
Kỳ Án Đầu Phật
Tổng số chương: 11
Hôm xảy ra chuyện, đúng vào sinh nhật lần thứ ba mươi của tôi.
Thuở nhỏ thầy bói nói tôi mang mệnh “đường núi đứt ngang”. Nghĩa là gì? Chính là nửa đầu đời tôi như một con đường mòn trong núi, khúc khuỷu quanh co, gập ghềnh trắc trở, đi đến giữa chừng thì “rắc” một tiếng, con đường trước mặt bị chặt đứt, thế là toi. Nếu tiếp tục đi, số mệnh sẽ thay đổi hoàn toàn - còn sự thay đổi này rốt cuộc là họa hay phúc, lành hay dữ, thầy bói không nói, tôi cũng chẳng gạn hỏi. Tóm lại ông ta dặn tôi đến năm ba mươi tuổi nhất định phải cẩn thận, có chuyện đấy.
Tôi có nằm mơ cũng không ngờ ông ta phán chuẩn như vậy.
À phải, trước hết tự giới thiệu đã nhỉ. Tôi tên Hứa Nguyện, năm nay vừa tròn ba mươi, là một con kiến trong kẽ gạch dưới chân tường hoàng thành, làm nghề buôn đồ cổ.
Từ sau giải phóng, nghề này đã mai một hơn ba chục năm, mãi đến cải cách mở cửa, thị trường văn vật và đồ sưu tầm mới dần nhộn nhịp. Kẻ mua người bán nín thở ẩn mình suốt giai đoạn đả phá Tứ Cựu, giờ lại nhao nhao lên như cóc nhái tháng Ba, đạp chân gạt bùn đất ra, loi nhoi ngóc dậy. Nhờ ngón nghề gia truyền, tôi mở một cửa tiệm nhỏ xíu buôn vàng ngọc đá quý tại khu Lưu Ly Xưởng bé bằng bàn tay, đặt tên Tứ Hối Trai.
Thỉnh thoảng lại có người trỏ bảng hiệu hỏi tứ hối gồm những gì, tôi bèn trả lời, là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời bố tôi trối lại trước khi tự sát trong Cách mạng Văn hóa, bố và mẹ tôi bị đấu tố vì vấn đề lịch sử để lại, nhất thời nghĩ quẩn, nối gót Lão Xá đâm đầu xuống hồ Thái Bình.
Sinh nhật tuổi ba mươi của tôi đại khái cũng tưng bừng, kiếm chác cũng khá, tổng cộng đẩy đi được một chuỗi mặt ngọc thiềm thừ và một con ấn sừng trâu cuối đời Thanh, đều bán cho khách Quảng Đông, kiếm đủ tiền ăn uống điện nước lẫn tiền nhà, đây là chuyện đáng mừng với một cửa tiệm nhỏ giật gấu vá vai như tiệm tôi.
Thấy trời đã chạng vạng, đoán chừng chẳng còn khách khứa nào, tôi quyết định đóng cửa sớm, đến Nguyệt Thịnh Trai ăn một bữa, coi như tự khao. Sau khi thu dọn qua loa, tôi đang định khóa cửa thì chợt nghe thấy tiếng động lạ bên ngoài.
Thoạt đầu cứ ngỡ là chủ nhà đến thúc tiền, hơn ba tháng nay tôi khất lần suốt. Nhưng ngay sau đó, tôi đã nhận ra không phải.
Âm thanh này thấp trầm mà xào xạc như tằm ăn rỗi, thong thả từ xa trườn đến gần như cọp rình mồi. Kính tủ quầy rung lên, mấy pho tượng Phật ngọc, tượng tỳ hưu bày bên trong khe khẽ run rẩy như gặp khắc tinh, lần lượt trượt khỏi vị trí ban đầu, bụi bặm bốn bề bắt đầu bốc lên. Tôi vội ấn ngón cái lên mặt kính để nó ngừng rung kẻo mấy pho tượng rơi vỡ, thầm chột dạ. Đức Phật rời chỗ, ắt là điềm xui xẻo. Bên ngoài tối như bưng, chẳng biết tiếng động phát ra từ đâu.
Không bao lâu sau, âm thanh nọ tắt lịm. Tôi định thò đầu ra xem thì cửa tiệm bị đẩy mở kêu két một tiếng, hai người bước vào.
Tôi nhận ra một người là Tiểu Tưởng, công an khu vực ở đây. Kẻ đứng cạnh anh ta chừng ngoại tứ tuần, mặc cảnh phục, mặt quắt đen sì, đi nhẹ như mèo.
Vừa thấy y, mắt tôi liền nheo lại. Tuy không dám xưng là có mắt nhìn người, nhưng dù sao tôi cũng biết quan sát. Phong thái con người cũng như hồ bọc* ở đồ cổ, không thể giải thích, song chỉ nhác trông là cảm nhận được. Người này thâm trầm kín đáo, không phải loại công an khu vực miệng còn hôi sữa như Tiểu Tưởng, cũng chẳng giống mấy tay hình sự lão luyện mắt sắc như dao, khí độ của y không giống như đám công an cảnh sát thường, từ đầu đến chân toát lên vẻ bí ẩn khó dò.
Thuật ngữ trong giới đồ cổ. Chỉ lớp oxy hóa hình thành trên bề mặt văn vật sau thời gian dài có độ óng tự nhiên, không chỉ đồ gốm, sứ, gỗ, ngọc, đồng, ngà, mà cả thư họa, đồ mây tre tơ lụa cũng có lớp này.
Tiểu Tưởng lên tiếng trước, “Anh Nguyện, có người tìm anh.” Tôi chưa kịp đáp, người kia đã chìa tay ra, “Đồng chí Hứa Nguyện phải không? Tôi tên Phương Chấn, đồng nghiệp của Tiểu Tưởng, chào anh.”
Tôi chần chừ bắt tay y rồi cười hỏi, “Anh từng ở trong quân đội ít nhất mười năm phải không?”
“Hở?” Phương Chấn nhướng mày.
“Vừa xong bắt tay, anh có chai ở hổ khẩu và mặt trong bốn ngón, đây là vết tích cầm tiểu liên chứ không phải súng ngắn. Độ dài mỗi bước của anh cũng đều tăm tắp, tôi không nghĩ ra còn ngành nghề nào khác rèn luyện được tác phong như vậy.”
Người trong giới đồ cổ đều tinh mắt, đây là tố chất cơ bản. Tiệm tôi vốn mỏng tiền còm, mắt mờ một lần thì chỉ có nước sạt nghiệp, nên càng phải chú trọng kỹ năng này.
Phương Chấn dường như cũng nhận ra tôi định giành quyền chủ động, nhưng chỉ cười trừ chắp tay sau lưng đi lại trong tiệm, ngắm nghía hàng hóa. Tôi bèn tranh thủ kéo Tiểu Tưởng lại hỏi, “Ai thế? Bưng một ông cảnh sát đến đây làm gì, định cho tôi ăn cám à?” Tiểu Tưởng gãi đầu, “Anh đừng hỏi em, đây là nhiệm vụ cấp trên giao xuống, em chỉ biết dẫn ông ấy đến đây thôi.”
Đang định gặng tiếp thì Phương Chấn đã vòng lại hỏi, “Cho tôi xem thẻ căn cước của anh được không? Không phải nghi ngờ gì anh đâu, làm theo quy định thôi.”
Tôi móc căn cước ra, Phương Chấn cầm lấy xem kỹ rồi trả lại, còn lịch sự gật nhẹ đầu. Tôi thẳng thừng yêu cầu, “Vậy anh cũng cho tôi xem thẻ ngành đi - không phải nghi ngờ gì anh đâu, chẳng qua tôi mắc bệnh đa nghi thôi.”
Phương Chấn thoáng ngẩn người, rút ra một cuốn sổ bìa nhựa xanh, bên trên có mấy chữ thếp vàng “Thẻ công tác”. Tôi lật xem, thấy viết đơn vị công tác là Cục 8 Bộ Công an, nhưng không có chức vụ cụ thể.
Tôi bỗng chột dạ. Nghe con cháu một vị cốp kể, Bộ Công an có hai cục bí hiểm nhất, một là Cục 9, do bộ quản lý nhưng lại trực thuộc Tổng cục tham mưu, phụ trách an toàn cho thường ủy Bộ Chính trị, còn gọi là Cục Cảnh vệ Trung ương; hai là Cục 8 của gã Phương Chấn này, phụ trách bảo vệ cho lãnh đạo nhà nước, quan khách cấp cao nước ngoài và một vài yếu nhân.
Sánh ngang với Cục Cảnh vệ Trung ương, đủ thấy thế lực Cục 8 mạnh nhường nào. Nếu là mấy trăm năm trước thì đó chính là ngự tiền tứ phẩm đới đao thị vệ gộp với cẩm y vệ chứ lại chẳng!
