← Quay lại trang sách

Chương 6 Giám định bia Tống tại nơi đấu giá

Tôi giật mình, không ngờ gã lại giở trò. Anh Hồ quay sang nhìn tôi, vẻ khó hiểu, “Ý mày là gì? Anh mày không thích món ấy đâu.” Hai Tần cười nịnh, “Anh hiểu lầm rồi, em không nói nó, mà nói báu vật nó mang trên người cơ. Vừa rồi em mua được cái tước đồng quý ơi là quý nên định đưa ngay đến cho anh.”

“Hả? Đưa đây xem nào.” Anh Hồ vung cờ lê, tức thì có người đi về phía tôi. Tôi thầm rủa Hai Tần khốn nạn, dám lấy đồ người khác để gán nợ cho mình. Đám người này thoạt nhìn đã biết chẳng phải hạng tử tế gì, e rằng khó mà nói lý được.

Cuống quá hóa liều, tôi lấy tước chạm rồng ra, đưa tới bằng hai tay, nói thẳng, “Anh Hồ, tôi và tên họ Tần này chẳng quen biết gì nhau cả, gã khăng khăng đòi mua tước của tôi nhưng tôi không bán, thành ra định mượn hoa cúng Phật, đẩy món nợ sang cho tôi, thế chẳng hóa ra coi anh là hạng cướp ngày, nẫng tay trên đồ của người khác hay sao. Tước này chạm rồng, là đồ thời Thương Chu, rất có giá. Nếu anh vừa ý thì cứ lấy, coi như tôi tặng anh, nhưng chuyện này tôi phải nói cho rõ ràng.”

Tôi vừa đấm vừa xoa, không chỉ thanh minh cho mình, còn ném cục nợ lại cho Hai Tần. Con người ai cũng tham lam, tôi tình nguyện tặng không cái tước, còn nói rõ không dính dáng gì đến món nợ của Hai Tần, điều này đối với anh Hồ tức là một món tiền biến thành hai món, khỏi cần nghĩ cũng biết hắn sẽ đứng về phía ai.

Hai Tần cũng nhận ra lợi hại bên trong, tức thì chết đứng. Anh Hồ lừ mắt hỏi gã, “Chuyện này là thế nào đây?” Gã sợ đến nhũn cả hai chân, luôn miệng đổ riệt cho tôi nói láo. Tôi cũng chẳng chịu lép, cầm tước chạm rồng lên giới thiệu cặn kẽ mọi đặc điểm, rõ ràng mạch lạc. Hai Tần những tưởng lừa được một gã trai quê ngờ nghệch, ai ngờ tôi tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi, khiến gã há hốc miệng thiếu điều rớt cả quai hàm.

Nghe tôi trình bày xong, anh Hồ quay quay cờ lê mấy vòng, “Tao không hiểu lắm về đồ đồng, nhưng chú mày đúng là người trong nghề, nói năng đâu ra đó, khá đấy.” Đoạn đưa mắt ra hiệu cho mấy tên tay sai lôi Hai Tần vẫn đang nghệt như ngỗng ra ngoài, chỉ để lại tôi và hắn.

“Tước chạm rồng này nếu thực sự quý giá như mày nói, chẳng phải là báu vật quốc gia sao?” Anh Hồ hỏi. Tôi gật đầu. Hắn nhắm mắt trầm tư giây lát rồi lại mở mắt, “Vậy nếu tao nhận lấy, sau này mày hay thằng Tần đi trình báo thì chết tao à?”

Quả nhiên người thông minh trên đời không thiếu, tôi cũng chẳng ngại nói thẳng, “Tôi và Hai Tần hôm nay vừa gặp mặt, chưa bàn xong chuyện mua bán gì hết. Gã định lừa mua rẻ của tôi, nên tôi đành mượn tay anh trị lại.” Chợt bên ngoài có tiếng kêu la thảm thiết, chẳng biết Hai Tần đang bị trừng trị thế nào. Anh Hồ thích thú nghe xong mới hất hàm, “Tao trị nó như ý chú mày rồi đấy. Mày lấy gì cảm ơn tao đây?”

Nghe chừng hắn có ẩn ý. Suy nghĩ trong đầu tôi xoay chuyển thật nhanh, “Chuyện khác không nói, nhưng giám định đồ cổ tôi cũng nắm được đôi phần. Anh có gì cần cứ sai bảo, tôi sẽ dốc hết sức.” Hắn bèn tháo miếng ngọc trên cổ xuống, “Xem xem miếng ngọc này là thật hay giả?” Tôi đón lấy, ra là một chiếc khóa ngọc hình quả đào, mặt phải khắc chìm bốn chữ “cát tường mãn môn”, phía dưới có hoa văn cỏ linh chi, hai bên trổ cửa sổ hình mây*, khá tinh xảo.

Trổ cửa sổ là đục bỏ một phần vỏ ngoài của ngọc, để lộ ra phần ngọc bên trong, thông thường nếu chất ngọc bên trong đẹp sẽ quyết định chất lượng của cả miếng ngọc.

Tôi bèn đáp, “Câu này anh hỏi sai rồi.”

Anh Hồ nhướng mày, tôi liền giải thích, “Ngọc không có thật hay giả, chẳng qua xem anh nhìn nhận nó thế nào thôi.” Hắn ngẫm nghĩ rồi kể đây là khóa ngọc Hòa Điền, hắn được người ta tặng, nghe nói là của gia truyền từ một nhà giàu cuối thời Thanh. Tôi ngắm nghĩa hồi lâu, gõ nhẹ nó vào giá sắt bên cạnh rồi ngoái lại cười hỏi, “Người ta bợ đít anh nên tặng chứ gì?”

“Sao?”

“Đây không phải ngọc Hòa Điền, chắc là ngọc Thanh Hải hoặc ngọc Nga thôi, gõ phát ra tiếng thánh thót, nhưng cũng là hàng đắt đỏ. Có điều nếu nói là ngọc cuối thời Thanh thì tôi e rằng không phải.”

Anh Hồ thích thú ghé sát lại, cầm miếng ngọc lên soi, “Sao chú mày biết?” Tôi đáp là nhờ quan sát, anh nhìn hai chỗ trổ cửa sổ hình mây kia, bên trong có vết mài đúng không nào? Hắn giơ lên đèn soi hồi lâu, gọi cả người đem kính lúp đến mới nói đúng là có thật. Tôi lại tiếp, “Anh xem vết mài này song song với cửa sổ hay vuông góc?”

Hắn nheo mắt ngắm nghía một hồi, đáp rằng song song. Tôi bèn nói, thợ ngọc xưa kia xử lý trổ cửa thường đục một lỗ nhỏ, sau đó dòng cưa dây cắt vòng theo hình cửa sổ rồi cắt bỏ tâm cửa, bởi vậy vết mài thường vuông góc với cửa sổ. Kỹ thuật này rất tốn công, nên thợ ngọc hiện nay đều khoét lỗ, sau đó dùng công cụ mài từng vòng từng vòng, tạo thành vết mài song song với cửa sổ. Nhìn hướng vết mài, có thể đoán được ngọc mới hay cũ.

“Cũng có nghĩa miếng ngọc này là giả hả?”

Tôi lắc đầu, “Là ngọc tốt, nhưng tuổi và chất ngọc bị khai điêu.”

Anh Hồ vỗ tay, “Hay lắm, nghe chuyên nghiệp đấy.”

“Tôi chuyên về kim thạch và đồ ngọc mà.” Tôi bình thản đáp. Với Hai Tần, tôi càng tỏ ra ngốc nghếch thì càng có lợi, nhưng đứng trước gã họ Hồ này lại phải sắm vai tự tin đĩnh đạc.

“Có điều nếu thả chú mày đi cũng không ổn. Chú mày nói muốn tặng quà cho tao, tao không cần, vậy coi như là mày nợ tao đúng không?”

Tôi chửi thầm trong bụng, nhưng hiện giờ cờ lê đang trong tay hắn, món nợ ân tình này tính thế nào đành phải nghe theo hắn thôi.

Đột nhiên, hắn săm soi tôi từ đầu đến chân rồi nói, “Nghe giọng chú mày không giống người Thiểm Tây. Mang vật báu, lại am hiểu đồ cổ như vậy, rốt cuộc mày đến Kỳ Sơn làm gì?” Tôi đương do dự chưa biết nên trả lời ra sao thì hắn xua tay, “Thôi, nếu không liên quan đến tao thì khỏi trình bày.”

Tôi thầm nghĩ, không chủ động tiết lộ vài điều thì khó tránh khỏi nghi ngờ. Tên này xem chừng cũng có vai vế ở đây, nếu nhờ vả được cũng còn hơn tôi mò mẫm tự điều tra, bèn khai thật, “Chẳng giấu gì anh, thằng em đến Kỳ Sơn để tìm người.”

“Ai?”

“Cơ Vân Phù.”

