Chương 7 Tìm núi ốc
Bước vào tiệm, chúng tôi thấy anh Hồ đang lúi húi sửa xe. Hắn bò từ gầm máy kéo ra, cởi trần, bắp tay loang lổ vết dầu mỡ, cổ đeo dây chuyền vàng chóe, chỏi nhau kịch liệt với làn da màu đồng hun. Lúc trước hắn còn đeo ngọc, bị tôi giám định là hàng kém chất lượng mới đổi sang đeo vàng.
“Đã làm hỏng chuyện của anh mày, còn đòi đem người đi, giờ lại kéo đến đòi đồ, hơi bị khinh người đấy.”
Anh Hồ ngồi chễm chệ trên bánh xe cẩu to tướng, tay quay chiếc cờ lê, lạnh lùng nói. Kido Kana đặt hai tay lên đầu gối, cúi gập người, “Xin lỗi vì làm phiền anh. Để tôi đền bù vào quỹ văn hóa sau này được không?”
Anh Hồ lắc đầu, giơ ba ngón tay ra, “Thằng lỏi này trước là làm bẽ mặt anh đây, cô em lôi ông cậu anh ra, thôi được, chuyện này anh bỏ qua.” Hắn gập một ngón tay lại rồi tiếp, “Nó làm anh mất toi mấy vạn tệ, cô em đền vào quỹ văn hóa, thôi cũng được.” Hắn lại gập một ngón nữa, rồi lắc lắc ngón còn lại, “Thể diện và tiền bạc bù bằng ông cậu anh với quỹ văn hóa, còn cái tước chạm rồng, là nó đem đặt cho anh. Chuyện nào ra chuyện nấy, không thể tính chung với hai việc trên được.”
Ý hắn là muốn vớt vát kiếm chác thêm một món nữa mới chịu nhả cái tước ra. Kido Kana lộ vẻ bối rối, tôi thấy không thể để cô ta đứng ra thay mình mãi, đành lên tiếng, “Anh ra giá đi.”
“Được! Thẳng thắn đấy!”
Anh Hồ đứng dậy đi đến trước mặt tôi, tay phải vê vê cằm, hẳn đang nghĩ xem nên yêu sách gì. Hắn vừa ghé đến gần, tôi đột nhiên trợn to mắt, hơi dướn người về phía trước. Tưởng tôi định lao vào đánh nhau, anh Hồ vung cờ lê toan đập. Tôi vội hét lên, “Khoan đã!” Đoạn trỏ sợi dây chuyền vàng trên cổ hắn, thất thanh hỏi, “Anh tìm đâu được cái này thế?”
Anh Hồ vô thức giơ tay lên nắm lấy dây chuyền quát, “Việc đéo gì đến mày!” Tôi hối hả móc túi lấy hết tiền Dược Bất Nhiên đưa quăng cho hắn, “Của anh hết đấy, mau nói cho tôi biết anh tìm được nó ở đâu!”
Anh Hồ không ngờ tôi tự dưng hứng thú với sợi dây chuyền của hắn, liền lùi lại trừng mắt nghi hoặc nhìn tôi, “Bà nội tao thỉnh từ chùa Thắng Nghiêm đấy, mày muốn sao hả?” Kido Kana cũng ngỡ ngàng không hiểu, thì thào hỏi tôi, “Anh phát hiện được gì rồi à?”
Tôi kích động giơ tay chỉ, Kido Kana đưa mắt nhìn sang sợi dây chuyền, tức thì cũng trọn tròn mắt ồ lên. Sợi dây chuyền của anh Hồ bằng vàng ròng, xâu mặt Phật vàng ở tư thế ngồi, chạm khắc khá thô, nhưng phong cách đỉnh nghiêm lại giống hệt đầu Phật ngọc trong minh đường Võ Tắc Thiên, hai hàng rèm vén từ giữa trán trông vô cùng nổi bật.
Từ bức ảnh đầu Phật ngọc Kido Kana cung cấp, tôi đoán đầu Phật bị trộm có ba đặc điểm chính: một là dung mạo tương tự Đại Phật Lô Xá Na ở động Long Môn, hai là tạo hình thiên về phong cách Mã Thổ Tịch, ba là tạo tác đầu Phật gần giống với tượng Phật thời kỳ đầu mới truyền vào Tây Tạng, nhiều đường cong; phục sức tầng tầng lớp lớp, lại còn vén rèm trên trán Phật.