Tôi trả lại thẻ ngành cho Phương Chấn, đổi sang bản mặt toe toét, “Đồng chí Phương Chấn muốn mua hay muốn bán?” Y đáp, “Mời anh đi với tôi, có người muốn gặp anh.”
Tôi ngẩn ra, “Ai vậy? Phải gặp ngay tối nay à?”
“Nhất định phải là tối nay, đây là mệnh lệnh của cấp trên.” Giọng điệu Phương Chấn lịch sự mà cứng rắn.
Tôi nhíu mày, cảm thấy việc này rất lạ, không thể không cẩn thận. Tuy cửa tiệm nhỏ này chẳng có gì quý giá, nhưng tôi vẫn phải thận trọng.
“Anh phải cho tôi biết là cấp trên nào ra lệnh đã chứ?”
Phương Chấn trỏ lên trời, “Tóm lại là cấp cao, tôi không thể tiết lộ, đây là quy định.”
“Muốn gặp tôi làm gì?”
“Không thể tiết lộ.”
“…”
Nếu không có Tiểu Tưởng liên tục đánh mắt ra hiệu, cộng thêm tấm thẻ Cục 8 kia, tôi thật muốn hỏi y học đâu ra cái kiểu ăn nói ấy.
Phương Chấn giơ tay nhìn đồng hồ rồi bước ra cửa làm động tác mời. Sức ép từ Cục 8 quá lớn, dân đen như tôi thực chẳng còn đường nào khác, đành cắn răng đi theo.
“Tôi phải khóa cửa đã, sợ kẻ trộm.” Tôi lầm bầm rút chìa ra khóa cửa, kiểm tra một lượt thiết bị chống trộm rồi mới chịu đi. Vừa ra khỏi cửa đã thấy đập ngay vào mắt một con xe Hồng Kỳ* CA771 đen tuyền, có lẽ đây là nguyên nhân gây ra cơn rung chấn khi nãy. Tiệm tôi không nằm ngoài mặt phố Lưu Ly Xưởng mà chui vào một con hẻm xiên xiên, đường bê tông đang tu sửa nên bề mặt toàn cát là cát. Tiếng sàn sạt ban nãy chính là do bánh xe ma sát với nền cát mà ra.
Nhãn hiệu xe cao cấp của Trung Quốc, thường được dùng trong nghi thức duyệt binh. (Từ đây về sau những chú thích có ghi TG là của tác giả, còn lại đều là của người dịch.)
Tôi không ngờ Phương Chấn lại nghênh ngang lái hẳn xe Hồng Kỳ vào hẻm đỗ trước tiệm mình. Bấy giờ tuy loại xe này đã ngừng sản xuất nhưng vẫn mang tính biểu tượng, cả Bắc Kinh chẳng mấy người có dịp ngồi. Thực chẳng rõ y tiết kiệm giùm tôi mấy bước chân hay cố ý gây áp lực cho tôi nữa.
Con xe Hồng Kỳ này hơi cũ nhưng được lau rửa bóng loáng, trong bóng tối nhập nhèm trông như một con thú đá uy nghi sừng sững. Phương Chấn mở cửa sau, mời tôi lên trước. Tôi để ý thấy y tay phải kéo cửa, tay trái nắm cạnh trên cửa xe, đề phòng tôi va đầu.
Đây tuyệt đối là một tay chuyên tiếp đãi khách nước ngoài!
Lính phục viên, chuyên viên tiếp đón, nhân viên Cục 8! Thân phận ba lớp của y khiến tôi đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Bản thân chỉ là dân đen thấp cổ bé họng, nào dám cứng đầu với thần tiên, cung cúc mà theo thôi.
Ghế sau xe Hồng Kỳ rộng bất ngờ, lại êm. Tôi còn duỗi được cả chân. Phương Chấn cũng lên xe, chu đáo kéo rèm nhung tím che hai bên cửa sổ lại rồi vỗ vai tài xế.
Tài xế chẳng nói chẳng rằng, thành thạo nổ máy, xoay vô lăng chạy thẳng khỏi hẻm, Phương Chấn dựng tấm gỗ ngăn giữa hai hàng ghế lên rồi quay sang cười bảo tôi, “Xin lỗi nhé, quy định nó thế.”
Hay lắm, giờ thì còn thấy được khỉ gì nữa. Tôi chợt nhớ hồi nhỏ đọc truyện liên hoàn họa, thổ phỉ bắt trinh sát quân giải phóng đưa về sào huyệt, cũng bịt mắt dẫn đi thế này.
Phương Chấn ngồi thẳng người, lưng dựa hờ vào ghế, hai tay đặt trên đầu gối nhắm mắt dưỡng thần, rõ ràng là người đã được huấn luyện đặc biệt. Mấy lần tôi toan lân la hỏi dò đích đến, nhưng thấy y như vậy đành nuốt lại lời định nói, nhắm mắt dưỡng thần theo.
Xe chạy khoảng hai mươi phút cuối cùng cũng đỗ lại. Phương Chấn mở bừng mắt ra.
“Đến rồi.”
“Bát Đại Xứ à?” Tôi hờ hững buông gọn lỏn một câu. Phương Chấn thoáng ngạc nhiên, nhưng lập tức lấy lại vẻ điềm tĩnh, nhìn tôi đầy thâm ý rồi hạ tấm gỗ chắn và kéo rèm hai bên, ra hiệu cho tôi ngồi lại, còn y xuống xe.
Lúc này trời đã tối, nhưng đèn đường sáng trưng như ban ngày. Tôi nhìn quanh, phát hiện xe đang đỗ giữa một con đường nhỏ vắng vẻ. Hai bên đường là bạch dương xanh um, xung quanh không có cao ốc. Cuối đường là một khu nhà tường bao cao ngất, không đánh số nhưng có hai cảnh vệ ôm súng đứng canh, cánh cổng màu lục nhạt đóng im ỉm.
Phương Chấn xuống xe, đi thẳng về phía hai cảnh vệ. Đôi bên trao đổi mấy câu, Phương Chấn bèn giơ tay ra hiệu về phía này. Tài xế khởi động máy, đánh xe đến trước cửa, cảnh vệ ngó qua cửa sổ xe nhìn tôi vẻ cảnh giác, nói vài câu với Phương Chấn, y trỏ tôi gật gật đầu. Tiếc rằng trong xe cách âm nên tôi không nghe rõ họ nói gì.
Nghe đồn thời Cách mạng Văn hóa, có những tướng tá cán bộ lớp trước nửa đêm canh ba bị ô tô đưa đến một nơi chẳng biết là đâu, với nhân viên điều tra đợi sẵn, rồi buộc phải khai nhận tội trạng trong quá khứ mà không hề được chuẩn bị tâm lý.
Tôi nhắm nghiền mắt hồi tưởng lại việc buôn bán trước đây xem có vụ làm ăn nào động chạm đến luật pháp hay có mắt như mù chọc phải ông cốp nào cải trang vi hành hay không. Đang đoán mò thì cánh cổng trước mặt đã lẳng lặng mở ra để cỗ xe rì rì chạy vào. Tôi chợt nhận ra Phương Chấn không hề quay lại xe mà đứng ngoài vạch vàng dưới chân cảnh vệ, khum tay châm thuốc đưa mắt nhìn theo.
Xem ra nơi này đến Phương Chấn cũng không đủ tư cách bước vào. Tôi thầm rúng động, tự biết vụ việc đã vượt xa tưởng tượng của mình.
Xe chạy thêm mấy phút rồi dừng lại. Một người đàn ông dáng dấp như thư ký đứng đợi sẵn, chẳng nói chẳng rằng, chỉ ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi ngoan ngoãn theo ông ta bước vào một ngôi nhà nguy nga theo lối Giang Tô, quét sơn xám nhạt, hành lang bên trong rộng rãi mà âm u, trên đầu lủng lẳng chụp đèn xanh lục, dưới chân là tấm thảm dày cộp đến nỗi có ném pháo cát* cũng chẳng nghe tiếng nổ.
Pháo cát là một loại pháo nổ an toàn dùng trong ngày lễ tết, có thể giẫm, bóp, ném cho phát nổ. Thành phần có đến 99% là cát.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến trước một phòng họp. Viên thư ký gõ rồi mở cửa mời tôi vào.
Vừa bước vào phòng, đập ngay vào mắt tôi là hai quả ấn vàng rực, to bằng lòng bàn tay, màu sắc loang lổ, núm chạm gấu bay, rất thú vị. Lạ một điều là, tạo hình cả hai giống hệt nhau, không khác mảy may, ít nhất theo tôi nhìn qua là vậy, cứ như đúc từ một khuôn. Chúng được nâng niu đặt trong lồng kính, bên dưới lót gấm đỏ thẫm. Mười mấy người xúm xít quanh lồng, đa phần đều già cả tóc bạc phơ, thỉnh thoảng lại rì rầm trao đổi.