Nghe thấy cái tên này, mắt anh Hồ lóe lên vẻ hung tợn, chậm rãi khoanh tay hỏi, “Chú tìm để báo ơn hay trả thù?” Tim tôi đập thình thịch, chẳng biết phải trả lời ra sao. Anh Hồ và Cơ Vân Phù có ân oán gì tôi không biết, lỡ trả lời sai, cây cờ lê trong tay hắn sẽ không tha cho tôi.

“Không ơn không oán, tôi muốn hỏi một việc thôi.” Tôi đáp. Nếu Cơ Vân Phù sưu tập sách bản Vị, hẳn phải biết nhiều về phòng In sách Học viện Vị Kinh, chưa chừng có thể tìm được manh mối gì đó, nên cũng không phải tôi nói dối.

Anh Hồ có vẻ chưa hài lòng với câu trả lời này, đặt cờ lê xuống rồi bỗng dưng kể bâng quơ, “Hai hôm trước, người ta đào được một tấm bia đá đời Tống ở gần Kỳ Sơn, ngày kia chắc sẽ chuyển đến thị trấn. Thị trấn tổ chức một buổi đấu giá nội bộ. Chú mày đi với tao, giám định thử xem, tao định mua nó.” Dứt lời hắn liếc mắt ra cửa, “Vốn định bảo Hai Tần đi, nhưng nó đúng là đồ bỏ.”

“Nhưng, đây là buổi đấu giá do huyện Kỳ Sơn tổ chức phải không? Tôi là người nơi khác, lai lịch không rõ, làm sao vào được?”

“Cái đó chú mày khỏi lo, cứ theo tao là được, bí thư huyện ủy là cậu ruột tao.” Anh Hồ thản nhiên đáp. Giờ tôi đã hiểu vì sao Hai Tần sợ hắn ta đến vậy, ở huyện lị nhỏ này, bí thư huyện ủy chẳng khác nào ông trời con. Nghe nói ở những nơi xa xôi hẻo lánh như Thiểm Tây, để giải quyết vấn đề tài chính, chính quyền sở tại thường mắt nhắm mắt mở để đám con buôn đồ cổ quen thân mua bán một số di vật văn hóa tầm tầm. Có lẽ anh Hồ này cũng thuộc dạng đó.

Thấy tôi lặng thinh, anh Hồ lại nói, “Chú mày giúp tao, tao cũng sẽ giúp chú mày. Bằng không mày phải trả nợ ân tình cho tao. Công bằng chưa nào?”

Tôi liền vỗ ngực, “Công bằng quá đi chứ. Chuyện gì không nói, riêng về giám định đồ kim thạch, tôi không thua ai đâu.”

Anh Hồ bèn bố trí cho tôi ở một khách sạn xịn hơn hẳn quán trọ tồi tàn ban đầu, chỉ có điều là không cho ra cửa. Suốt ba ngày, tôi phải ở khách sạn chờ. Thừa dịp này, tôi cũng sắp xếp lại tất cả manh mối từ trước đến giờ đồng thời nhờ anh Hồ để ý hỏi han động tĩnh của Kido Kana. Hắn nói cô ta lấy cớ đến giao lưu văn hóa nên cán bộ huyện nào dám lơ là, ngày nào cũng dẫn đi xem chùa chiền các nơi.

Xem ra cô ta đang điều tra manh mối về đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên. Kỳ Sơn gần Càn lăng của Võ Tắc Thiên, chưa chừng dạo quanh các chùa miếu sẽ phát hiện được gì đó - tôi đoán cô ta nghĩ vậy.

Thực ra mục đích của tôi và Kido Kana không hề mâu thuẫn. Cô ta muốn giải mã cuốn sổ tay, tìm hiểu hành trình của ông mình tại Trung Quốc, còn tôi thì cần giải mã cuốn sổ tay thật nhanh để Kido Kana cầm về thuyết phục người ở Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, trả đầu Phật về Trung Quốc. Tuy đường lối khác nhau nhưng chúng tôi chung mục đích.

Có điều tôi không sao tin tưởng cô ta được, cứ cảm giác đằng sau còn ẩn giấu âm mưu gì đó.

Ngoài ra còn một chuyện khác đáng lo hơn.

Hay tin Kido Kana trả lại đầu Phật ngọc không lâu, cục trưởng Lưu lại nhận được một bức thư nặc danh, tố cáo đầu Phật ngọc là giả; sau khi tôi tham gia vào vụ này cũng nhận được mẩu giấy cảnh báo; Trịnh Quốc Cừ từng nhận được điện thoại nhờ đi mua chiếc gương đồng ông tôi để lại. Từng ấy bí ẩn khó giải thích khiến tôi cảm giác có một cặp mắt lúc ẩn lúc hiện cứ lơ lửng trên đầu.

Sở dĩ tôi trốn khỏi làng Trịnh, một là để cắt đuôi Hoàng Yên Yên, Trịnh Quốc Cừ, hai là hy vọng thoát khỏi sự theo dõi ấy, tự do hành động.

Hết ba hôm, anh Hồ dẫn tôi đến nhà khách duy nhất trong thị trấn. Nhà khách trang hoàng rất thời thượng, nào là kính xanh, khung cửa sổ hợp kim nhôm, gạch lát sàn Đại Lý, bên ngoài còn ốp gạch men sứ trắng. Gara tầng một lố nhố người, thấy anh Hồ đến ai nấy đều hồ hỏi bước tới chào hỏi. Chỉ riêng một gã béo phệ khinh khỉnh không buồn nhìn, anh Hồ cũng chỉ cười nhạt, chẳng nói chẳng rằng.

Trong gara rõ ràng chia làm hai phe, lấy gã béo kia và anh Hồ làm hai tâm vòng tròn. Trước đó anh Hồ đã kể sơ qua với tôi, giới đồ cổ huyện Kỳ Sơn có hai thế lực, một là hắn, nói thật ra cũng không phải người trong giới, nhưng dựa hơi ông cậu làm bí thư huyện ủy, thấy miếng nào ngon ăn thì chọc đũa vào; kẻ còn lại chính là tên béo trắng kia, Phong Lôi, nghe nói nhà gã từ thời Minh Thanh đã là thế gia đồ cổ ở Kỳ Sơn.

Một đằng là dân ngoại đạo, một đằng là thế lực bản địa, hiển nhiên đôi bên đều ngứa mắt nhau. Anh Hồ có thần có thế, ngặt nỗi dưới tay toàn thợ sửa xe, không có nhân tài giám định chuyên nghiệp, đành dùng tạm hạng xun xoe dốt nát như Hai Tần. Bởi vậy tôi vừa trổ tài liền được hắn giao luôn trọng trách. Âu cũng là vì thiếu thốn người tài mà thôi.

Trong gara ngoài hai phe này còn một chiếc xe bán tải, đằng sau xe là tấm bia đá cao gần hai mét, đế cố định bằng dây thép, mặt bia đã được lau sạch, trên nền đen nổi lên những hàng chữ Khải nhỏ trắng xóa, chung quanh chạm rồng mây trang trí.

Thực ra những thứ này đều là văn vật cấp hai trở lên, cấm mua bán. Nhưng đồ đào được hằng năm ở Kỳ Sơn quá nhiều, một tấm bia thời Tống cũng chẳng là gì, mà ngân sách huyện lại túng thiếu, thôi thì mắt nhắm mắt mở bán đi vậy.

Một người trông như cán bộ từ trên xe bước xuống nhìn quanh, thấy tôi thì khẽ cau mày, anh Hồ phải ghé tai nói nhỏ mấy câu mới gật gù, không truy hỏi.

“Ôi chao, anh Hồ đến rồi. Khéo quá cái xe này đang hỏng, anh xem thử.” Phong Lôi châm chọc. Anh Hồ thản nhiên châm thuốc hút. Phong Lôi bồi thêm, “Ai chẳng biết anh Hồ của chúng ta phải xếp hạng nhất nhì Kỳ Sơn về tay nghề sửa xe ấy chứ.” Đoạn gã giơ ngón cái, hất hàm về phía tấm bia đá.

Đám người vây quanh cười rộ lên, mấy tên tay chân của anh Hồ điên tiết xông đến định ẩu đả nhưng bị ngăn lại. Phong Lôi cười ha hả, “Anh Hồ giỏi kiềm chế ra phết, chắc dạo này đọc thêm được dăm quyển sách, bắt đầu tu thân dưỡng tính hả? Tốt lắm, đọc nhiều vào, đỡ bị hố vì vô văn hóa.”

Nghe giọng điệu, chừng như trước đây anh Hồ từng bị gã làm cho bẽ mặt. Nghề buôn đồ cổ này yêu cầu kiến thức chuyên ngành rất cao, dân ngoại đạo thường bị lừa như cơm bữa. Một tay thợ sửa xe chẳng hiểu biết gì định cậy thần cậy thế chen chân vào giới đồ cổ, rất dễ khiến người trong nghề ngứa mắt.