Rất khó giải thích tại sao Võ Tắc Thiên chọn phong cách đỉnh nghiêm gần như vô căn cứ ấy. Không giải quyết được vấn đề này thì rất khó xác định đầu Phật là thật hay giả, nhưng thực không ngờ lại bắt gặp một mặt dây tượng Phật có phong cách đỉnh nghiêm tương tự trên cổ một tay anh chị ở Kỳ Sơn giữa thời buổi này, nên tôi và Kido Kana mới ngẩn ra như thế.
Có lẽ anh Hồ cũng không muốn làm căng với Kido Kana, bèn nhặt mớ tiền tôi quăng lên cất kỹ rồi miễn cưỡng trả lời câu hỏi vớ vẩn của tôi. Theo lời anh Hồ thì sợi dây chuyền này là của hồi môn của bà nội hắn, dây thuê người đánh còn mặt thỉnh từ chùa Thắng Nghiêm, đã được khai quang.
Tôi và Kido Kana cẩn trọng nhận lấy sợi dây, xem xét kỹ càng. Xét về tạo hình, tượng Phật thuộc dáng thuyết pháp, ngồi xếp bằng theo thế kiết già, tay phải giơ lên, các ngón tay khum lại thành vòng cung, tay trái đặt trên gối, đây là tạo hình khá phổ biến ở Trung Quốc. Chỉ riêng đỉnh nghiêm là đặc biệt, chẳng khác nào gắn dưa chuột vào khoai tây vậy.
“Cái này thỉnh từ chùa Thắng Nghiêm à?” Nghe Kido Kana hỏi, anh Hồ gật đầu, còn giải thích rằng đó là một ngôi chùa địa phương nằm ở Tây Nam Kỳ Sơn, đã bỏ hoang nhiều năm, gần đây mới lại có sư sãi.
Tôi bảo, “Xem ra phải đến đó một chuyến.” Kido Kana ừm một tiếng, nắm chặt tay tôi. Phong cách đỉnh nghiêm kia bỗng dưng xuất hiện ở mặt dây Phật vàng, chứng tỏ khi chạm trổ thợ thủ công đã phỏng theo, mà nguyên mẫu rất có khả năng nằm ngay trong chùa.
Anh Hồ được tiền cũng vui vẻ hẳn lên, ngoảnh vào trong gọi một tiếng. Chẳng mấy chốc Hai Tần quấn băng từ đằng sau lù lù đi ra, tay cầm tước chạm rồng. Vừa nhận ra tôi, mắt gã như tóe lửa. Anh Hồ nghiêm mặt, “Mai mày dẫn hai cô cậu này đến chùa Thắng Nghiêm một chuyến, đừng để xảy ra chuyện gì đấy.”
Hai Tần vô cùng bức xúc, nhưng không dám cãi lời, đưa tước cho chúng tôi rồi rụt rè chuồn thẳng, trông dáng đi đứng vẫn còn khập khiễng, hẳn đã ăn no đòn.
Tối hôm ấy, tôi nghỉ lại nhà Cơ Vân Phù còn Kido Kana về nhà khách thị trấn. Sáng hôm sau, chúng tôi lái xe, Hai Tần dẫn đường, bon bon chạy thẳng đến chùa Thắng Nghiêm. Trên xe, trừ chỉ đường ra, Hai Tần không nói một lời, hiển nhiên vẫn còn ôm hận. Tôi lân la gọi chuyện nhưng bị gã vặc lại, “Không dám, tôi đây nào dám chuyện trò với ngữ giả chết bắt quạ nhà anh.”
Chùa Thắng Nghiêm nằm về phía Tây Nam Kỳ Sơn, cách thị trấn khoảng ba ki lô mét. Hai Tần không dám chỉ láo, dẫn chúng tôi chạy dọc theo đường cái, chẳng mấy chốc đã đến nơi. Nơi này nằm trên gò đất bờ Bắc ngã ba sông, nơi hai sông Chu Công và Hoành Thủy giao nhau, địa thế rất cao, quả là chỗ tốt để xây chùa dựng quán theo phong thủy.