Tôi đang ngớ người thì một người mặc bộ đại cán đã đứng dậy khỏi xô pha tiến lại, sau lưng là cảnh vệ theo sát không rời nửa bước.
“Cậu là Hứa Nguyện?” Ông ta thân mật hỏi.
“Vâng.”
Ông ta nheo mắt quan sát, “Trẻ quá nhỉ! Năm nay bao tuổi rồi?” Tôi lễ phép đáp, “Vừa tròn ba mươi ạ.” Ông cốp cười bảo, “Thua tôi đúng ba giáp, cứ gọi tôi là cục trưởng Lưu.” Thấy tôi có phần rụt rè, ông ta vỗ vai động viên, “Đừng căng thẳng, hôm nay mời cậu tới đây là muốn nhờ giúp một việc thôi.”
Lãnh đạo cấp cao thế này nhờ một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi giúp cái gì cơ chứ?
Chẳng đợi tôi kịp lên tiếng, ông ta đã kéo tôi tới bên bàn, trỏ hai quả ấn hỏi: “Nhận ra gì đây không?”
Hóa ra khua chiêng gõ trống rầm rộ như thế chỉ là muốn nhờ tôi giám định cổ vật. Tôi hơi vững dạ, nói gì thì nói đây cũng là sở trường của thằng này. Nhà tôi có một cuốn sách gia truyền viết về cổ vật, gọi là Tố đỉnh lục, kiến thức bên trong đủ để tôi kiếm ăn cả đời và cũng là vốn để tôi mở ra Tứ Hối Trai.
Tôi xem xét một lượt, lòng đã chắc mẩm, nhưng thấy xung quanh toàn chuyên gia lão luyện thì lại hơi do dự. Việc giám định có lúc không xem cổ vật mà xem người, các vị có uy tín còn chưa lên tiếng, tự dưng tôi bô bô nhảy ra phán thật phán giả, chẳng hóa vô lễ ư.
Thấy tôi do dự, cục trưởng Lưu phẩy tay, “Không sao đâu, cứ mạnh dạn nói đi.”
“Theo tôi cái ấn này có lẽ là từ thời Hán.” Tôi lựa lời phát biểu.
“Để tôi cho cậu biết. Hai chiếc ấn này một thật một giả, một chiều là hàng nhái chỉ mới xuất hiện trên thị trường dạo gần đây, nhưng làm quá giống nên rất khó phân biệt. Chúng tôi nghi ngờ có một tập đoàn chuyên làm giả cổ vật đang hoạt động sôi nổi trên thị trường, nếu cậu giám định được thật giả là giúp cho đất nước một việc lớn đấy.”
Cục trưởng Lưu nhìn tôi đầy ngụ ý, đoạn đưa đôi găng cao su bảo tôi đeo vào, còn dúi cho một chiếc kính lúp mới toanh.
Người xung quanh nghe chúng tôi trao đổi thì thi nhau nhìn sang. Thấy cục trưởng Lưu để tôi cầm ấn vàng lên, ai nấy đều tỏ vẻ ngạc nhiên và khó hiểu. Một ông già đeo kính đồi mồi lên tiếng, “Cục trưởng Lưu, đây là văn vật đấy, ông gọi tới một cậu chàng mới ra ràng thế này chẳng phải coi việc lớn quốc gia như trò đùa sao?”
Cục trưởng Lưu bình thản xua tay, “Tài không đợi tuổi. Phải biết lắng nghe từ nhiều phía mới huy động được trí tuệ tập thể chứ, huống hồ cũng có ích cho việc giám định tại chỗ hiện giờ mà.”
Gạt bỏ những ý nghĩ ngổn ngang khỏi đầu, tôi hít sâu một hơi, bưng cả hai chiếc ấn lên, nhìn bằng mắt rồi mới giơ kính lúp quan sát thật kỹ.
Làm giả và giám định là chủ đề muôn đời trong giới chơi đồ cổ. Bấy lâu lăn lộn ở Lưu Ly Xưởng, tôi ý thức rõ giám định cổ vật cũng như tấn công một tòa thành, người bên ngoài dốc sức tìm sơ hở để đánh vào còn người bên trong lại liều mạng che giấu sơ hở, đôi bên đấu trí đấu dũng, đều cần đến lòng nhẫn nại, óc quan sát và cơ duyên xuất chúng mới được.
Hai chiếc ấn này là tòa thành lớn do một tay chuyên làm giả nào đó dựng nên. Đã có biết bao lão tướng gãy giáo tại đây, giờ đến lượt gã anh nuôi như tôi lao lên làm tiên phong.
Chiếc núm chạm hình gấu bay được làm vô cùng tinh xảo, mình gấu cong lên, bốn chân án ngữ bốn góc ấn, hai bên sườn mọc ra hai chiếc cánh, áp sát vào thân, vừa tỏ rõ tư thế bay liệng, lại không ảnh hưởng tới việc sử dụng hay đem theo bên mình. Tôi lật ấn lên, thấy bên dưới khắc bốn chữ “Phi Húc chi ấn”, “Phi Húc” khắc nổi, “chi ấn” khắc chìm, theo lối Mậu triện, nét chữ ngay ngắn cổ xưa, vô cùng cân đối.
“Quy cách, hoa văn, dấu đục, chất liệu, thậm chí đất cát bám trên đó, chúng tôi đều kiểm tra rồi, không phát hiện điểm nào bất thường cả.” Một cụ chuyên gia cấm cảu nhắc, hẳn không tin tôi còn có thể phát hiện được gì mới.
Cục trưởng Lưu giơ hai ngón tay, viên cảnh vệ nhanh nhẹn đưa tới một điếu thuốc lá Panda hàng thửa, châm lửa cho ông ta. Chẳng mấy chốc gương mặt ông già đã chìm trong màn khói, thoắt ẩn thoắt hiện, “Hứa Nguyện, cậu có giám định được không?”
Câu trả lời của tôi nằm ngoài dự đoán của tất cả mọi người, “Được.”
Rồi trước ánh mắt kinh ngạc của đám người xung quanh, tôi đưa ra một yêu cầu, “Cho tôi xin hai sợi dây, khoảng ba mươi centime thôi, không cần dài, nhưng phải bằng nhau.”
Cục trưởng Lưu nghi hoặc hỏi, “Được không đấy, cậu muốn thiết bị tinh vi gì tôi cũng điều tới được.”
“Không cần đâu, dây gai là đủ rồi.”
Cục trưởng Lưu không hiểu lắm nhưng vẫn quay sang dặn dò cảnh vệ, chẳng bao lâu anh ta đưa tới hai sợi dây gai màu đen.
Tôi lần lượt buộc dây vào chóp mũi hai con gấu bay trên ấn vàng, hai đầu dây còn lại móc vào ngón tay, đoạn tôi giơ cao hai chiếc ấn rồi thình lình buông tay. Một chuyên gia hét lên “ôi chao”, hớt hải chạy tới toan đỡ lấy. Song hai quả ấn buộc dây gai chỉ lủng lẳng giữa không trung, xoay xoay mấy vòng rồi dừng lại.
“Cậu điên à? Đây là văn vật loại một đấy!” Chuyên gia nọ mắng. Cục trưởng Lưu cũng nhíu mày. Hẳn họ thấy hành động của tôi chỉ như đang diễn trò chứ chẳng có ý nghĩa gì cả.
“Giờ các vị thấy rõ rồi chứ?” Tôi túm hai đầu dây gai, để hai chiếc ấn lơ lửng cho họ quan sát.
Nghe tôi nhắc, họ mới nhận ra hai chiếc ấn khi treo lên có độ nghiêng khác nhau. Chiếc bên trái hơi đổ về phía trước, còn chiếc bên phải vẫn ngay ngắn không nghiêng. Khác biệt này rất nhỏ, không nhìn kỹ thì rất dễ bỏ sót.
“Chiếc bên phải là hàng nhái, bên trái là hàng thật.” Tôi kết luận.
Trong phòng im phàng phắc, không một ai tin lời tôi. Có người vặn, “Cậu căn cứ vào đâu?” Tôi nhún vai, “Cục trưởng Lưu chỉ bảo tôi phân biệt thôi, còn đúng hay sai, ông là chuyên gia hẳn phải biết chứ.”
Đám chuyên gia sầm mặt, có lẽ cảm thấy tôi quá huênh hoang. Cũng phải thừa nhận rằng tôi cố ý, bởi ngón nghề cũng như tiền bạc, không ai đem nói khơi khơi cả. Tôi đặt ấn vàng lại chỗ cũ rồi quay đầu hỏi, “Cục trưởng Lưu, tôi về được chưa?”