Trước thái độ khiêu khích của Phong Lôi, anh Hồ chẳng ừ hử gì, trái lại tay cán bộ kia nhíu mày quát, “Này Lôi béo, muốn tham gia thì ít mồm thôi, còn lải nhải nữa tôi đuổi ra bây giờ!” Phong Lôi cười ha hả, chắp tay với anh ta rồi lùi xuống. Anh Hồ chậm rãi bước đến gần tôi nói nhỏ, “Thấy rõ chưa? Lát nữa chú liệu mà xử lý nó nhé.” Tôi gật đầu.

Ngoài Phong Lôi và anh Hồ, còn mấy thương nhân bản địa lẫn ngoại tỉnh nữa, nhưng rất biết điều, chỉ đứng yên một chỗ.

Tay cán bộ nhìn đồng hồ, rồi đề nghị bắt đầu. Hai người đi ra đóng sập cửa lại, cả gara thoắt chốc tối sầm. Lại “tách” một tiếng, bốn ngọn đèn lớn ở bốn góc sáng bừng lên, soi tỏ từng hạt bụi lơ lửng, không khí thoắt chốc nghiêm trang hẳn.

Tay cán bộ nhảy lên xe bán tải, vịn tay vào tấm bia, giới thiệu quy tắc đấu giá. Dù chính quyền đứng ra tổ chức, nhưng vẫn theo quy tắc của giới đồ cổ, gọi là “vãi đậu thành binh”. Người tham gia gọi là “thần tiên”, ai nấy cầm một nắm đậu, một cái bát, trước hết phải quy ước một hạt đậu là bao nhiêu tiền. Lúc gọi giá thì đếm đậu bỏ vào bát, đẩy tới trước mặt “phán quan”. “Phán quan” nhìn tất cả đậu trong bát, đẩy trả bát ít đậu nhất, còn lại dựa theo số đậu mà lần lượt trả cho các “thần tiên”. Vòng sau chỉ được thêm đậu không được bớt. Cứ thế quay vòng, đấu giá đến khi nào chỉ còn một bát thì thôi.

Quy tắc này hay ở chỗ cả quá trình chỉ mình “phán quan” biết các “thần tiên” ra giá bao nhiêu. Các “thần tiên” chỉ biết số đậu của mình xếp hạng thứ mấy, chứ không rõ người hơn và kẻ kém rốt cuộc bỏ bao nhiêu đậu. Như vậy sẽ không có tình trạng giá sau đè giá trước như đấu giá công khai, mọi người khỏi mất lòng, ai cũng có thang để xuống, hòa khí sinh tài.

Anh Hồ, Phong Lôi và ba người khác mỗi người được chia cho một chiếc bát tô sứ Thanh Hoa và một nắm đậu. Tay cán bộ giao hẹn, “Các vị cho người lên xem hàng trước đi.” Thấy anh Hồ đưa mắt ra hiệu, tôi liền trèo lên xe, đứng ngắm nghía tấm bia đá cùng bốn người nữa.

Xét hình thức thì tấm bia này mang phong cách điển hình thời Tống, nền đen chữ trắng. Trên đầu là song long tranh châu, chạm trổ tinh xảo, bên dưới là hơn nghìn chữ ghi lại cuộc đời của chủ nhân bằng thể Tiểu Khải như phượng múa rồng bay, tiếc rằng lạc khoản ngày tháng đã bị bào mòn, không nhìn ra được nữa.

Theo nội dung văn bia thì chủ nhân tấm bia này là phú hào ở Kỳ Sơn. Bấy giờ Thiểm Tây bị quân Kim chiếm đóng, người nọ nhớ thương nước cũ, uất quá mà chết.

Văn bia có nói lúc lâm chung ông ta còn ngâm bài “Dặn con” của Lục Du, vậy thì tấm bia này chí ít cũng phải khắc sau khi Lục Du từ trần năm 1210. Dương thời bài thơ này có sức ảnh hưởng vô cùng lớn, được truyền tụng khắp nơi, truyền đến cả Thiểm Tây cũng chẳng có gì lạ.

Tấm bia này có giá trị lịch sử phong phú, không thể rẻ. Tôi quan sát một lượt, nhận ra bốn kẻ kia mắt sáng rỡ, thầm biết họ cũng đã nhìn ra giá trị món hàng. Tiếp theo đây mới là gay cấn. Chúng tôi phải dựa theo kết quả giám định để tính giá tấm bia, đồng thời đoán xem đối thủ sẽ bỏ bao nhiêu tiền. Theo thuật ngữ kinh tế học thì là tìm cho ra điểm dừng lỗ, ai tìm được thì thắng.

Chúng tôi nhảy xuống xe, ai về chỗ nấy. Anh Hồ hỏi nhỏ, “Thấy sao?” Tôi gật gù, “Hàng tốt đấy.” Hắn thở phào, đếm lấy vài hạt đậu trong túi bỏ vào bát đẩy tới trước mặt “phán quan”. Những người kia cũng lục tục ra giá, trước mặt “phán quan” chềnh ềnh năm cái bát. “Phán quan” lần lượt mở bát xem kỹ rồi đậy lại, đẩy một bát trả về. Người bị trả bát vỗ trán rầu rĩ, ném nắm đậu vào miệng nhai rào rạo.

Kết quả Phong Lôi xếp hạng nhất, sau đó là anh Hồ, hai người còn lại lần lượt đứng thứ ba và bốn.

Phong Lôi cười nhạt, bỏ thêm mấy hạt đậu vào bát rồi đẩy tới trước mặt “phán quan”, vẻ khiêu khích. Vòng đấu giá thứ hai vừa mở bát, một người nữa lại bị loại, lần này anh Hồ ra giá cao nhất, được xếp hạng đầu, Phong Lôi tụt xuống hạng hai.

Ba người đều thầm phán đoán không biết đối thủ bỏ bao nhiêu đậu vào bát. Nếu bỏ ít thì sợ bị qua mặt; bỏ nhiều lại sợ hớ. Anh Hồ hỏi tôi tiếp theo phải bỏ thế nào, tôi nghĩ ngợi giây lát rồi cố tình lớn tiếng nói, tấm bia này có vấn đề, e là đồ giả. Phong Lôi liền phá lên cười ha hả, nói đúng là người được anh Hồ mời đến, văn hóa lùn như nhau. Tay cán bộ kia khó chịu ra mặt, vặn hỏi tôi tại sao lại nói vậy.

Tôi chắp tay sau lưng, đi mấy bước quanh tấm bia, “Tấm bia này bất luận về hình thức hay chất liệu, đều được làm hoàn hảo kín kẽ. Ngay cả văn bia cũng phỏng theo văn phong súc tích thời Tống. Tiếc rằng lại bỏ qua một điểm quan trọng nhất, để lộ sơ hở to tướng.”

Thấy tất cả đổ dồn mắt vào mình, tôi cười, “Thuở ấy cả dải Thiểm Tây đều bị quân Kim chiếm đóng, đúng chưa?”

“Phải.” Phần lớn mọi người đều gật đầu. Đây là kiến thức lịch sử phổ thông.

“Văn bia từ đầu đến cuối toàn nhớ nhung nước Tống, chỉ mong chóng ngày được trở về cố quốc, thậm chí còn trích dẫn cả ‘Dặn con’ của Lục Du, ‘ngày nào thu lại miền Trung Thổ’. Dưới mắt người Nữ Chân, hành vi này rõ ràng là phản nghịch. Nghĩ mà xem, thứ này lại có thể ngang nhiên dựng trong vùng quân Kim chiếm đóng ư? Dù chủ mộ đã chết nhưng còn con cháu và gia tộc thì sao? Ông ta không sợ liên lụy đến dòng họ à?”

Lời này vừa thốt ra, người trong gara đều sững sờ, chụm đầu ghé tai xôn xao bàn tán. Tôi sợ anh Hồ không hiểu, còn giải thích thêm, “Cũng như giương băng rôn đả đảo chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản ngay giữa đường phố Bắc Bình vào thời Thế chiến vậy.” Anh Hồ dốt văn hóa nhưng cũng từng xem phim ảnh về thời Thế chiến, liền hiểu ra ngay.

Tay cán bộ hầm hầm, “Anh là cái thá gì mà nói đồ giả thì nó thành đồ giả? Vãi đậu thành binh đã xong đâu.” Tôi lập tức xin lỗi, anh Hồ cũng lên tiếng dàn hòa.

Có điều mấy câu nói của tôi đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ. Phong Lôi biến sắc, vội giữ chặt lấy bát, lén hé ra xem. Người bên cạnh gã hình như bắt đầu tranh cãi, khiến gã hơi lúng túng, cứ nắm chặt đậu trong tay, phân vân mãi không biết bỏ vào đâu.

Anh Hồ thích chí nhìn Phong Lôi, ra hiệu khen ngợi tôi rồi thì thào hỏi, “Chúng ta có định vãi đậu nữa thôi?” Tôi đáp, “Vãi chứ sao không? Hàng tốt cơ mà.”