Đến cửa chùa, tôi hỏi Hai Tần có theo vào không, gã bóp gáy đáp cộc lốc, “Không, tôi tự về.” Đoạn quay phắt người nhổ toẹt xuống đất, tập tễnh đi thẳng.
Chùa cổ đã tàn tạ quá nửa, đâu đâu cũng thấy vách đổ tường xiêu, tuy có sửa sang, song không giấu được vẻ tiêu điều. Trước cửa là hai cây cổ thụ trong đó một đã đổ nghiêng, cây còn lại thì chết khô, trơ cành khô lòng khòng rũ xuống, chưa được dọn dẹp. Tôi đứng trước chùa, thấy quạnh quẽ thê lương khôn tả. Kido Kana lẩm bẩm một mình, chẳng rõ nói gì rồi rút máy ảnh ra chụp.
Tối qua Kido Kana đã hỏi Sở Quản lý hiện vật văn hóa để lấy các tài liệu liên quan. Thắng Nghiêm là chùa cổ, không biết xây từ thời nào, lần trùng tu sớm nhất vào năm Cảnh Thái thứ bảy triều Minh, hương khói rất thịnh, địa chí huyện các đời đều ghi lại, tiếc rằng phần lớn kiến trúc đã bị phá hủy dưới thời Cách mạng Văn hóa, đến giờ vẫn chưa khôi phục lại được.
Đây không phải điểm du lịch, không thu phí vào cửa. Chúng tôi thong thả bước vào, băng qua khoảnh sân rộng, thảng hoặc có vài ba người dân ngang qua cũng chỉ hờ hững liếc nhìn rồi đi thẳng.
Từ sân chúng tôi đi đền lầu chuông, lầu trống và điện Thiên Vương, có thể thấy rất nhiều pho tượng phổ biến trong chùa miếu như tượng Phật, tượng Bồ tát và tượng Kim cang nơi hành lang mé điện dọc đường đi. Có điều hầu hết đã bị đập phá đến mức không nhìn ra mặt mũi hoặc mất đầu, chẳng còn mấy pho nguyên vẹn. Đi đến chính điện mới thấy chỉ còn trơ đống gạch đá ngổn ngang, những rường cột gỗ đều không thấy đâu nữa - nghe nói tất cả đã bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn dưới thời Cách mạng Văn hóa.
Mỉa mai ở chỗ, trước điện chẳng rõ ai đặt một bát hương nhỏ, cắm mấy nén nhang cháy dở xiêu vẹo. Xem ra thỉnh thoảng vẫn có dân làng đến đây thắp hương, chỉ không biết họ bái lạy cầu khấn vách đổ tường nghiêng cái gì.
Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong. Những công trình kiến trúc với chức năng riêng như điện Quan Âm, gác kinh, điện Hoa Nghiêm, nhà bếp cũng tổn hại nặng nề. Tượng gỗ tượng vàng tượng đồng chẳng còn một mảy, may mà còn một ít tượng đá đặt ở góc khuất hoặc hốc giả sơn là nguyên vẹn. Tôi và Kido Kana quan sát thật kỹ, thấy pho sớm nhất có từ thời Minh, nhưng tạo hình lại theo phong cách của người Hán, không giống mặt dây của anh Hồ chút nào.
Lòng vòng nửa ngày trời chẳng thu được kết quả gì, chúng tôi đành quay ra hỏi mấy hòa thượng gặp dọc đường, nhưng họ cũng mới được cử đến đôn đốc việc trùng tu gần đây, chẳng biết gì chuyện khi trước cả.
“Anh xem, kia là Phật gì?” Kido Kana bỗng trỏ một pho tượng hỏi. Tượng nọ nằm khuất sau mỏm đá, sau lưng là gốc dương đại thụ, trước mặt vẫn còn dấu tích bàn thờ. Nửa trên pho tượng không còn nữa, chỉ có nửa dưới. Nhìn phần giáp quấn chân tượng, bên cạnh gác một binh khí cán dài, gần eo còn có mấy hàng râu gồ lên, tôi cười nói, “Vị này cũng nổi tiếng ở Nhật lắm đấy, có thể nói là người người đều biết.”