Cục trưởng Lưu đứng dậy vẫy tay, “Ta sang phòng bên nói chuyện, cậu Phạm ở lại tiếp chuyện các chuyên gia nhé.” Viên thư ký dẫn tôi vào khi nãy lẳng lặng mở cửa phòng họp tỏ ý tiễn chúng tôi.
Tôi theo cục trưởng Lưu đến gian phòng cuối hành lang. Đây là một phòng làm việc, giữa phòng kê bàn giấy nặng trịch, hai bên là hai giá sách ngất ngưởng choán hết hai mặt tường bày đầy sách lý luận chính trị và vài món cổ vật nho nhỏ. Tôi quét mắt, chẳng có gì đáng tiền, hoặc là hàng phổ thông, hoặc là đồ nhái.
“Xem ra cục trưởng ít dùng phòng làm việc này.” Tôi chủ động gợi chuyện.
Cục trưởng Lưu cười, “Cậu giỏi quan sát đấy, tôi chỉ thỉnh thoảng ghé qua đây nên không bày biện gì cả.” Bấy giờ tôi mới để ý tay lính cảnh vệ vẫn theo sát ông ta không rời nửa bước đã biến mất, trong phòng chỉ có hai người chúng tôi.
Đôi bên quan sát nhau hồi lâu, tôi toan dò ý cục trưởng Lưu, nhưng chỉ thấy ông ta lịch sự chu đáo, kín kẽ khó lường. Trái lại ánh mắt ông ta nhìn tôi cứ như xuyên thấu mọi thứ, khiến tôi vô cùng bức bối.
Cuối cùng ông ta lên tiếng, “Nghe Phương Chấn kể, vừa đến nơi cậu đã đoán được đây là đâu, sao làm được vậy?”
“Đơn giản thôi, cứ xem thân mình lắc lư thế nào thì đoán được hướng đi và tốc độ xe ngay. Từ Lưu Ly Xưởng, xe chạy thẳng về phía Bắc, khoảng đến phố Trường An thì bắt đầu đi về hướng Tây, sau đó chỉ cần đối chiếu bản đồ Bắc Kinh là được, xe vừa dừng, tôi đã biết là ở gần Tây Sơn rồi.” Tôi trỏ huyệt thái dương, ý nói tất cả đều được ghi nhớ trong đầu mình.
“Nhưng sao cậu biết là ở Bát Đại Xứ?”
Tôi nhếch môi, “Dọc phố Trường An rất nhiều cột đèn giao thông, nhưng sau khi đến đó xe vẫn giữ nguyên vận tốc, không hề giảm hay tăng tốc, cũng không dừng lại. Nhất định xe này thuộc diện ưu tiên đặc biệt, thứ đặc quyền chỉ quân đội hoặc chính phủ mới có. Ở gần Tây Sơn, chỉ Bát Đại Xứ là tiếp đón được loại xe cấp cao kiểu này thôi.”
Cục trưởng Lưu vỗ tay khen, “Cậu thông minh đấy, cũng rất thận trọng.”
Tôi đáp, “Cục trưởng biết đấy, tôi làm ăn cò con, sơ sểnh chút thì đừng nói chuyện làm ăn, đến người cũng phải đem ra mà đền ấy chứ.”
Thấy tôi quá dè dặt cẩn trọng, cục trưởng Lưu cười khà, “Cậu bước vào, trước nhìn người sau mới nói chuyện là tôi đã biết rồi. Tốt lắm, làm cái nghề buôn đồ cổ này, khờ khạo thì không xong, không đa nghi cũng không được. À phải, vừa rồi cậu không muốn tiết lộ lai lịch chiêu ‘treo dây bắt mạch, cách không đoán định’ có phải vì chưa yên tâm không?”
Nghe ông ta nói vậy, tôi túa mồ hôi lạnh. Ngón dùng dây gai ước lượng ấn vàng vừa rồi của tôi, trong Tố đỉnh lục gọi là “Treo dây bắt mạch, cách không đoán định”. Cục trưởng Lưu nghe được tám chữ này từ đâu cơ chứ? Tố đỉnh lục đâu phải tự điển Tân Hoa nhan nhản ngoài hiệu sách - đó là một cuốn sổ viết tay, chỉ có một cuốn ở nhà tôi mà thôi.
Trong cơ quan chính phủ bí hiểm này, thình lình lại bị một quan chức cấp cao không rõ lai lịch sổ toẹt ra bí mật gia truyền, tôi không khỏi chột dạ.
“Đừng căng thẳng thế, tôi cũng chỉ biết vỏn vẹn tám chữ đó thôi. Cậu giải thích rõ hơn cho tôi được không?”
Tôi đắn đo giây lát đành đáp, “Nói trắng ra có gì đặc biệt đâu, tôi phán đoán dựa trên trọng tâm ấy mà.”
Cục trưởng Lưu như thể đã hiểu ra gì đó, tôi giải thích thêm, “Thời Hán, người ta đúc ấn bằng cách đổ khuôn. Song nếu tạo hình phức tạp, nhiều mặt cong thì khi đổ khuôn rất dễ bị lẫn bọt khí, tạo thành lỗ rỗng. Ấn nào tạo hình càng phức tạp, càng có nhiều lỗ. Phần tinh xảo nhất của chiếc ấn này là núm hình gấu bay, nên hẳn đây cũng là nơi có rất nhiều lỗ rỗng.
“Tay cao thủ làm giả kia hiển nhiên không nắm được chi tiết này, khi làm giả đã tạo ra một núm gấu bay đặc, không có lỗ rỗng, dẫn tới việc trọng tâm của món đồ giả chênh lệch so với ấn thật, đây chẳng qua là kiến thức vật lý cấp hai thôi.
“Vừa rồi tôi lấy dây gai treo ấn lên là để xác định trọng tâm của hai chiếc ấn. Ấn vàng núm gấu bay thật trên nhẹ dưới nặng, dễ chao đảo, chỉ có đồ rởm mới trơ như đá vững như đồng không xê xích mảy may. Có lúc giám định cổ vật không bí hiểm hoa hòe hoa sói như mọi người nghĩ đâu, chỉ đơn giản như chọc thủng lớp giấy dán cửa sổ ra mà thôi.”
Cục trưởng Lưu phì cười, “Trông bí hiểm thế, hóa ra chỉ là trình độ vật lý cấp hai.” Tôi gật đầu, không phủ nhận.
“Tôi đã bật mí một bí mật, giờ đến lượt cục trưởng nói rõ đầu đuôi rồi chứ nhỉ?”
Cục trưởng Lưu phá lên cười, “Bánh ít đưa đi thì quyết phải đòi bánh quy đưa lại phỏng?” Ông ta lấy trong ngăn kéo ra một khay trà gỗ đàn, bên trên bày năm chén sứ cánh sen nhỏ nhắn trắng muốt. Tôi không mấy am hiểu về gốm sứ, cảm giác thấy giống gốm lò Đức Hóa, nhưng áng chừng chỉ là hàng cuối thời Thanh hoặc đồ giả cổ tinh xảo, không quý hóa gì.
Cục trưởng Lưu cầm chiếc kẹp gắp bằng tre, sắp năm chiếc chén thành hình chữ thập, một chén ở giữa, bốn chiếc kia nằm bốn góc Đông Tây Nam Bắc. Sau đó lại lật úp chiếc ở góc Tây, đoạn ngẩng đầu nhìn tôi.
Tôi ngơ ngác mở to mắt, không hiểu ông ta có ý gì. Tôi biết đây là trà trận, nghe nói trong xã hội cũ, những băng nhóm như Tào bang, Hồng bang thường dùng trò này làm ám hiệu liên lạc. Nhưng một thanh niên sinh ra trong thời đổi mới lớn lên dưới ngọn cờ hồng như tôi, sao hiểu được những thứ đó.
Tôi và cục trưởng Lưu bốn mắt nhìn nhau hồi lâu, không ai có động thái gì, cuối cùng ông ta lấy làm chán nản, “Xem ra cậu không biết gì cả.”
“Chuyện đó phải xem cục trưởng cho tôi biết được đến đâu chứ.” Tôi giở chiêu cò cưa.
Lại những ánh mắt im lìm, chợt ông ta hỏi, “Cậu học đâu được nghề giám định này thế?” Tôi thành thật đáp, “Một nửa học trong sách, một nửa tự trau dồi trong quá trình làm ăn.”
“Không ai dạy sao?”
“Không.”
“Ông Hứa Hòa Bình bố cậu thì sao?”
Tôi chột dạ, quả là lãnh đạo cao cấp, nắm rõ cả họ tên ông già tôi cơ đấy.
“Bố tôi không muốn tôi theo nghề này, chê bẩn thỉu, bản thân ông ấy cũng tránh xa. Mãi sau ông mất trong Cách mạng Văn hóa, tôi mới bắt đầu tiếp xúc với kim thạch*, đi theo người ta lâu ngày, cũng học được chút ngón nghề.”