Anh Hồ bực bội, “Chú chẳng bảo là hàng giả à?” Tôi liếc mắt, “ Anh bảo phải trị cho Lôi béo một trận cơ mà?” Anh Hồ sáng mắt lên, theo lời tôi, bỏ thêm mấy hạt đậu nữa vào bát.

Luật của vãi đậu thành binh là hoặc chịu thua hoặc chơi đến cùng. Đám Phong Lôi nửa tin nửa ngờ, song đành chơi tiếp, có điều cân nhắc rất kỹ mới bỏ đậu, nên vòng thứ ba anh Hồ vẫn hạng nhất, Phong Lôi hạng nhì, thương nhân từ nơi khác đến kia chịu thua, bị loại.

Thấy vậy, tôi cười ha hả. Phong Lôi cáu kỉnh hỏi tôi cười gì. Tôi bèn đáp: “Cười mấy thằng văn hóa lùn lại đa nghi, chưa gì đã xơi ngay quả đắng.” Phong Lôi nổi điên quát, “Mày bảo ai?”

Tôi nheo mắt, “Sao nào, nghe tôi nói mấy câu đã sinh nghi không dám bỏ đậu nữa rồi hả?”

“Mẹ kiếp! Mày là cái thá gì, ông bỏ đậu phải nhìn mặt mày chắc?”

Tôi nhún vai, leo lên xe trỏ tấm bia, “Vừa rồi các vị xem hàng, không thấy lằn ranh dưới chân bia à?”

Anh Hồ ngơ ngác, “Lằn ranh gì cơ?”

Tôi ngồi xuống, chỉ dưới chân bia, “Muốn dựng bia đá, phải chôn một phần chân bia xuống đất. Trải hơn nghìn năm, phần trên dãi nắng dầm mưa, phần dưới bị đất nước xói mòn, trên dưới sẽ khác nhau, ở giữa tạo thành một lằn ranh phân cách. Lằn ranh này gọi là đường Âm Dương, tượng trưng cho sự phân cách giữa hai thế giới trên và dưới đất. Vậy mà tấm bia này…”

Tôi lướt ngón tay qua, mọi người trong gara đều thấy rõ, màu sắc chân bia chẳng khác gì phần phía trên.

“Thế chẳng phải càng chứng tỏ là đồ giả ư?” Một người lên tiếng. Phong Lôi và mấy thương nhân khác đều thở phào nhẹ nhõm, riêng anh Hồ hơi cuống, không hiểu tôi có ý gì.

Tôi ngạo nghễ giẫm một chân lên thành xe, nhìn xuống đám người bên dưới, “Tôi không cho là vậy. Các vị nghĩ kỹ mà xem, đường Âm Dương và văn bia, nếu xét riêng từng cái thì chứng tỏ tấm bia này là giả. Nhưng nếu gộp chung vào, lại có thể đưa ra một kết luận hoàn toàn trái ngược.”

“Ý mày là sao?” Phong Lôi hói.

“Anh thử nghĩ xem, vì sao tấm bia này không có đường Âm Dương? Vì sao văn bia dám ngang nhiên tưởng nhớ nước Tống ngay trong vùng quân Kim chiếm đóng? Đáp án chỉ có một.” Tôi giơ một ngón tay, nói thật chậm, thu hút tất cả ánh mắt, “Đây không phải bia đá, mà là bia âm.”

Những kẻ trong nghề nghe tới hai chữ này đều trợn tròn mắt. Tôi giải thích với anh Hồ, “Bia âm được đặt bên trong mộ. Mộ xây bằng đá, bia khảm trong đá, dĩ nhiên không có đường Âm Dương. Sau khi đóng cửa mộ, cũng chỉ có chủ mộ biết văn bia viết gì mà thôi, người khác không thể điều tra được.”

“Vậy tấm bia này là thật hả?”

“Thật hay giả các vị tự đoán lấy, biết đâu tôi lừa gạt thì sao.” Tôi liếc tay “phán quan” cán bộ kia rồi nhảy xuống xe, đi đến cạnh anh Hồ. Hắn vỗ vai khen tôi lên tận mây xanh, nói rằng chỉ cần nhìn gương mặt nhăn như bị của Phong Lôi đã thấy đáng tiền. Ba tên bị loại kia cũng đua nhau cười trên nỗi đau người khác.

Giờ kẻ phải chịu áp lực lớn nhất không ai ngoài Phong Lôi. Gã vốn tính đa nghi, nghe tôi nói một tràng hư hư thực thực lại càng hoang mang, không biết nên bỏ đậu hay thôi. Lúc này gã chẳng lọt tai lời ai nữa, mấy kẻ phụ trách giám định đi cùng toan nêu ý kiến, song đều bị gã gạt phắt đi, đành nín thít.

Trong thực có hư trong hư có thực, ấy là đạo dùng binh, cũng là đạo đấu giá. Giờ chỉ còn anh Hồ và Phong Lôi đọ giá, Phong Lôi lại bị tôi xoay mòng mòng, chẳng biết nên bỏ bao nhiêu thì vừa. Tiếp theo đây chỉ cần anh Hồ nắm lấy cơ hội thì thừa sức nuốt trọn tấm bia, hoặc ép cho Phong Lôi mua hớ. Bất luận thế nào, hắn cũng được một phen tha hồ trút giận.

Chỉ nghe tay cán bộ hô, “Vòng cuối cùng, hai vị ‘thần tiên’ vãi đậu đi.” Anh Hồ được tôi gợi ý, thong dong bỏ đậu đậy bát lại, đẩy tới trước mặt “phán quan”. Còn Phong Lôi cứ chần chừ mãi không đậy lại được, “phán quan” phải giục mấy lần, hắn vẫn không dám xuống tay. Đám lâu la đi theo anh Hồ được thể cười rú lên chế nhạo, khiến hắn giận tím mặt lại.

Đúng lúc “phán quan” gọi giá lần cuối cùng thì cửa gara bật mở, hai người từ bên ngoài điềm nhiên bước vào, khiến mọi người bên trong giật bắn mình. Buổi đấu giá này thực ra là bất hợp pháp, nếu bị khui thì đừng nói những người tham gia bị khép tội mà ngay cả chính quyền huyện cũng bị truy cứu trách nhiệm. Bởi vậy nhà khách này được canh gác rất nghiêm, những người không phận sự đừng hòng bước vào nửa bước.

Vậy mà hai người này có thể thong dong tiến vào, khiến người ta không khỏi suy đoán, chẳng rõ lai lịch họ thế nào.

Người đến gồm một nam một nữ, nam chừng ngoại tứ tuần, mặt vuông, mày dài lạ thường, dưới cằm để một chòm râu vắt ngang, tác phong nho nhã như người đọc sách, nhưng sắc mặt hơi tái. Người nữ tôi còn quen mặt hơn, chính là Kido Kana.

“Nguyện này,” anh Hồ gọi tôi lại, trỏ người đàn ông kia, “chú mày muốn tìm Cơ Vân Phù hả? Chính là hắn đấy.”

Tôi kinh ngạc, hóa ra kẻ kia là Cơ Vân Phù, anh ta làm thế nào mà bắt tay được với Kido Kana nhỉ?

Xem chừng Cơ Vân Phù cũng có vai vế ở Kỳ Sơn, vừa bước vào, tất cả đã tự động nhường đường. Tay cán bộ phụ trách đấu giá cũng bước tới chào hỏi, “Thầy Phù cũng đến đấu giá à? Tiếc quá, chúng tôi đến vòng cuối rồi, thầy xem…” Cơ Vân Phù xua tay, “Yên tâm, tôi không đến đấu giá đâu, chẳng qua dẫn cô bạn người Nhật này tới tham quan chút thôi. Các vị cứ tiếp tục đi.”

Giọng anh ta trầm trầm mà cuốn hút, nghe cứ như phát thanh viên trên đài phát thanh trung ương. Tay cán bộ kia vỡ lẽ, nhìn Kido Kana mỉm cười. Anh Hồ quay sang hậm hực bảo tôi, Cơ Vân Phù thường dắt người nước ngoài đến tận hiện trường thu mua đồ cổ.

Phong Lôi đang hoang mang thấp thỏm, thấy Cơ Vân Phù đến thì mừng cuống lên. Tuổi gã xấp xỉ Cơ Vân Phù, nhưng thái độ cứ như trẻ con bị bắt nạt chạy về mách bố vậy. Cơ Vân Phù mỉm cười nghe gã trình bày rồi đưa tay làm hiệu với cán bộ: “Tôi xem tẹo được không?” Tay cán bộ nhìn anh Hồ, thấy hắn khoát tay, xem như đồng ý.