“Thế ư? Người Trung Quốc mà ai ai ở Nhật cũng biết á?” Kido Kana ngạc nhiên ra mặt.
“Quan Công ấy mà.” Tôi trỏ bộ râu dài của tượng. Trong các chùa miếu Trung Quốc, trừ Quan Công ra chẳng có pho tượng nào râu dài thế cả. Nói đoạn tay phải tôi vuốt râu, tay trái xách đao, diễn lại dáng vẻ trừng mắt của Quan Công trong Kinh kịch, làm Kido Kana phì cười thành tiếng.
“Nhưng sao trong chùa lại thờ Quan Công?”
“Trong Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, Quan Công đều được coi là thần bảo hộ nên thường được dựng tượng thờ trong các chùa miếu như Hộ Pháp Già Lam, đây cũng là bằng chứng của việc Phật giáo Trung Thổ đã dung hòa với tín ngưỡng bản địa.”
“Quan Công từ võ tướng biến thành thần trong Phật giáo từ khi nào thế?” Kido Kana ngước lên tò mò hỏi. Tình cờ trước đây tôi từng mua tượng Quan Công nên cũng nghiên cứu mấy cuốn sách về quá trình biến đổi trong việc thờ cúng Quan Công, biết được đôi chút, bèn giảng giải cho cô ta, “Chuyện này kể ra thì dài lắm, tóm lại các triều đại vẫn không ngừng thần thánh hóa và truy phong cho Quan Công, dần dần từ một võ tướng trở thành danh tướng rồi thành thần tướng.”
“Anh uyên bác thật.” Kido Kana khâm phục. Tôi đỏ mặt, mới vừa bẽ mặt trước Cơ Vân Phù, giờ lại được khen thế này, đúng là khó mà tiêu hóa nổi.
“Có gì đâu. Cũng vì yêu cầu công việc thôi… Để tôi kể cô nghe, trước đây tôi mua được một pho Quan Công vô cùng tinh xảo, nghe nói là đồ thời Tống. Nhác thấy sau lưng ghi mấy chữ ‘Hiển Linh Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế vương’, tôi cười bảo ngay, món này không thể là đồ thời Tống được. Vì sao? Bởi phong hiệu của Quan Công thời Tống là ‘Tráng Mâu Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế vương’. Đến thời Nguyên, cho rằng hai chữ ‘Tráng Mâu’ nghe không oai, nên mới đổi thành ‘Hiển Linh’. Bởi vậy chỉ cần xem phong hiệu là biết tượng Quan Công thời nào.”
Kido Kana chăm chú nghe, “Ở Nhật tôi cũng từng thấy có nơi thờ Quan Công, có lẽ là cùng một nguồn gốc với Trung Quốc.”
“Ừm, đúng thế…”
Tôi tiện miệng đáp, phủi phủi pho tượng Quan Công đổ nát kia, gắng giữ vẻ bình tĩnh nhưng lòng lại dập dềnh chao đảo như miếng sủi cảo giữa nồi nước sôi.
Trước nay tôi vẫn băn khoăn mãi, vì sao ông lại bảo Trịnh Hổ tới Kỳ Sơn đúc tượng đồng Quan Công? Hành động này có liên quan gì đến đầu Phật ngọc?
Giờ thấy nửa pho Quan Công ở chùa Thắng Nghiêm này, tôi mới láng máng hiểu ra.
Nếu nhớ không lầm thì Quan Công chính thức được đưa vào Phật giáo từ năm Khai Hoàng thứ mười hai đời nhà Tùy. Cao tăng Trí Khải bấy giờ đã thụ Bồ tát giới cho vong linh Quan Công ở núi Ngọc Tuyền, biến ông ta trở thành đệ tử nhà Phật. Đến thời Võ Tắc Thiên, Ý thiền sư Thần Tú, người sáng lập ra Thiền tông Bắc phái, cũng chính là đối thủ của Lục Tổ Huệ Năng, dựng chùa Đại Thông Thiền ở núi Ngọc Tuyền, lần đầu tiên phong Quan Công là thần Hộ Pháp Già Lam, chính thức đưa ông ta vào hệ thống thần linh Phật giáo.
