ bắt mạch” để ước chừng trọng lượng tước, bởi đồ đồng thật sự trải qua nghìn năm hoen gỉ sẽ trở nên khá nhẹ, nhưng cuối cùng đành chịu thua. Tôi rầu rĩ trả tước lại cho Hoàng Yên Yên, “Tôi kiến thứ nông cạn, không nhận ra được.”

Trong giới đồ cổ có một quy tắc, “Nói mới không nói cũ.” Là ý gì? Nói món này là thật thì không giải thích cũng chẳng sao, nhưng nếu nói là giá thì buộc phải đưa ra lý do - bằng không chính là phá rối. Lần này tôi thua đứt đuôi nòng nọc, biết rõ thứ này là đồ rởm, song hoàn toàn không chứng minh được.

Đường đường con cháu Bạch môn chuyên về đồ đồng, vậy mà lại bị chiếc tước rỏm của Hoàng môn qua mặt. Đúng là chẳng biết chui xuống lỗ nào nữa. Tôi vỗ đùi nghiêm mặt, “Tước làm khéo lắm, nhưng phải nói ngay, xưa nay tôi có nguyên tắc, nếu cô định lấy đồ rởm đổi đồ thật thì tôi cương quyết phản đối.”

Hoàng Yên Yên cười nhạt, “Đạo đức giả!” Tôi nhíu mày, định tranh luận tiếp thì Dược Bất Nhiên đảo mắt rồi vỗ tay cười nói, “Có phải tiết mục mừng năm mới đâu, Yên Yên đừng đùa nữa, cô định đến đấu khẩu chứ gì?”

Hoàng Yên Yên không đáp, coi như mặc nhận. Tôi thầm thở phào nhẹ nhõm, nếu đấu khấu thì chỉ luận tay nghề, cầm đồ giả đi cũng chẳng sao, không tính là gạt người.

Hoàng Yên Yên cầm tước đồng giả này đi tìm Trịnh Quốc Cừ, rõ ràng là định tới gây sự. Tôi đoán cô ta vâng theo chỉ đạo từ gia tộc. Trịnh Quốc Cừ là chuyên gia làm giả đồ đồng, e rằng nhà họ Hoàng trước đây cũng từng bị qua mặt, nên định thừa cơ tính sổ luôn.

Có điều Trịnh Quốc Cừ phần lớn thời gian đều rúc trong thôn, hiếm khi công khai lộ diện, may mà còn mở một cửa hàng ở An Dương. Hoàng Yên Yên định cầm tước đồng đến chặn cửa đấu khẩu liền mấy ngày, đấu đến khi người trong cửa hàng không chịu nổi nữa, ắt Trịnh Quốc Cừ sẽ tự động ra mặt. Kẻ này vô cùng tự tin về tay nghề bản thân, đến lúc đó ép y dùng gương đồng đặt cược là giành được.

Dược Bất Nhiên đập bàn khen hay. Gã hay hóng hớt, chỉ sợ thiên hạ không loạn nên rất ưa đấu khẩu. Trái lại, tôi chưa vội tỏ thái độ.

Nói thực, Hoàng Yên Yên làm như thế, tôi không hài lòng cho lắm. Trong cuộc điều tra này, tôi mới là người chủ đạo. Vậy mà hiện giờ cô ta chẳng buồn thương lượng đã ném ra một cái tước đồng, còn định tranh thủ tính sổ thay Hoàng môn, tiền trảm hậu tấu giành quyền dẫn dắt. Lại một lần nữa tôi được nếm tác phong làm việc lấn lướt của nhà họ Hoàng.

Có điều kế hoạch này khá kín kẽ, nếu khăng khăng phủ quyết cũng đáng tiếc. Trước cục diện lớn, ân oán cá nhân đành tạm gác sang bên. Tôi hỏi Hoàng Yên Yên, “Phải cẩn thận đấy. Cô có chắc Trịnh Quốc Cừ sẽ không nhìn ra sơ hở của cái tước không?” Cô ta ngang ngược đáp, “Không đời nào.” Tôi lại hỏi, “Nếu y không chịu đem gương đồng ra đặt cược, hoặc không chịu đấu khẩu với cô thì sao?” Hoàng Yên Yên lạnh lùng cười, “Thì đừng làm ăn nữa.”

Cô ả đã nói vậy, tôi không tiện gặng tiếp, đành dặn, “Việc này rất mạo hiểm, khó mà nắm chắc, phải cẩn thận đấy.” Về phần cô ta có lọt tai không thì không rõ.