Kim thạch là một môn trong ngành thu gom cổ vật, chủ yếu bao gồm những hiện vật đồng thau và bàn khắc đá, thẻ trúc, giáp cốt, đồ ngọc và đồ tùy táng, v.v… (TG)
Vừa nói tôi vừa nghĩ, nếu ông ta định hỏi đến Tố đỉnh lục, tôi sẽ chối bay chối biến, chết cũng không thừa nhận. Thất phu vô tội, mang ngọc là tội, tôi không thể dây vào được.
Cục trưởng Lưu nghe tôi nói xong thì trầm ngâm, “Thảo nào… Cái tên Tứ Hối Trai quả cũng không sai.”
“Cục trưởng biết bố tôi ư?”
“Không biết, có điều trước đây tôi từng chứng kiến ngón nghề ‘treo dây bắt mạch’ như của cậu.”
Bố tôi rất thận trọng, gần như chẳng bao giờ tiếp xúc với ai ngoài đồng nghiệp. Cục trưởng Lưu nói đến treo dây bắt mạch, nhất định là từ đời ông nội tôi. Mà những chuyện này bố tôi xưa nay không bao giờ đề cập, tôi cũng chẳng biết mô tê. Chắc phải truy đến tận thời Dân Quốc, ai mà biết được có ân oán dây dưa hay khúc mắc gì, cứ nên giữ mồm giữ miệng là hơn.
Cục trưởng Lưu chậm rãi gõ xuống mặt bàn, “Cậu không được dạy dỗ gì mà cũng biết ‘treo dây bắt mạch’, coi như không uổng gia học. Khá lắm, tôi rất mừng. Bằng không hôm nay cậu cũng không bước vào phòng này được đâu.” Đoạn ông ta trỏ lên bàn, “Trà trận này, cậu quan sát rồi đoán thử xem.”
Tôi nhíu mày, đúng là đánh đố nhau.
Cục trưởng Lưu thản nhiên nói, “Cậu phá giải được trà trận này thì ta nói tiếp. Nếu không giải được, chứng tỏ duyên phận giữa chúng ta chỉ đến đây thôi, những việc khác cậu không cần biết. Tôi sẽ cho người đưa cậu về, trả thù lao không thiếu một xu, cậu cứ việc tiếp tục buôn bán.”
Nghe câu này, tôi chỉ muốn đứng dậy đi thẳng. Song ông ta cứ úp úp mở mở, vừa rồi thoạt trông đã nhận ra “treo dây bắt mạch”, lại gọi thẳng tên ông già ở nhà khiến tôi thấp thỏm không yên, nhất định ông cục trưởng này vẫn còn giấu giếm không ít chuyện, hơn nữa những chuyện này dường như đều liên quan mật thiết đến tôi.
Tôi linh cảm nếu cứ thế bỏ đi, e rằng lại bỏ lỡ cơ duyên. Bèn quyết định bình tĩnh phá giải trà trận này xong rồi tính.
Một ông già xưa kia từng lăn lộn ở bến Thượng Hải kể với tôi rằng, trà trận là cách thức liên lạc của những băng đảng ngầm như Hồng bang, Tào bang, đám người này đa phần là phường lưu manh vô lại, trình độ văn hóa thấp nên trà trận cũng chẳng có gì cao siêu, chủ yếu dùng cách nói đồng âm hoặc so sánh, kết hợp với dăm khẩu quyết dân gian đơn giản. Hình thế trận tương ứng với âm dương ngũ hành, hoặc tinh tú trên trời, đều có quy định cả.
Trà trận trước mặt rõ ràng xếp hình chữ thập theo năm phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung. Năm phương vị tương ứng với ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Giờ chén trà góc Tây đã bị lật úp, Tây thuộc Kim chứng tỏ lớp nghĩa đầu tiên của trà trận này là ngũ hành thiếu Kim.
Đến đây thì tôi tắc tị.
Chẳng biết đằng nào mà đoán tiếp. Thiếu Kim có rất nhiều nghĩa, chắc không phải lãnh đạo cấp cao như ông ta định vay tiền tôi đấy chứ? Thấy tôi gãi đầu gãi tai, cục trưởng Lưu lấy làm thích thú, rót chút trà vào chén, “Bộ chén này của tôi năm cái một kiểu, giống hệt nhau. Một úp bốn ngửa, là thế ngũ hành bất toàn. Lâu lắm tôi không dùng rồi.” Đoạn ông ta trỏ chén trà rồi lại trỏ bức tường sau lưng tôi, xem như phá lệ gợi ý.
Tôi ngoái lại nhìn bức tường sau lưng, lòng chợt rúng động. Tường phòng sơn trắng, gần giống màu phôi của chén trà.
Phải rồi, hẳn là liên quan đến màu sắc.
Âm dương ngũ hành có hàm nghĩa rất rộng, tương ứng với năm hướng, năm vị, năm âm v.v… đồng thời cũng ứng với năm màu đen trắng đỏ vàng xanh.
Hành Kim vừa hay ứng với màu trắng, màu trắng còn được gọi là “tố”, lẽ nào… tôi ngỡ ngàng ngẩng lên, chẳng lẽ ông ta muốn nói trà trận này thiếu cuốn Tố đỉnh lục của tôi?
“Thứ cục trưởng muốn là một cuốn sách ư?” Tôi cố ý lờ đi tên sách, tranh thủ chút vận may.
Cục trưởng Lưu phá lên cười, “Thằng lỏi này lanh đấy nhỉ. Vừa rồi chiếc ấn đời Hán kia là để thử xem gốc gác cậu thế nào, còn trà trận này, là xem đầu óc cậu ra sao. Cậu bảo thứ tôi muốn là một cuốn sách, chỉ đúng phân nửa thôi. Có điều cậu vốn không biết gì, chỉ dựa vào kiến thức mà giải được đến mức ấy cũng là giỏi rồi. Cuốn sách của cậu đầu đề có chữ ‘tố’, đúng không?”
Tôi hết cách, đành gật đầu. Lão cục trường này nói chuyện rất khéo, thao túng cục diện từ đầu đến cuối, hỏi câu nào cũng có tính toán trước, thế này trong giới buôn đồ cổ gọi là “móc lời”, ý nói đầu lưỡi có sáu răng ba móc, chỉ vài ba câu đã moi hết gan ruột người ta ra.
“Sợ rồi à, yên tâm tôi không đòi lấy quyển sách của cậu đâu.”
“Cục trưởng có đòi cũng vô ích, nó được mã hóa rồi, chỉ mình tôi biết giải mã thôi.” Nghe tôi lầu bầu, cục trưởng Lưu chỉ cười, lật chén trà góc Tây lại rồi chợt thở dài, “Thế ngũ hành này thiếu Kim, thực ra không phải thiếu cuốn sách của cậu, mà là thứ ẩn giấu đằng sau nó.” Dứt lời, ông ta lại bày năm chén trà thành hình cánh hoa mai, đoạn trầm ngâm nhìn tôi đến mức tôi sởn cả tóc gáy.
Tôi liếc năm chén trà chụm lại, buột miệng, “Trận hoa mai năm cánh?” Ý tứ quá rõ ràng, hoa mai năm canh chụm lại, ám chỉ kết nghĩa hoặc tụ họp - ông ta muốn tập hợp thứ ẩn giấu đằng sau Tố đỉnh lục lại cùng với bốn cánh hoa khác.
Cục trưởng Lưu rời ghế đứng dậy, chắp tay sau lưng đi đến bên cửa sổ, kéo lại tấm rèm, vẻ mặt cũng nghiêm túc hẳn lên, “Nguyện này, cậu bảo buôn đồ cổ quan trọng nhất là gì?”
“Không mua hàng giả.”
“Phải lắm. Nghề này biến hóa đa đoan, nhưng chung quy lại chỉ xoay quanh hai chữ thật giả. Mấy ngàn năm tồn tại, nói trắng ra chỉ là để phân định thật giả mà thôi.”
Dứt lời, ông ta thủng thẳng miết tay lên khay trà, “Có kẻ làm giả, tất có người giám định. Có người nhìn nhầm, ắt có kẻ ép giá. Năm chén trà này tượng trưng cho năm môn phái giám định cổ vật. Cả năm đều được truyền lại từ xa xưa, nắm giữ cả ngành cổ vật, thao túng giới giám định đồ cổ. Hễ qua tay họ, coi như thật giả rõ ràng, đâu đâu cũng phải thừa nhận. Thế nên năm môn phái họp lại, gọi là ‘Minh Nhãn Mai Hoa’. Người chơi đồ cổ đi giám định, nghe bốn chữ này đều phục sát đất.”
“Sao tôi chưa nghe bao giờ nhỉ?” Dù gì tôi cũng lăn lộn bao năm, thế mà chưa từng nghe đến “năm môn phái” này bao giờ. Ông già này càng nói càng mơ hồ.