Cơ Vân Phù liền chắp tay vái anh Hồ rồi vén vạt áo, thoắt cái đã nhảy lên xe bán tải, tức thì bên dưới hoan hô rầm rầm. Anh ta lượn quanh tấm bia đá hai vòng, giơ tay sờ văn bia rồi nhảy xuống, ghé tai Phong Lôi thì thầm mấy câu, Phong Lôi gật đầu lia lịa.

Anh Hồ chột dạ bảo tôi, “Liệu có xảy ra chuyện gì không?” Tôi vỗ ngực, “Anh yên tâm đi, vòng cuối rồi, chẳng lẽ họ đổi trắng thay đen được sao.” Vừa nói tôi vừa lén liếc sang, phát hiện Cơ Vân Phù nửa vô tình nửa cố ý nhìn sang phía mình cười cười, chẳng hiểu là ý gì.

Nghe “phán quan” cao giọng giục ra giá, anh Hồ và Phong Lôi vội đậy nắp lại, đẩy bát ra. Theo quy tắc vãi đậu thành binh, vòng cuối cùng này phải mở ra xem đồng thời mới công bằng. “Phán quan” mỗi tay cầm một nắp, đồng loạt mở ra, một bên là mười, một bên là chín hạt đậu tương.

“Anh Hồ nhiều hơn!” “Phán quan” tuyên bố.

Một hạt đậu tương ứng với hai nghìn tệ, mười hạt là hai vạn. Ở Kỳ Sơn, con số này có thể coi là cực lớn. Theo tôi đoán, lúc trước Phong Lôi đã bỏ tám hoặc chín hạt, theo quy định, mỗi vòng đều phải bỏ thêm, vậy mà giá cuối của hắn chỉ có chín hạt, chứng tỏ sau khi nghe lời Cơ Vân Phù, Phong Lôi đã quyết định không ra giá nữa, cũng có nghĩa là chịu thua.

Anh Hồ vui đến đỏ gay mặt mũi, giao tiền ngay lập tức, đám người xung quanh cũng xúm lại chúc tụng ầm ĩ. Tôi không muốn xuất đầu lộ diện nên lánh sang một góc, tránh để Kido Kana nhận ra. Đúng lúc này Phong Lôi chợt phá lên cười, “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, các người đấu sao lại Cơ tiên sinh.”

Anh Hồ nhíu mày, “Lôi béo, thua là thua, bơm đểu thế này còn phong độ gì nữa?” Phong Lôi đốp ngay, “Đây chưa thua mà đằng ấy cũng không thắng đâu. Bỏ ra nửa ngày xem đằng ấy vung hai vạn tệ ra rước lấy thứ đồng nát kia về lợp chuồng gà, cũng mua vui được vài trống canh đấy.”

“Mẹ nó, đã thua còn già mồm. Ông đây cũng có chuyên gia giám định, Cơ tiên sinh cứ thử nói xem thế nào.” Anh Hồ khoanh hai tay trước ngực, bảo tôi đứng ra phía trước. Thấy không tránh được, tôi đành trơ mặt bước lên. Trông thấy tôi, Kido Kana khẽ chớp mắt, mặt không đổi sắc. Hai chúng tôi nhìn nhau, ánh mắt đầy thâm ý.

Cơ Vân Phù cười, “Tôi chỉ giám định giúp cậu Lôi, tiện miệng nói mấy câu thôi, có là gì đâu.” Anh ta khiêm tốn, nhưng anh Hồ quyết không tha, “Cơ tiên sinh cũng là người có vai vế ở Kỳ Sơn, một lời nặng bằng chín đỉnh.

Mấy câu của ông lọt ra ngoài, dù bia của tôi là thật cũng bị đồn thành giả thì sao?”

Bị anh Hồ năm lần bảy lượt dồn ép, Cơ Vân Phù đành lắc đầu bước lên bảo tôi, “Vừa rồi tôi nghe cậu Lôi kể, cậu không chỉ xem xét riêng tấm bia, mà còn kết hợp cả đường Âm Dương và văn bia, lại liên hệ cả với hoàn cảnh bấy giờ để suy luận, quả là cao thủ giám định, tôi hết sức khâm phục. Có điều cậu lại bỏ sót mất một điểm.”

“Ồ? Tôi sơ sót ở đâu vậy?” Tôi bình thản hỏi lại.

Vừa rồi tôi đã âm thầm suy xét về tấm bia kia cả chục lượt, tự thấy mọi phương diện đều kín kẽ, không có vấn đề gì cả. Dù có cũng phải viện đến thiết bị tối tân kiểm tra may ra mới biết, tôi không tin Cơ Vân Phù chỉ đi hai vòng mà nhìn ra được vấn đề.

Cơ Vân Phù như đang đứng giữa giảng đường đại học, giơ tay chỉ: “Cậu xem thử bài ‘Dặn con’ này của Lục Phóng Ông đi.”

Văn bia dẫn toàn bộ bài “Dặn con” bốn câu, “Vốn biết chết rồi là hết chuyện, chín châu chỉ tiếc chửa sum vầy, ngày nào thu lại miền Trung thổ, cúng bố đừng quên khấn bố hay*” để tỏ lòng đau đáu nước cũ của chủ mộ. Cơ Vân Phù cười hỏi, “Đã thấy gì chưa?”

Bản dịch của Nam Trân.

“Chỉ giỏi tung hỏa mù.” Tôi cười nhạt. Bốn câu này vốn có trong sách giáo khoa tiểu học, tôi thuộc như cháo chảy từ lâu, còn có vấn đề gì được nữa.

“Bài này của Lục Phóng Ông vừa viết ra đã vang danh khắp đại giang Nam Bắc, vô số chí sĩ cảm động dạt dào trước tấm lòng yêu nước của ông ta. Đúng như lời cậu Nguyện, Kỳ Sơn là đất tổ của Trung Hoa, có rất nhiều người yêu nước. Bài thơ này được truyền đến đây, rồi được khắc lên bia mộ cũng là lẽ đương nhiên…” Cơ Vân Phù rủ rỉ giải thích, rồi đột nhiên vặn lại một câu, “Nhưng trong bài thơ này có một chữ không thể xuất hiện ở thời Nam Tống được.”

Tim tôi thót lại, nhận ra sự việc có phần không ổn. Cơ Vân Phù chạm nhẹ ngón tay vào mặt bia, dừng ở chữ nọ.

Là chữ “vốn” trong câu đầu tiên.

“Chữ này có vấn đề gì?”

Cơ Vân Phù dùng ngón tay viết chữ “nguyên” lên không trung. “Trước thời Minh không có chữ vốn, người ta đều dùng chữ nguyên, ví như hai câu cuối bài ‘Hố đốt sách’: ‘tro chưa kịp nguội Sơn Đông loạn, Lưu Hạng nguyên phường võ biền thôi’, về sau Chu Nguyên Chương diệt nhà Nguyên, đoạt được thiên hạ, không thích chữ ‘nguyên’ nên mới đổi sang chữ ‘vốn’. Nói cách khác, tấm bia này ít ra cũng phải đến thời Minh mới có.”

Anh ta thuận miệng trích dẫn kinh điển, nhưng đầu tôi lại ong lên. Lần này đúng là được người ta tát cho sáng mắt ra.

Bia Minh, bia Tống vốn không cùng đẳng cấp, giá cả cũng khác nhau trời vực. Thực không ngờ tôi tự tin đầy mình mà lại sẩy chân trước một chữ cỏn con. Trước đây tôi từng nghe nói có rất nhiều chuyên gia lão luyện chỉ nhìn lầm một lần mà tai tiếng cả đời, giờ mới thật sự hiểu được nỗi đau đớn và thảng thốt của họ khi sự thật bị vạch trần.

“Cậu quá đặt nặng đồ vật mà bỏ qua sự thay đổi văn tự.” Cơ Vân Phù vẫn ôn hòa điềm đạm, “Nhà tôi có mấy cuốn sách quý đời Tống, trong đó có rất nhiều ví dụ chứng minh, nếu cậu muốn xem thêm, tôi sẽ cho mượn.”

Nhưng tôi nào nghe được ông ta nói gì nữa. Từ sau khi dính vào việc của năm phái, tôi chỉ dựa vào một cuốn Tố đỉnh lục mà qua ải chém tướng, giám định ấn đời Hán, đánh bại Dược Bất Nhiên, vượt qua vòng kiểm tra của người đứng đầu các phái, chưa từng sơ sẩy. Nhưng lần này ở Kỳ Sơn lại thua về tay kẻ khác… Đòn đả kích này khiến tôi nhất thời khó tránh ngẩn ngơ.

Anh Hồ cũng sững sờ chẳng kém. Tuy không hiểu chúng tôi nói gì, nhưng hắn cũng nghe ra mình đã phí tiền rước về đồ dỏm. Hơn nữa đây còn là buổi đấu giá do chính quyền tổ chức, trước khi tham gia được xem hàng cẩn thận, mua phải đồ dỏm chỉ coi như xui xẻo, dù là cháu bí thư huyện ủy cũng đừng hòng trả lại.