Đêm đến, tôi nằm một mình trên giường, trăn trở không sao ngủ nổi. Gần đây xảy ra quá nhiều chuyện: chuyện của ông, của bố, của chính tôi, chuyện đầu Phật, muôn mối tơ vò hóa thành cả bầy ruồi vo ve trong đầu, xua không hết đuổi chẳng đi. Buồn bực trong lòng, tôi trở dậy khoác áo đi lòng vòng trong phòng, toan tìm chuyện gì đó để phân tán chú ý, nào ngờ lại nghĩ tới một việc…

Sáng hôm sau, ba chúng tôi đi thẳng tới chợ đồ cổ An Dương nằm ở rừng Viên. Rừng Viên là nơi đặt mộ Viên Thế Khải, ông ta chết ở Bắc Bình nhưng được đưa về chôn tại An Dương. Tuy sinh thời ông ta cũng chẳng ra gì, song lúc chết đi vẫn để lại một cánh rừng. Đám buôn đồ cổ quanh An Dương đều tụ tập trong khoảng từ thần đạo tới chiếu bích ở cổng rừng Viên, thôi thì đủ cả hàng rong lẫn cửa tiệm, tấp nập chẳng kém Phan Gia Viên.

Theo tin mật báo, cửa hiệu của Trịnh Quốc Cừ tên Đồ cổ Hoàn Triều, lấy chữ Hoàn trong Hoàn Hà, chữ Triều từ Triều Ca. Đồ đạc trong tiệm cũng lộn xộn, từ mặt nạ đồng đến lọ thuốc hít Dân Quốc, từ đồ tám dao* thời Hán đến sổ gạo, hầm bà lằng cái gì cũng có. Người ra kẻ vào nhộn nhịp, có vẻ đắt khách.

Tám dao là một kỹ thuật chạm khắc ngọc đặc sắc của Trung Quốc có từ thời Tần Hán, đặc điểm là từng nét khắc đều thẳng, phẳng và dứt khoát, như dùng dao chém, nên gọi là “tám dao”, cũng có nghĩa là chỉ cần mấy nhát dao chạm trổ đã có thể khiến tác phẩm trở nên đẹp đẽ tinh xảo. Tác phẩm tiêu biểu là ve ngọc tám dao thời Hán.

Hoàng Yên Yên bỏ nhỏ với chúng tôi rằng cửa tiệm này chỉ để che mắt người đời, việc buôn bán thực sự ở tít phía sau, phải có người quen giới thiệu mới vào được. Nhà họ Trịnh không khơi khơi bày bán đồ đồng tại đây mà sau khi thương lượng xong xuôi mới dẫn vào làng xem hàng, chọn hàng xong lại đưa ra theo đường khác. Trịnh Quốc Cừ khôn ranh ở chỗ, không bao giờ nói mình bán hàng thật, chỉ bán hàng mỹ nghệ phóng cổ, còn về phần khách mua xong cầm đi lừa gạt người khác thế nào thì không liên quan đến y. Bởi thế tuy Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa và cảnh sát biết rõ y làm hàng giả, nhưng cũng chẳng làm gì được.

Ba chúng tôi bước vào tiệm, đi thẳng vào trong. Tức thì một người đàn ông mặc bộ Tôn Trung Sơn vội giơ tay ngăn lại, “Xin hỏi ba vị muốn xem hàng gì ạ?”

Dược Bất Nhiên cao giọng nói ngay, “Bọn này có hàng, định hỏi xem các người mua hay không?” Dứt lời, gã trỏ Hoàng Yên Yên, cô nàng liền giơ ngón áp út chạm ba cái vào đầu con tỳ hưu ngọc. Gã trung niên nọ thấy thế mới nhếch mép cười hỏi, “Không biết là loại hàng gì?” Dược Bất Nhiên trỏ bảng hiệu, “Đã đến Hoàn Triều, dĩ nhiên là muốn bán đồ xanh.”

Chợ đồ cổ mỗi nơi nói một kiểu tiếng lóng khác nhau, An Dương gọi đổ đồng là đồ xanh, ý chỉ lớp gỉ đồng xanh nghìn năm. Vừa nghe nói đến đồ xanh, khuôn mặt tên kia thoáng đắc ý, “Quý khách có mang theo không ạ?”

Dược Bất Nhiên l