“Cậu đã nghe tiếng Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa chưa?”
“Cái này thì rồi.” Tôi gật đầu. Dân chơi đồ cổ ít nhiều đều từng nghe đến cái tên này. Tuy đó không phải cơ quan nhà nước, nhưng cũng được coi là nơi giám định tư nhân chuyên nghiệp, tiếc rằng họ khá kín tiếng, thỉnh thoảng mới góp mặt tại vài cuộc giám định hoặc đấu giá quan trọng, đám con buôn tép riu như tới còn khướt mới tiếp cận được.
Cục trưởng Lưu nói tiếp, “Hiệp hội này do người thừa kế của năm môn phái bắt tay dựng nên, chưa đến vai vế nhất định thì không thể biết được. Nó tượng trưng cho một dạng thân phận và địa vị. Người không biết tức là không biết, không ai tiết lộ cho cả.”
“Cứ tưởng sau giải phóng đặc quyền giai cấp đã bị xóa bỏ rồi chứ…” Tôi lầm bầm.
Cục trưởng Lưu nghiêm mặt đáp, “Năm môn phái này một không lừa gạt lũng đoạn thị trường, hai không đầu cơ trục lợi, dựa vào tài phân định thật giả mà chèo chống cả giới đồ cổ, chưa từng nhầm lẫn. Đây là kỹ thuật được nhà nước bảo hộ. Tuy cả năm từng tổn thất nặng nề trong Cách mạng Văn hóa, song nguyên khí vẫn còn, thừa cơ gây dựng lại thành lập Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa. Cậu xem, sau khi cải cách mở cửa, nghề buôn đồ cổ phát triển mạnh được thế đều nhờ Minh Nhãn Mai Hoa âm thầm tác động. Có biết họ dựa vào cái gì không?”
“Thật.”
Tôi chỉ đáp đúng một chữ. Cơ quan giám định uy tín đều phải tuân thủ nguyên tắc: tuyệt đối không làm giả. Nghĩ mà xem, một cơ quan giám định chủ yếu dựa vào danh tiếng công minh trung lập, nếu đến họ cũng làm giả, chẳng phải là vừa đá bóng vừa thổi còi sao? Huống hồ người giám định đương nhiên thuộc làu những mánh lới giả mạo, nếu họ nảy ra ý đồ làm giả thì nguy hiểm vô cùng.
Thế nên chuyên gia giám định giỏi quyết không dám dính đến chữ “giả” - chỉ một lần nhúng chàm là hỏng hết thanh danh.
Cục trưởng Lưu gật gù hài lòng, “Bỏ giả giữ thật, chính là nguyên tắc của hội giám định cổ vật.”
Tôi hỏi: “Sao lại cho tôi biết những chuyện này?”
Cục trưởng Lưu cười nửa miệng, “Cậu vẫn chưa hiểu à? Họ Hứa nhà cậu chính là chén trà úp kia đấy. Năm cánh hoa mai, chỉ thiếu nhà cậu thôi.”
Đầu tôi ong lên, chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả.
Như tôi nhớ thì nhà mình chẳng liên quan gì đến cổ vật hết. Chúng tôi chỉ là một gia đình bình thường, sống trong khu tập thể giáo viên hai phòng ngủ một phòng khách, trong nhà không bày chậu hoa thì trưng toàn tập Marx Engel Lenin Stalin Mao Trạch Đông, trên tường treo mấy bức tranh chữ đều do bố tôi tự viết vào ngày nghỉ, thường ngày cũng chỉ qua lại với giới giáo chức - nhìn dọc nhìn ngang thế nào cũng chẳng dính dáng đến đám buôn đồ cổ nhà cao cửa rộng. Sau khi hai cụ thân sinh qua đời, tôi soạn lại di vật chỉ thấy có cuốn sách kia là đồ từ trước giải phóng.
Nhưng lời cục trưởng Lưu cũng không thể không tin. Ấn tượng của tôi về dòng họ thực ra chỉ là ấn tượng về đời bố tôi mà thôi, còn trước giải phóng gia tộc ra làm sao, ông nội là ai, từng làm nghề gì, bố tôi không hề nhắc đến. Nếu chẳng phải vô tình tìm được cuốn Tố đỉnh lục trong nhà, tôi cũng chưa chắc đã đi theo con đường này.
Giờ xem ra, chuyện còn phức tạp hơn tôi dự liệu. Vừa rồi cục trưởng Lưu bày trà trận mai hoa, phái chăng định rủ tôi nhập hội? Theo lời ông ta thì Minh Nhãn Mai Hoa là một tổ chức dân gian náu mình sâu trong giới sưu tầm cổ vật, vì sao một quan chức chính phủ lại tham dự vào đây? Còn nữa, việc giám định chiếc ấn đời Hán vừa rồi rốt cuộc là tình cờ hay bài kiểm tra họ bày sẵn?
Hàng loạt suy tư như thác lũ cuồn cuộn đổ vào não bộ, khiến tôi nhất thời không biết nói gì.
Đúng lúc này chợt vang lên tiếng gõ cửa, viên thư ký bước vào, “Thưa cục trưởng, sắp đến giờ rồi, mọi người đều đang đợi ngài đấy ạ.”
Cục trưởng Lưu nhìn đồng hồ đeo tay rồi bảo tôi, “Tìm cậu đến đây không phải để hàn huyên mà có việc lớn nước nhà cần cậu giúp đỡ. Nhưng hôm nay tôi còn bận việc gấp khác, để cậu Phương đưa cậu về trước, tới khi cần, tôi sẽ cho người đến tìm.”
Tôi bất giác thở phào nhẹ nhõm. Những việc tôi nghe được tối nay đã quá nhiều, cần thời gian tiêu hóa đã, bằng không đầu sẽ vỡ ra mất.
Vốn tôi còn định hỏi vụ giám định lần này có trợ cấp vất vả không, nhưng thấy người ta nói năng hào sảng như thế lại không dám mở miệng. Cục trưởng Lưu đi rồi, tôi được thư ký của ông ta dẫn ra ngoài, quả nhiên Phương Chấn vẫn chờ trước cổng. Thấy tôi ra, y chìa cho một điếu thuốc. Tôi chối không biết hút, y cũng không ép, ngậm ngay lấy rồi mở cửa xe cho tôi.
Chúng tôi trở về theo đường cũ, dọc đường Phương Chấn chẳng nói chẳng rằng, chăm chăm nhìn ra bên ngoài. Tôi ngứa miệng hỏi, “Cục trưởng Lưu thuộc ban ngành nào vậy?” Y đáp cụt lủn, “Ban ngành liên quan.”
“Ban ngành liên quan với cái gì?”
Phương Chấn lắc đầu, “Những gì nên nói cấp trên sẽ tự mình nói, những gì cấp trên thấy không cần nói, tôi không thể nói được.”
Người ta không chịu nói, tôi cũng không tiện gặng thêm, đành ngồi nhắm mắt dưỡng thần. Song lòng tôi cứ nhộn nhạo không yên, năm chén trà khi nãy xoay mòng mòng trong đầu.
Ba ngày sau đó sóng yên biển lặng, như thể cục trưởng Lưu chưa từng gặp tôi. Phương Chấn cũng mất tăm, nhưng tôi đoán y nhất định vẫn lẩn lút đâu đó gần Lưu Ly Xưởng, theo dõi nhất cử nhất động của Tứ Hối Trai.
Việc làm ăn của tôi vẫn tùng tiệm như thế, mỗi ngày có dăm ba khách lai vãng, hỏi thì nhiều mua thì ít, chủ nhà cũng ghé lại một lần, tôi phải bã bọt mép nài nỉ làm công tác tư tưởng mãi, cuối cùng mới trì hoãn được thêm tuần nữa. Dù bận rộn toàn những việc lặt vặt nhưng tâm trạng tôi đã thay đổi hẳn, hễ thấy có người bước vào lại suy đoán xem họ có biết Minh Nhãn Mai Hoa hay không, có từng nghe nói đến năm môn phái không mà không dám lên tiếng hỏi, người ngợm cứ bứt rứt muốn phát điên. Suốt ba hôm liền chẳng bán được món đồ nào, buồn thối ruột.
Dĩ nhiên, tôi bận lòng nhiều nhất là về chuyện gia đình. Bố nhất định có gì giấu giếm tôi, bằng không sao lại không nhắc nửa lời về những chuyện trước đây. Thuở bé có lần tôi hỏi về ông nội liền bị bố nổi giận vác chổi đánh cho quắn đít, thành thử cũng không dám hỏi kỹ - tiếc rằng ông già qua đời rồi, không thể đội mồ sống dậy kể cho tôi nghe sự thật. Nhà chúng tôi lại không có họ hàng thân thích, thành thử nhất thời chẳng biết hỏi han ai.