Về sau Thần Tú lại được Võ Tắc Thiên vời đến Trường An, phong làm “pháp chủ Lưỡng Kinh”, “quốc sư Tam Đế”, ân sủng vô cùng, trở thành lãnh tụ Phật giáo phương Bắc Trung Quốc.
Thần Tú đã đến Trường An, ắt tín ngưỡng thờ Quan Công cũng theo đó xâm nhập vào xã hội thượng lưu, mà Thần Tú đại diện cho quyền lực của Phật giáo, Võ Tắc Thiên tạc tượng Phật hẳn cũng tham khảo ý kiến ông ta - liên hệ thế này thực khiên cưỡng, lại thiếu chứng cứ quan trọng, nhưng dù sao cũng đã cho tôi một hướng để tìm tòi.
Tôi vừa đi vừa nghĩ, còn phải cố giấu không để Kido Kana nhận ra, cô ta vẫn chưa biết chuyện Trịnh Hổ và tượng đồng Quan Công. Trái lại Kido Kana chẳng hề nghi ngờ, chỉ mải ôm máy ảnh chụp xoành xoạch.
Chợt một đạo sĩ già xông ra chắn trước mặt bọn tôi.
Đúng vậy, tôi không nhìn lầm, một đạo sĩ già xuất hiện ngay trong chùa. Người này đầu tóc bạc phơ, đeo kính, tóc búi lơi, mặc bộ đồ đạo sĩ bẩn thỉu, trông hơi giống Lộc Lực đại tiên trong phim Tây Du ký. Lão ôm một ngọn phướn và xách chiếc ghế gấp, trên phướn ghi hai chữ “Đoán số”.
“Cô cậu xem bói không? Không đúng không lấy tiền.” Lão đạo sĩ nói tiếng phổ thông làu làu, chuẩn như phát thanh viên thời sự.
Hai chúng tôi phì cười. Tôi hỏi, “Ông là đệ tử Đạo gia, sao lại đến cửa Phật xem bói vậy, không sợ Phật Tổ trách tội cướp cơm ư?”
Lão vênh mặt, “Nói cho cô cậu biết nhé, hòa thượng chuẩn làm gì biết xem bói. Trong một vạn ba ngàn sáu trăm kinh điển Phật môn, không có câu nào dạy người ta cầu thần xin quẻ cả. Nên đám sư sãi giải xăm xem tướng đều là hạng sư hổ mang, chỉ lừa được lũ ngu si mù quáng thôi. Đạo sĩ xem quẻ đoán số mới là đúng nghề đấy.”
Nghe bùi tai, tôi bèn dừng lại, nói bát tự của mình cho lão xem. Lão đạo sĩ cắm cây phướn xuống đất, mở ghế ra đường hoàng ngồi xuống, bấm đốt ngón tay tính toán một hồi rồi mở mắt ra, “Mệnh cậu là đường núi đứt ngang, cũng khá đấy.”
Tôi thót tim, trước đây có người xem bói cho tôi cũng nói y như vậy. Xem ra lão đạo sĩ này có nghề đây. Tôi vội hỏi thêm, “Ông xem hộ thời vận tôi độ này thế nào?” Lão ta liếc Kido Kana, “Chuyện khác không biết, nhưng ắt có vận đào hoa.” Kido Kana cũng hiếu kỳ sán đến đòi lão xem chỉ tay. Lão đạo sĩ cầm tay cô nàng săm soi rồi phán, “Cô không phải con cháu Hoa Hạ, mà là người nước ngoài.” Kido Kana sững sờ hỏi làm sao ông biết, lão vuốt râu cười, “Thì nhìn cuốn hộ chiếu cô làm rơi đó…”
Kido Kana cúi xuống, thấy quyển hộ chiếu Nhật Bản rơi ngay dưới đất. Chúng tôi phá lên cười, lão đạo sĩ này cũng hay ho thật. Lại nghe lão nói, “Thấy cô cậu có duyên, tôi nói thực, nghề bói toán này xem cơ trời ba xem ánh mắt bảy. Thoạt nhìn lời ăn tiếng nói của cô cậu, tán gẫu thêm dăm ba câu, tôi đã đoán được đại khái lai lịch rồi. Dựa vào đó mà phán tiếp, cơ bản không sai vào đâu được.”