Hắn sầm mặt nhìn tôi “Tao nhớ chú mày đã vỗ ngực bảo đảm rồi cơ mà” Vừa nói vừa quay cây cờ lê chẳng biết rút ra từ lúc nào. Tôi định giải thích nhưng cổ họng khô khốc, nói không ra lời tay bất giác run bắn lên. Mấy tên lâu la dưới trướng hắn cũng hầm hè vây chặt lấy tôi, khác hẳn thái độ kính cẩn khi trước. Cũng tại tôi sơ suất làm gã mất hai vạn tệ còn bẽ mặt trước Phong Lôi, tính hắn xưa nay ăn miếng trả miếng, chịu bỏ qua mới lạ.

Đột nhiên, Cơ Vân Phù đi đến trước mặt anh Hồ “Cho tôi nói với cậu ta mấy câu được không?”

“Để tôi nói với nó xong đã, nếu nó còn mạng thì nói với ông sau.” Anh Hồ đáp.

“Đã đi săn, ai chẳng có lúc sơ sẩy bị nhạn mổ mắt. Nếu anh Hồ không vui, chi bằng tới chỗ tôi, ưng món nào chọn món đó. Tuy tôi không có nhiều đồ quý nhưng mấy món tàm tạm cũng không phải không có.” Ý anh ta muốn dùng một món đồ cổ để đổi lấy tôi. Tôi khá bất ngờ, chẳng biết vì sao Cơ Vân Phù lại hào phóng vung tiền vì một người hoàn toàn xa lạ như vậy nữa.

Không ngờ anh Hồ cười khẩy. “Ai cần lấy đồ của ông. Tôi bảo cho ông biết, thằng ranh này là tôi dẫn đến, hôm nay tôi phải đưa đi, đừng hòng ngăn được.” Cơ Vân Phù định khuyên can thêm, nhưng tôi đã ngẩng lên nói cứng, “Cơ tiên sinh, ý tốt của anh tôi xin nhận. Có điều giám định giúp người ta, cũng có lúc nhìn lầm. Đây là lỗi của tôi, tôi phải chịu trách nhiệm.”

Dứt lời tôi sửa lại vạt áo, nhìn anh Hồ ra hiệu mời đi. Hắn cũng chẳng buồn khách sáo, nắm lấy cánh tay tôi lôi ra ngoài. Người xung quanh hoặc hí hửng xem trò như Phong Lôi, hoặc lạnh tanh như tay cán bộ, chẳng ai buồn ngăn cản.

Đúng lúc này, một bóng dáng nhỏ nhắn lạng người chắn giữa cửa gara, khiến cả tôi và anh Hồ đều ngẩn ra, nhìn kỹ hóa ra là Kido Kana. Vừa rồi nghe Cơ Vân Phù giới thiệu, anh Hồ cũng biết cô ta là khách quý người Nhật, không tiện đẩy phắt ra, chỉ nhíu mày, “Ông đây không đánh đàn bà con gái, tránh đường đi.” Kido Kana cúi gập người rồi hỏi bằng giọng lơ lớ, “Ông Hồ, tôi có một việc, chỉ ông mới giúp được thôi.”

“Việc gì?”

“Người này rất quan trọng với tôi, phiền ông giơ cao đánh khẽ được không?” Kido Kana trỏ tôi.

Anh Hồ điên tiết quát, “Đừng cậy là người nước ngoài mà ông rén nhé. Hôm nay ông nhất định phải đưa thằng này đi!” Kido Kana nghe vậy thì rưng rưng nước mắt, liên tục cúi gập người, khiến hắn không khỏi bối rối, gãi đầu bực dọc gắt, “Nó là gì của cô?”

Kido Kana hít sâu một hơi, mặt đỏ ửng, “Anh ấy… ừm… là người yêu tôi.”

Lần này đừng nói anh Hồ mà cả tôi cũng sững sờ. Cô ả này đúng là gan thật, tính đi tính lại chúng tôi mới gặp chưa được đến ba lần, vậy mà dám xưng xưng nhận tôi làm người yêu? Anh Hồ nghi hoặc nhìn sang tôi gặng hỏi. Tôi đành ngượng nghịu cười không đáp.

Vừa hay từ bên ngoài có một kẻ xồng xộc chạy vào, ghé tai hắn thì thầm mấy câu. Anh Hồ kinh hãi, “Cậu tao bảo thế à?” Tên kia gật gật đầu. Anh Hồ đành nghiến răng bảo Kido Kana, “Cô em dẫn người đi cũng được, nhưng hai vạn tệ của anh làm thế nào đây?”

Kido Kana vội đáp, “Tôi đã hứa với ông Vương, đại diện chính quyền huyện rằng, sẽ giới thiệu họ với quỹ văn hóa Nhật để xin kinh phí cho công tác nghiên cứu văn hóa Kỳ Sơn, mong đến lúc đó ông có thể tham gia.”

Nghe vậy, đám người trong gara nhất loạt ồ lên, tất cả đều là hạng lõi đời, vừa nghe đã hiểu ngay vấn đề. Xem ra cô nàng Kido Kana này cũng là kẻ có vai vế ở Nhật, có thể kéo được một khoản thu ngoài quy định về cho huyện, bí thư huyện ủy dĩ nhiên không đời nào để thằng cháu ngoại phá bĩnh. Anh Hồ nghênh ngang đến đâu cũng không dám chống đối ông cậu. Mọi người tức thì đổ dồn mắt vào cô nàng mảnh mai trước mặt, rồi lại nhìn sang tôi, hẳn đang liên tưởng đến bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu.

Anh Hồ đặt tay lên vai tôi, cây cờ lê nặng trịch chọc thẳng vào yết hầu tôi lạnh ngắt, “Lần này thằng chó nhà mày núp được váy đàn bà, nhưng lần sau cứ liệu đấy. Đã yếu đừng có ra gió. Không phải ai cũng tử tế như bố mày đâu.” Đoạn hắn nhấc cờ lê ra, hùng hổ đi thẳng.

Anh Hồ đi rồi, mọi người cũng nhao nhao kéo đi hết, Cơ Vân Phù và Kido Kana đi đến trước mặt tôi. Kido Kana đưa tay sửa lại cổ áo xộc xệch cho tôi, còn phủi hộ bụi trên vai áo, hệt như nàng dâu mới. Thực lòng, tôi không muốn gặp cô nàng trong tình cảnh này chút nào. Chưa thu được tin gì đáng giá, lại tự dưng phải chịu ơn cô ta, về sau tôi làm sao ngẩng mặt lên trước cô ta được nữa.

Dường như nhận ra tôi đang thẹn, Cơ Vân Phù cười cười không nói, vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Rời khỏi nhà khách, đã thấy một con xe jeep Bắc Kinh đậu ngay trước cửa. Cơ Vân Phù chui vào ghế lái, tôi và Kido Kana ngồi xuống ghế sau. Kido Kana bảo tôi, “Chúng ta về chỗ anh Cơ, ở đó rất an toàn, không ai biết cả.”

Tôi đưa mắt nhìn sang, Kido Kana nhoẻn cười gật mạnh đầu. Ý rằng sẽ không tiết lộ hành tung của tôi cho Phương Chấn, cục trưởng Lưu hay người của năm phái -xem ra cô ả cũng đã nghe nói việc tôi mất tích ở An Dương.

Tôi thầm thắc mắc, không hiểu có phải cô ta định giữ bí mật cho tôi, đổi lại đòi tôi phải tiết lộ tin tức hay không. Cô ta đưa tôi tới chỗ Cơ Vân Phù để làm gì? Cơ Vân Phù là nhà sưu tầm sách bản Vị lừng danh Kỳ Sơn, liệu có liên quan gì đến nhóm của ông nội tôi không? Kido Kana đã tìm thấy manh mối gì về tượng Quan Công đồng xanh ở Kỳ Sơn chưa?

Hàng loạt câu hỏi quanh quẩn hiện lên, tôi bỗng chỉ muốn túm lấy Kido Kana mà lay lắc cho bật ra hết những điều cô ta biết, vẻ mặt cũng dữ tợn hẳn lên. Bắt gặp ánh mắt tôi, Kido Kana sợ hãi né sang một bên. Bấy giờ tôi mới sực tỉnh, vội điều chỉnh lại nét mặt, gượng gạo quay đi. Kido Kana chớp mắt rồi phì cười, hẳn là vì trông tôi ngô nghê quá mức.

Xe jeep nhằm thẳng hướng Bắc, chẳng bao lâu đã đến một nơi yên tĩnh ở ngoại ô Kỳ Sơn. Phong cảnh xung quanh rất đẹp, lưng dựa núi xanh sừng sững, trước mặt có dòng sông nhỏ, thoạt trông cứ tưởng đang ở Giang Nam, chẳng giống quang cảnh Thiểm Bắc đất vàng dốc đứng chút nào. Xe jeep rời đường cái chạy vào đường đất, xóc nảy chừng mười mấy phút thì dừng trước một ngôi nhà.