Hôm nay tôi mở hàng từ sớm, đang uể oải ngồi sau quầy vừa lật sổ thu chi vừa tính xem xoay xỏa thế nào cho đủ tiền nhà tháng này thì chợt thấy hai người một già một trẻ bước vào. Tôi nhận ra ông già là chuyên gia tham gia giám định chiếc ấn đời Hán hôm trước, cục trưởng Lưu gọi ông ta là giáo sư Trịnh; còn người trẻ áng chừng xấp xỉ tuổi tôi, đeo kính râm, mặc sơ mi hoa, bộ dạng lấc cấc.
Vừa thấy tôi, giáo sư Trịnh gật đầu ngay, “Đúng cậu ta rồi.” Tôi ngẩn người, chưa kịp ho he gì đã thấy gã trai bước lên trước nhìn mình từ đầu đến chân rồi xấc giọng hỏi, “Hứa Nguyện phỏng?”
“Hai vị hỏi chuyện gì?”
Giáo sư Trịnh toan lên tiếng thì bị gã kia ngăn lại, “Tí tuổi ranh mà gớm nhỉ, dám làm mất mặt thầy anh mày cơ đấy. Đúng là tài không đợi tuổi.”
Giọng lưỡi gã xấc xược, nghe như khiêu khích chứ không phải tán thưởng. Gã móc trong ngực áo ra một miếng ngọc, đặt lên tủ quầy, gõ gõ ngón áp út, “Này, anh đây cũng trạc tuổi chú nên chẳng vòng vo làm gì. Anh họ Dược, Dược Bất Nhiên. Chỗ chú mày buôn bán đồ cổ hử? Anh đây có thứ này, xem chú mua không?”
Tôi giật mình, thầm nhủ, quả nhiên là đến rồi. Hành động này của gã trong nghề gọi là “đấu khẩu”, bắt nguồn từ ngón chơi chim của người Mãn, ý rằng chỉ đấu khẩu không động thủ, không làm thật, về sau lan sang giới cổ vật, chỉ việc người bán không định bán thật, mà chỉ muốn thử nhãn lực người mua. Kiểu thăm dò này vô cùng táo bạo, gần như gây hấn, thông thường chỉ khi có thù hận sâu sắc với người thu mua, thực sự muốn dỡ bảng hiệu của đối phương, người ta mới làm vậy.
Nhưng tôi có oán thù gì với gã cơ chứ? Chắc ông giáo sư già bẽ mặt nên gọi học trò đến phá tôi đây.
Thấy tôi lưỡng lự, Dược Bất Nhiên cười nhạt, “Chú không dám mua thì để anh mang về cho chó ăn.”
Nghe gã thở ra toàn lời châm chọc, tôi tự biết hôm nay không tránh được xung đột, bèn vươn tay ra, cũng đặt ngón áp út lên miếng ngọc, kéo lại mép trong tủ quầy, xem như tiếp nhận đấu khẩu.
Dược Bất Nhiên thấy tôi nhận lời thách thức bèn khoanh tay trước ngực, đứng trước tủ quầy nhìn tôi chòng chọc. Giáo sư Trịnh đã có tuổi nên kéo ghế lại ngồi.
Miếng ngọc Dược Bất Nhiên đưa chạm hình đứa bé cầm hoa sen, to chừng nửa bàn tay, tôi liếc qua rồi ném trả, “Anh cứ giữ lại đi.”
“Ái chà, gớm nhỉ.”
Dược Bất Nhiên thoáng ngạc nhiên. Gã tưởng tôi sẽ lấy kính lúp ra soi, rồi chưng ngọc ra bụi*, không ngờ tôi lại ném trả nhanh như thế, bèn hếch cằm đợi tôi nói tiếp. Nên biết rằng, đấu khẩu không so thật giả, mà phải xem lập luận thế nào để khẳng định nó là giả mới được.
Ngọc cũ chôn dưới đát lâu ngày, bị phong hoá mặt ngoài, về sau tay người sờ mó sẽ tạo thành màng bọc che lấp đi, khi giám định, nếu ngâm vào nước ấm, làm tan màng bọc, lớp phong hóa lộ ra, trông như một lớp bụi bám, cách giám định này gọi là “chưng ngọc ra bụi”. Nhưng công nghệ làm giả đồ ngọc hiện giờ cũng có thể làm giả cả lớp bụi bám, nên không thể coi đó là tiêu chuẩn duy nhất để phán đoán thật giả nữa. (TG)
Tôi khách sáo, “Miếng ngọc này của anh còn chẳng được đến gáo dầu mới, chỉ ở mức chó đá giấm thôi.”
Gáo dầu là một cách tẩm màu* cho đồ ngọc từ cổ xưa, thời Tống gọi là gáo dầu cũ, thời Minh Thanh gọi là gáo dầu mới, thời cận đại thường dùng máu chó để tẩm màu, đặc sệt đen thui, nên gọi là chó đá giấm, không đáng một xu.
Ngọc xưa tiếp xúc lâu ngày với cây cối đất đai hoặc những vật chất khác khiến chất ngọc bị xâm thực, biến màu một phần hoặc toàn bộ, gọi là tẩm màu. Tẩm màu là một trong những tiêu chuẩn để giám định niên đại đồ ngọc. (TG)
“Chú mày dựa vào đâu mà nói thế?”
Tôi nhẫn nại cầm miếng ngọc lên, trỏ đường máu gà trên đó giải thích, “Anh xem, phàm đồ ngọc ‘chó đá giấm’, viền chỗ tẩm màu sẽ có đốm máu li ti, nhìn kỹ phần mép trông như sợi thừng thắt mấy nút, rất dễ nhận biết.”
Dược Bất Nhiên không ngờ tôi nhìn qua đã nghiệm xong hàng, tấm tắc, “Chú mày cũng gớm đấy.” Gã hào sảng thu lại miếng ngọc bằng hai tay, hệt người Quảng Đông uống trà, đồng thời gõ nhẹ ngón trỏ và ngón giữa lên mặt tủ quầy, xem như chấp nhận. Bấy giờ tôi mới sực nhớ trước khi đấu khẩu phải định phần thưởng, vừa rồi hấp tấp nhận lời quên không đòi thưởng có hơi thiệt thòi.
Dược Bất Nhiên móc trong ngực áo ra một miếng ngọc ném cho tôi. Miếng ngọc này không lớn, nhưng là ngọc tím Hòa Điền chính cống, sờ ấm nhuận, mềm mà không nhũn.
“Thứ này nhà anh còn cả đống, chú cầm một miếng mà chơi.” Dược Bất Nhiên nói nhẹ như không, tôi cũng chẳng rõ gã rộng rãi thật hay vờ, song không buồn khách sáo, nhét ngay vào túi. Món này bán ra cũng đủ trả hai tháng tiền nhà.
Thấy tôi bỏ tọt ngọc vào túi, Dược Bất Nhiên tỏ vẻ khinh khỉnh, cười nhạt rồi ném cả miếng “chó đá giấm” qua, “Cho chú nốt, gặp con gà mờ cũng kiếm được mấy đồng.”
Tôi bắt lấy rồi ném trả, “Từ khi vào nghề, tôi đã tự quy định với mình: không làm giả, cũng không bán đồ giả.”
“Được, được, coi như chú đàng hoàng. Dám so tài lần nữa không?”
Tôi cười đáp, “Tôi còn phải buôn bán, hơi đâu lần chần với anh.” Dược Bất Nhiên hậm hực, “Cửa tiệm bằng lỗ mũi thế này, anh mày mua bán hai vụ là dựng được ngay.” Thấy giáo sư Trịnh trừng mắt, gã mới chịu hậm hực im miệng.
Thấy tôi hơi bực, giáo sư Trịnh vội giảng hòa, “Xin lỗi cậu Nguyện, Nhiên nó ăn nói không biết lựa lời.” Tôi chống hai tay lên mặt quầy, “Tôi thấy… cũng không có gì. Hôm nay hai vị đến đây e là còn việc khác thì phải?”
Họ vừa bước vào tôi đã thấy có vấn đề, giáo sư Trịnh đi sau, Dược Bất Nhiên đi trước. Lúc Dược Bất Nhiên khiêu khích chẳng thấy ông ta ra lời, giờ lại tự dưng đứng ra dàn hòa, rõ ràng là kẻ đánh trống người thổi kèn, phối hợp với nhau. Huống hồ nếu họ thực sự định đấu khẩu thì vật cược này hơi nhỏ.