“Ông nói tuột ra thế không sợ chúng tôi không trả tiền, còn mắng là quân lừa đảo à?”
“Trông đã biết hai cô cậu không phải hạng ấy rồi.”
“Vậy chúng tôi là người thế nào?”
“Ha ha, cô cậu đều là người thông minh cả. Lão xem bát tự chưa chắc các vị đã tin, nhưng thật thà bộc bạch, các vị thấy hay ho, nhất định sẽ cho tiền.”
Quá buồn cười, tôi định móc tiền cho, nhưng lần túi mới nhớ vừa rồi đã quăng hết tiền cho anh Hồ. Kido Kana thấy vậy liền rút ví ra một trăm tệ đưa lão. Lão đạo sĩ giật mình chối đây đẩy rằng nhiều quá, tôi phải nói ông cứ nhận đi, coi như cái duyên, lão mới rụt rè nhận lấy, gấp nhỏ lại rồi nhét vào ngực áo.
Có tấm đệm trăm tệ này, chẳng mấy chốc chúng tôi đã thành thân, ngồi bệt hẳn xuống đất huyên thuyên chuyện trò. Lão ta cũng chẳng nề hà, thao thao kể chuyện đời mình. Lão họ Tạ, vốn là chú tiểu chùa này, về sau khổ quá bèn bỏ chùa chạy đến núi Thanh Thành Tứ Xuyên cải sang đạo Lão. Thời kỳ Cách mạng Văn hóa, chùa Thắng Nghiêm bị đốt, sư sãi tan tác, song núi Thanh Thành vẫn bình yên vô sự, lão cũng tránh được kiếp nạn. Về sau cải cách đổi mới, bỏ lệnh cấm tôn giáo, lão mới về lại Kỳ Sơn, lang thang khắp các đạo quán chùa miếu.
“Nói vậy chắc ông nắm rõ tình hình chùa Thắng Nghiêm trước hỏa hoạn lắm nhỉ?” Tôi vờ vô tình hỏi.
Lão Tạ vỗ ngực, “Còn phải nói, rõ như lòng bàn tay ấy chứ.”
“Vậy chắc ông cũng biết trong chùa có những tượng gì nhỉ?”
“Dĩ nhiên, lúc còn làm tiểu, lão thích nhất là đếm tượng Phật giết thời gian đấy.”
Tôi liền bảo Kido Kana lấy ảnh chụp đầu Phật ngọc cho lão xem, “Ông coi, trong chùa có pho nào giống thế này không, nhất là chỗ này này.” Tôi trỏ đỉnh nghiêm. Lão Tạ nheo mắt ngắm nghía hồi lâu rồi đáp, “Hình như có… Lão nhớ sau chùa có thờ một pho Tì Lư Già Na Phật, đầu tóc cũng từa tựa thế này.”
Thấy chúng tôi sáng mắt lên, lão lại nói, “Nhưng nhìn ảnh thế này giống Đại Phật ở Long Môn quá nhỉ.”
“Ô? Ông cũng từng thấy Đại Phật Lô Xá Na ở Long Môn à?”
Lão sầm mặt, “Khinh người vừa chứ! Lúc lão làm tiểu cũng dốc lòng nghiên cứu Phật học, có phải chưa đi khất thực bao giờ đâu.” Đoạn lão xoa xoa mũi, lên mặt giảng giải, “Đại Phật Lô Xá Na tạc theo dung mạo Võ Tắc Thiên, cô cậu biết không?”
“Biết chứ.”
“Nhưng cô cậu có biết vì sao Võ Tắc Thiên lại muốn tạc tượng Phật Lô Xá Na theo dung mạo mình không?”
Chúng tôi đồng loạt lắc đầu.
Lão Tạ đắc ý ghếch cả chân lên, “Phật Lô Xá Na là một trong ba phân thân của Phật Tổ, gọi là Báo Thân Phật, trong tiếng Phạn, ‘Lô Xá Na’ nghĩa là trí tuệ bao la, hào quang tỏa khắp, rất hợp với chữ ‘chiếu’ trong tên Võ Tắc Thiên.”