Ngôi nhà này rất cổ kính, tường bao cao ngất bằng gạch xanh, chính diện hai cánh cửa sơn son, phía trên là mái ngói nhô ra, trông cực kỳ bề thế. Đầu tường trổ mấy lỗ châu mai, tiếc rằng đã bị cỏ hoang lấp đầy, đôi chỗ còn có dấu hiệu sạt lở. Cơ Vân Phù giới thiệu, “Đây là nhà cũ của tôi trước giải phóng, thoạt đầu bị tịch thu làm xưởng vẽ, giờ mới trả lại cho tôi một phần.”

Anh ta xuống xe, rút chìa khóa mở cửa rồi dẫn chúng tôi vào. Chủ nhà này trước đây hẳn là người quyền thế, chiếu bích vừa cao vừa rộng, lối đi thênh thang, xem chừng bên trong phải có đến bảy tám khu nhà là ít. Chính giữa là từ đường, bên trên treo đôi câu đối của dòng họ Cơ: Vua thi hành nhân chính, Cổ Công dời đến Kỳ Sơn. Quan chỉ dạy cấy cày, Chu thất tôn làm thủy tổ*. Cửa từ đường đóng chặt, có lẽ lâu lắm chưa được sửa sang. Thứ duy nhất mang hơi thở hiện đại là cột ăng ten nhô cao trên mái nhà.

Bản dịch của Trần Quang Đức.

Đến khu nhà Cơ Vân Phù ở, vừa mở cửa ra đã thấy mùi giấy mực hòa lẫn mùi mối mọt xộc vào mũi. Thật không thể ngờ, tôi cứ ngỡ nhà môn đệ thư hương như họ hẳn phải treo tranh chữ đầy tường, mai trúc khắp nơi, đơ sơ thanh tịnh, nhưng gian nhà này lại ngổn ngang bề bộn, thậm chí có thể nói là hơi nhếch nhác.

Nhà cửa khá rộng, chỉ riêng đại sảnh đã hơn bảy mươi mét vuông, toàn sách là sách. Ba bức vách đều kê giá sách gỗ chạy dài từ sàn đến tận trần, bày đầy sách vở. Đó là chưa kể đống sách buộc bằng dây ni lông chồng chất dưới đất. Cạnh xô pha, dưới bàn trà, bên khe tủ góc, trên chậu hoa đều nhét hai ba cuốn sách mở lật úp, cứ như đang đọc dở thì tiện tay bỏ đó. Phóng mắt nhìn khắp, đúng là ken dày sin sít, không hở chỗ nào.

Chính giữa sảnh còn đặt máy chiếu kiểu cũ, giá sách đối diện treo một bức lụa trắng để làm phông màn. Thứ duy nhất không liên quan đến sách chỉ có chiếc điện đài vô tuyến đặt cạnh cửa sổ chĩa cần ăng ten dài, hẳn là nối với cột ăng ten bên ngoài.

“Ngạc nhiên không?” Cơ Vân Phù hỏi.

Tôi thành thật gật đầu. Cứ ngỡ một nhà sưu tầm như anh ta, ít ra trong nhà cũng phải bày vài món đồ gốm hay đỉnh ngọc quý giá, nhưng chỉ thấy rặt sách là sách.

Cơ Vân Phù phá lên cười, “Những món khác tôi để ở nơi khác rồi. Chỗ này chỉ chuyên chứa sách thôi. Điện đài vô tuyến kia là vì ngoài sưu tầm tôi còn là hội viên hội chơi điện đài vô tuyến thành phố Bửu Kê. Tôi chưa bao giờ rời Kỳ Sơn, chỉ dựa vào nó để liên lạc với bạn bè bên ngoài.”

Anh ta mời chúng tôi ngồi, xách phích nước định rót nước mời khách, nào ngờ lắc lắc lại thấy trống không, bèn vén rèm bước ra.

Tôi gạt hai cuốn Truyện Karl Marx và Trộm lửa của nhà xuất bản Văn học nhân dân trên xô pha ra, ngồi xuống. Kido Kana thích thú chắp tay sau lưng ngắm nghía các giá sách, thỉnh thoảng lại rút một quyển ra lật vài trang.

“Cô cũng tìm Cơ Vân Phù hả?” Tôi hỏi khẽ.

“Học viện Vị Kinh.” Kido Kana vẫn tiếp tục giở sách, buông ra bốn chữ này, rồi chêm thêm một câu, “Xin lỗi nhé…”

Quả như dự đoán, Kido Yuzo nhất định đã để lại những ghi chép liên quan đến Học viện Vị Kinh. Cơ Vân Phù là nhà sưu tầm sách nổi tiếng nhất Kỳ Sơn, Kido Kana lần theo manh mối ông mình để lại tới đây, nhất định sẽ tìm anh ta. Về điểm này chúng tôi không hẹn mà suy nghĩ hệt như nhau, nhưng cô ta đã nhanh hơn một bước.

Tôi hỏi Cơ Vân Phù lai lịch thế nào, song Kido Kana chỉ lắc đầu, “Tôi cũng mới gặp ông ta thôi, chẳng biết gì hơn anh đâu.” Tôi ậm ừ không đáp.

“Anh giận tôi đấy à?” Kido Kana quay người ghé lại gần tôi hỏi khẽ, vẻ rụt rè như chỉ sợ chọc giận tôi. Tôi thản nhiên, “Chúng ta cùng điều tra về hành trình của ông cha mình, nên thành thật với nhau mới phải.” Cô ta đáp, “Việc này tôi có thể giải thích, nhưng chỉ e làm anh rối trí thêm thôi.”

Tôi cứ ngỡ Kido Kana sẽ gập người tạ lỗi, nào ngờ cô ta lại ngả người tới trước, mái tóc dài mượt xòa vào mặt tôi, rồi đôi môi ấm nóng đặt ngay lên trán. Trước khi tôi kịp phản ứng, cô nàng đã nhanh chóng tách ra như chạm phải điện, để lại tôi ngồi đần ra đó, chẳng biết phải làm sao.

“Dù muốn tạ lỗi cũng đâu cần thể hiện bằng cách suồng sã thế này…” Tôi vô thức sờ sờ trán. Kido Kana đứng hơi xa, mặt đỏ bừng, hai tay xoăn chặt vạt áo, nhưng vẫn lấy hết can đảm nhìn sang, như vừa hoàn thành một nhiệm vụ khó nhằn. Lúc này trông cô ta không giống Momoe Yamaguchi mà giống Kojika Jyun* hơn.

Nhân vật nữ chính trong bộ phim truyền hình Nữ tướng bóng chuyền phát sóng trên truyền hình Nhật Bản thập niên 80.

Đúng lúc này thì Cơ Vân Phù quay lại, tay cầm hai cốc thủy tinh. Anh ta dường như không hề nhận ra vẻ ngượng nghịu của chúng tôi, nhanh nhẹn rót hai cốc nước mời khách rồi ngồi xuống sau chiếc bàn gỗ đàn. Chúng tôi cũng cố gạt xấu hổ, bốn mắt đồng loạt đổ dồn vào Cơ Vân Phù. Nhất cử nhất động của người này dường như đều có ẩn ý, tôi và Kido Kana cảm giác không phải chúng tôi tìm thấy anh ta, mà là anh ta luôn đợi chúng tôi đến.

Quả nhiên, Cơ Vân Phù đan hai tay vào nhau chống dưới cằm, buông ngay một câu, “Tôi đợi ngày này lâu lắm rồi.”

“Anh biết chúng tôi à?” Tôi hỏi.

Cơ Vân Phù cả cười, “Gặp được con cháu hai vị Hứa Nhất Thành và Kido Yuzo, được chứng kiến một câu chuyện truyền kỳ, thực là may mắn lớn nhất đời tôi đấy.”

Hai chúng tôi nhìn nhau, không giấu được vẻ kinh hãi. Người này rốt cuộc là ai mà chưa gì đã vạch trần thân phận chúng tôi? Kido Kana ngỡ ngàng hỏi lại, “Lẽ nào ông… năm xưa cũng dính đến vụ án đầu Phật?” Vừa dứt lời cô ta đã phì cười, Cơ Vân Phù chẳng qua mới tứ tuần, e rằng lúc xảy ra chuyện, anh ta còn chưa chào đời.

Cơ Vân Phù lắc đầu, “Sai rồi, tôi không liên quan gì đến Minh Nhãn Mai Hoa cả, tổ tiên họ Cơ cũng không, chẳng qua tôi có hứng thú với vụ án đầu Phật thôi.” Đoạn anh ta đi đến giá sách, rút một cuốn rồi lấy trong đó ra một mảnh báo, “Đây là bài đăng trên tờ Tin Thượng Hải sau khi xảy ra vụ án.”

Tôi đón lấy mảnh báo, đọc qua thấy nội dung cũng không khác những gì tôi biết, nói Hứa Nhất Thành trộm cắp báu vật quốc gia đem bán vân vân.