Bị tôi vạch trần, giáo sư Trịnh cũng chẳng ngại nói thẳng, “Cậu Nguyện ạ, chuyện này nói ra thì dài lắm. Bất Nhiên… cũng không phải hạng bình thường, nó thử cậu là có nguyên cớ cả đấy.” Song tôi vẫn khăng khăng, “Nếu giáo sư tới bán đồ hoặc giám định, tôi sẽ dốc hết tâm sức. Nhưng tự dưng bảo tôi đánh cược với một kẻ không rõ lai lịch thì tôi không có hứng. Hôm nay anh ta đến đấu khẩu, ngày mai ông lại đến khiêu khích, cửa tiệm này của tôi chi bằng dỡ biển đổi thành đạo trường Hồng Khẩu* cho rồi.”
Nơi Trần Chân, một nhân vật hư cấu rất giỏi võ nghệ tỉ thí võ công với người khác.
Dược Bất Nhiên cười nhạt, “Vậy nếu anh đây nói về Minh Nhãn Mai Hoa thì sao?” Lần thứ hai nghe thấy cái tên này, tôi giật nẩy mình nhìn chằm chằm Dược Bất Nhiên, chẳng biết phải đối đáp ra sao. Gã nói tiếp, “Chú mày cũng chẳng phải hạng chậm hiểu, chúng ta nói toẹt ra đi. Cục trưởng Lưu đã kể cho bốn phái chuyện nhà họ Hứa các chú rồi, nên bọn này đến đây xem nhà họ Hứa biệt tích bấy lâu giỏi giang đến đâu.”
Hóa ra gã này là truyền nhân của năm phái trong Minh Nhãn Mai Hoa, hừm… chẳng phải cũng giống tôi ư?
“Cục trưởng biết chuyện này không?” Tôi thận trọng hỏi.
“Mấy hôm nay ông ta còn đang họp bàn với mấy người trong ban trị sự của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, chưa có kết luận. Người làm cán bộ nhà nước chỉ thích họp hành nói nhảm! Có quái gì mà bàn với bạc, năm phái xưa nay đều vang danh nhờ tay nghề, thử tài một lần chẳng phải biết ngay?” Dược Bất Nhiên khinh khỉnh xua tay.
Giáo sư Trịnh tiếp lời, “Cậu Nguyện này, nhà họ Hứa im hơi lặng tiếng bấy nhiêu năm, giờ lại đột ngột xuất hiện, ắt sẽ thu hút sự chú ý của nhiều người. Nói đâu xa, ngay sau lưng Dược Bất Nhiên cũng có không ít nhân vật sừng sỏ. Nếu cậu co đầu rụt cổ, chỉ e chuyện thế này còn tiếp diễn dài dài.”
Tôi hối hận nhất là ma xui quỷ khiến thế nào lại đi phá giải cái trà trận kia. Sớm biết dây phải lắm phiền phức thế này, chi bằng ngay từ đầu cứ chối là không giải được rồi trở về sống yên ổn có phải hơn không. Giờ thì hay lắm, chọc vào tổ ong vò vẽ rồi. Xưa nay tôi vẫn tự cho mình thận trọng, thế mà lòng vẫn mắc míu chuyện danh lợi.
“Được thôi, rốt cuộc các vị muốn tôi phải làm sao đây?”
Giáo sư Trịnh nhìn đồng hồ đeo tay, “Tôi định thế này, hôm nay là Chủ nhật, Phan Gia Viên đang nhộn nhịp. Chúng ta tới đó, cậu và Nhiên mỗi người cầm hai nghìn tệ, tự đi vét đồ trong khoảng thời gian nhất định, không giới hạn chủng loại. Ai kiếm được món hời nhất thì người đó thắng.”
“Làm sao phân định được trong hai món món nào đáng tiền hơn?”
“Nếu hai người tin tôi thì để tôi định giá.” Giáo sư Trịnh đẩy gọng kính, “Ngón tủ của tôi là định giá mà.”
So tài như thế nghe chừng cũng thú. Không chỉ so mắt nhìn đồ mà còn xét cả khả năng tính toán và quyết đoán nữa. Mấy trăm gian hàng cửa tiệm ở Phan Gia Viên mỗi nơi lại thu mua những mặt hàng khác nhau, trong khoảng thời gian nhất định muốn tìm ra tiệm nào có hàng tốt, ép được giá thấp hết mức, cân bằng được cả giá trị và giá tiền, đưa ra quyết định tối ưu, quả không phải dễ.
Bởi vậy nếu chỉ biết giám định cũng không thắng nổi, chỉ biết mặc cả cũng không thắng nổi, phải thông thạo cả hai mới được. Chuyện này không thể trông vào may rủi mà là nhận định tổng hợp về khả năng vét đồ của một người.
Giáo sư Trịnh đưa ra đề nghị này, hẳn đã có chuẩn bị trước.
“Nếu tôi thắng thì sao, thua thì sao?” Tôi hỏi.
Dược Bất Nhiên đáp, “Thắng thì tùy chú mày chọn một món đồ ở nhà anh, còn thua thì đưa Tố đỉnh lục ra đây cho anh mày xem thử.”
Gã nói thẳng tuột như vậy khiến tôi thầm rúng động. Quả như lời cục trưởng Lưu, nhà họ Hứa vừa lộ mặt đã có bao nhiêu ánh mắt đổ dồn vào cuốn sách kia. Hai người này tìm đến tôi không phải để báo thù hay gây sự, mà cũng nhằm vào nó đó thôi.
Có lẽ Tố đỉnh lục vô cùng quan trọng với năm môn phái hoặc hội giám định văn vật, tượng trưng cho sự tiếp nối văn hóa hoặc quyền lực môn phái gì đó, còn với tôi, nó chỉ đơn thuần là một cuốn hướng dẫn giám định thực dụng, chẳng có gì quý giá. Tôi tin nhiều mánh lới ghi trong đó đã được lưu truyền trên đời từ lâu, một vài điều thậm chí đã lỗi thời trong kỷ nguyên khoa học kỹ thuật tiến bộ hiện giờ, bản thân tôi không có tham vọng gây dựng môn phái nên giấu giếm cũng chẳng để làm gì.
“Thế nào? Nói đi chứ!” Dược Bất Nhiên giục.
Tôi vê ngón tay vẻ khó xử, “Tôi cũng muốn đi, nhưng tiệm này chỉ có mình tôi trông hàng, nếu đi thì phải đóng cửa…” Chưa nói hết câu, giáo sư Trịnh đã móc ví ra, “Không phải lăn tăn, chúng tôi đặt hai trăm đồng lại đây đền bù cho cậu.”
Nhận tiền xong, tôi mới thủng thẳng tiếp, “Nếu thắng tôi không lấy gì cả, chỉ xin các vị về sau đừng tới làm phiền tôi nữa được không?”
“Không vấn đề.” Dược Bất Nhiên nhận lời ngay.
Tôi thấy trong mắt gã bùng lên hai đốm lửa.
Tôi khóa cửa, theo giáo sư Trịnh và Dược Bất Nhiên lên một chiếc Volkswagen. Có lái xe riêng, giáo sư Trịnh ngồi vào ghế phụ còn tôi và Dược Bất Nhiên ngồi đằng sau. Xem ra trừ chi nhà tôi, bốn môn phái kia đều khấm khá, có cả xe riêng.
Xe nổ máy, chầm chậm lăn bánh rời Lưu Ly Xưởng. Dược Bất Nhiên ngồi bèn chìa tay ra, “Giới thiệu lại nhé, anh đây là người của Huyền môn.”
“Huyền môn?” Tôi ngơ ngác.
“Chết tiệt, cái đó mà chú mày cùng không biết à?” Dược Bất Nhiên cao giọng vờ ngạc nhiên, mắt lóe lên vẻ đắc ý. Phải, chính là ánh mắt của hội học sinh giỏi nhìn đám đội sổ.
Tôi lắc đầu, những gì tôi biết về năm phái và Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa chỉ gói gọn trong vài thông tin ít ỏi cục trưởng Lưu cung cấp. Dược Bất Nhiên thấy vậy liền dương dương tự đắc xòe năm ngón tay, huênh hoang đếm cho tôi nghe, “Vẫn có câu một nghề cho chín còn hơn chín nghề, hiện giờ Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa không chia nhỏ đến thế, nhưng
Danh sách chương
- Chương 1 Minh nhãn mai hoa - Tổ chức bí ẩn thao túng giới cổ vật
- Chương 2 Vụ án cổ vật thời Dân Quốc - Đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên
- Chương 3 Trước có Thẩm Dương Đạo Thiên Tân, sau có Phan Gia Viên Bắc Kinh
- Chương 4 Đấu trí với gia tộc làm giả đồ đồng
- Chương 5 Tố đỉnh lục: bí kíp tin cậy để giám định kim thạch
- Chương 6 Giám định bia Tống tại nơi đấu giá
- Chương 7 Tìm núi ốc
- Chương 8 Mật mã cổ vật thật giả
- Chương 9 Lão Triều Phụng đứng sau xúi giục lộ nguyên hình
- Chương 10 Đầu Phật rốt cuộc là thật hay giả?
- Vĩ thanh