Cơ Vân Phù chắp tay sau lưng, chậm rãi thả bộ trong phòng: “Tôi ốm yếu nên ít ra ngoài, chỉ quanh quẩn trong nhà, quý sách như mạng, thích sưu tầm các loại sách vở tài liệu. Một lần tình cờ tôi tìm được mảnh báo về vụ án đầu Phật, phát hiện bên trong có rất nhiều nghi vấn. Một, Hứa Nhất Thành là nhân vật lừng lẫy trong giới đồ cổ thời Dân Quốc, sao lại sa đọa đến nỗi này? Hai, tôi lục lọi khắp các mặt báo thời bấy giờ, thậm chí tra cả tư liệu bên Nhật, phần lớn chỉ đăng tải phản ứng của mọi người thuộc đủ tầng lớp xã hội, rất ít nhắc tới vụ án, chẳng biết họ làm sao tìm được đầu Phật, trông đầu Phật như thế nào. Một vụ án chấn động như vậy lại chỉ được tường thuật qua loa, ắt phải có nguyên nhân bên trong. Tôi bèn nảy ra ý định điều tra…”

Vừa nói anh ta vừa đi đến một giá sách khác, rút ra tấm phim trong suốt đặt lên máy chiếu, hạ màn trắng xuống. Vừa bật máy lên, một tấm ảnh cực lớn đã hiện lên màn. Tôi và Kido Kana đồng thời nín thở.

“Thực ra ban đầu tôi chỉ tra bừa, kết quả tình cờ lại tìm ra thứ này, từ ấy tôi mới bắt đầu tập trung tìm tòi.” Cơ Vân Phù cầm que chỉ bảng trỏ vào màn hình.

Trên màn là tấm ảnh Kido Yuzo chụp trước phế tích tường thành.

Cơ Vân Phù giải thích, “Người trong ảnh này hẳn cô cậu chẳng lạ gì nữa, là ảnh chụp trên đường khảo sát, được tạp chí Khảo cổ học Nhật Bản đăng tải. Nhìn kỹ mà xem, góc đổ bóng trên bức tường thành sụp phía sau có lạ không? Lẽ ra bóng ông Kido Yuzo phải đổ ngay cạnh ông ta, nhưng ở đây lại thấy ánh nắng, chẳng lẽ nắng rọi xuyên qua người ông ta ư? Huống hồ cô cậu nhìn xem, đường vữa gạch trông không tự nhiên, cứ như được chắp lại vậy.”

“Ý ông là…” Kido Kana nhíu mày.

“Tôi cho rằng tấm ảnh này là giả, ít nhất cũng đã qua xử lý.” Cơ Vân Phù vỗ tay, “Hơn nữa được xử lý ngay tại phòng In sách Học viện Vị Kinh.”

Nghe bốn chữ “Học viện Vị Kinh”, tim tôi đập thình thịch. Hình như tất cả manh mối về đầu Phật ngọc tại Kỳ Sơn đều xoay quanh cái tên này. Tôi vội hỏi, “Anh có bằng chứng gì không?”

Cơ Vân Phù mân mê tấm phim, rồi chỉnh lại ánh đèn. Chúng tôi thấy mép phải tấm ảnh sau khi phóng đại lưa thưa vài dấu đen loang lổ, phần đầu thuôn nhọn, như đốm mực bị vẩy lên.

Tôi và Kido Kana quan sát kỹ hồi lâu vẫn không nhận ra là thứ gì.

Cơ Vân Phù giải thích, “Nếu chỉ nhìn thế này thì chẳng nhận ra được gì đâu.” Anh ta lại lấy ra một tấm phim khác, có hình một bó cành trúc theo phong cách công bút, khá tinh xảo, đoạn chồng hai tấm phim lên nhau, đặt xuống dưới đèn chiếu, bấy giờ chúng tôi mới nhận ra những dấu đen kia trùng khớp với ngọn lá trúc.

“Con dấu của phòng In sách Học viện Vị Kinh cũng là hình rừng trúc. Khi rửa tấm ảnh này ra ghép lại, người ta dùng phim tấm của phòng In sách nên dính cả một chút đầu nhọn ngọn lá trúc, trở thành chứng cứ quan trọng chứng minh bức ảnh này được xử lý tại Học viện Vị Kinh.”

Tôi không khỏi bái phục, chuyện này nói ra nghe thì đơn giản, nhưng nhìn mấy dấu đen kia mà liên tưởng đến dấu sách cần có khả năng quan sát và liên tưởng cực siêu, cùng một lượng lớn tư liệu dự trữ. Càng nhìn tôi càng thấy Cơ Vân Phù đúng là thâm sâu khó lường.

“Sau khi làm rõ chuyện này, tôi càng thêm hứng thú. Năm 1931, phòng In sách Học viện Vị Kinh đã chuyển đến Kỳ Sơn, nên chắc chắn tấm ảnh này cũng được xử lý tại đây. Tôi thực không ngờ vụ án đầu Phật lại liên quan đến quê hương mình, quả là vận mệnh đẩy đưa.”

“Nhưng Học viện Vị Kinh chẳng phải một đơn vị xuất bản ư?” Kido Kana thắc mắc.

“Dưới thời Dân Quốc, kỹ thuật chụp ảnh và in ấn liên quan mật thiết với nhau. Sau khi chuyển đến Kỳ Sơn, ngoài in sách, Học viện Vị Kinh cũng tham gia vào ngành ảnh. Những kẻ cầm quyền ở Thiểm Tây xưa nay đều lợi dụng kỹ thuật này để tuyên truyền cho bản thân, ví như Lục Kiến Chương, Trần Thụ Phiên, Phùng Ngọc Tường, Lưu Trấn Hoa v.v…”

Cơ Vân Phù đi đi lại lại giữa những chồng và giá sách, vừa đi vừa nói, tới chỗ quan trọng lại rút những tư liệu hoặc phim ảnh ra làm chứng. Những tư liệu nọ thoạt nhìn có vẻ được để lung tung bừa bãi nhưng anh ta lại thuộc làu như lòng bàn tay, rút ra thoăn thoắt. Chẳng mấy chốc, trên bàn dưới đất đã bày đầy tư liệu, nhìn mà hoa cả mắt. Kido Kana chăm chú nghe, còn lấy sổ ra cắm cúi ghi chép, trái lại tôi khá bình thản.

Cơ Vân Phù lại nói, “Phát hiện ra tấm ảnh này là giả cũng có nghĩa nảy sinh hai vấn đề: một, ảnh gốc trông như thế nào; hai, vì sao phải làm giả.”

“Tôi nghĩ mình có thể giải đáp được vấn đề đầu tiên.” Tôi điềm đạm đáp. Cơ Vân Phù sáng mắt, sải bước đi đến nắm chặt lấy vai tôi hỏi gặng, “Cậu mau nói đi!”

Tôi hỏi ngược lại, “Anh biết Phó Quý không?”

“Hả? Phó Quý là tay cảnh sát đã bắt Hứa Nhất Thành ấy à?” Anh ta quả là nắm rõ vụ án này, tường tận từng người liên quan như lòng bàn tay. Tôi bèn kể lại chuyến đi Thiên Tân tìm Phó Quý, nói rằng đã lấy được ảnh gốc từ tay ông ta, tiếc rằng lại bị Phương Chấn lấy đi kiểm nghiệm, đành tả sơ qua cho Cơ Vân Phù nghe.

Khác biệt lớn nhất giữa hai bức ảnh là ảnh giả thiếu mất ông nội tôi. Nghe kể xong, Cơ Vân Phù buông tôi ra, nhắm nghiền mắt nghĩ ngợi giây lát rồi thình lình mở bừng ra, cầm bút đánh dấu nối tất cả những điểm thiếu tự nhiên trên tấm phim lại, cuối cùng được một hình người. Xong xuôi anh ta đưa sang, tôi gật đầu, đại khái ông nội tôi đứng ở vị trí này.

Cơ Vân Phù vỗ đùi, “Thế thì vấn đề thứ hai tôi cũng hiểu rồi.” Anh ta rảo bước đi tới trước máy chiếu, trỏ tấm hình hỏi, “Nhìn tấm hình này của Kido Yuzo, cô cậu nghĩ đến điều gì?”

Kido Kana ồ lên, phấn khích ra mặt, “Người chụp ảnh!”

Cơ Vân Phù hài lòng gật đầu, “Trong tất cả tư liệu công khai, đội khảo sát của Hứa Nhất Thành và Kido Yuzo chỉ có hai người bọn họ. Khi thấy ảnh chụp một mình Kido Yuzo, chúng ta đương nhiên sẽ nghĩ người chụp là Hứa Nhất Thành - nhưng ảnh gốc lại là hình chụp chung hai người họ, chứng tỏ còn một người thứ ba nữa! Một người không nằm trong bất cứ ghi chép nào.”

Trong đầu tôi v?