“Khoan nói chuyện Phật Lô Xá Na đã, quay về pho Tì Lư Già Na Phật ông kể khi nãy đi.” Sợ lão xa đề, tôi liền nhắc.
Lão Tạ trừng mắt, “Đúng là vô văn hóa! Khi Phật Tổ nổi danh đã hợp nhất Pháp Thân Phật và Báo Thân Phật lại nhằm thể hiện tinh túy Pháp Báo một thể nên Phật Lô Xá Na cũng là cách gọi tắt của Phật Tì Lư Già Na, hai vị này vốn là một. Nếu nói về Tì Lư Già Na, sao bỏ qua Lô Xá Na được?”
Tôi chột dạ, “Có nghĩa là Tì Lư Già Na và Lô Xá Na chẳng qua chỉ khác cái tên chứ cùng chỉ một vị, không tách rời ư?”
“Chính xác. Nói về tượng Phật, thông thường hai pho này sẽ được đặt đối xứng trong chùa. Nếu chính giữa thờ Phật Lô Xá Na thì trong góc sẽ thờ Phật Tì Lư Già Na, hoặc ngược lại. Một Pháp một Báo mới phù hợp áo nghĩa Phật pháp - chỉ riêng chùa Thắng Nghiêm này, phía sau chùa thờ một pho Tì Lư Già Na, chẳng biết niên đại từ bao giờ, nhưng không thấy pho Lô Xá Na đâu cả.”
“Đỉnh nghiêm pho Tì Lư Già Na kia có giống trên ảnh không?”
“Giống lắm. Lão nhớ rõ mà, bấy giờ tượng ấy thịnh hương hỏa lắm, rất nhiều thiện nam tín nữ tới dâng hương cầu khấn, trong chùa còn bán nhiều mặt Phật vàng đã khai quang phỏng theo. Cái tên Tì Lư Già Na đọc trẹo cả lưỡi, dân bản địa thấy đỉnh nghiêm tượng khá đặc biệt, nên đều gọi là Phật đỉnh vàng.”
“Ông dẫn chúng tôi đi xem được không?”
“Được thôi, đằng nào hôm nay lão cũng chẳng làm ăn được gì. Có điều pho ấy mất lâu rồi, giờ chỉ còn vũng nước thôi.”
Nói đoạn, lão Tạ đứng dậy gấp ghế lại, dẫn chúng tôi ra sau chùa. Lão thông thuộc đường đi lối lại, chẳng mấy chốc đã đến. Đây vốn là một thiền viện u tĩnh, có cả tịnh xá, hiềm nỗi nhiều năm chưa quét tước sửa sang nên cỏ hoang um tùm, mấy người thợ xây đang lúi húi lợp lại mái nhà. Lão Tạ đi đến bên tường nói, “Ở đây.”
Quả như lời lão, nơi này chỉ còn một vũng nước đã cạn khô, đừng nói tượng Phật, đến bệ cũng chẳng có, quanh mép vũng trơ đất cằn màu đỏ vàng, bốn bề bụi cỏ bao quanh, trông như vết loét đỏ lòm giữa mái tóc.
Kido Kana hỏi, “Tượng ấy thịnh hương khói thế, sao lại đặt ở phía sau, không đưa lên chính điện hay đằng trước mà thờ? Đây là chỗ ở của sư sãi, khách đến dâng hương chẳng bất tiện ư?”
Lão Tạ cứng họng, ngẩn ra hồi lâu mới trả lời được, “Trong chính điện đã thờ Phật Tổ Như Lai, sao đưa tu hú đến chiếm tổ chim khách được…” Rồi nhận ra mình dùng sai thành ngữ, lão vỗ trán chữa lại, “Sao có thể thờ hai bệ một Phật. Huống hồ nghe nói từ khi có chùa này, pho Phật đỉnh vàng kia đã đặt ở đó rồi, bấy nhiêu năm chưa từng chuyển đi đâu cả. Dù sư tăng trong chùa muốn chuyển, các lạt ma cũng không chịu.”
“Lạt ma ư? Chùa này theo Thiền tông mà?”
“Nơi này cách Lâm Hạ và Cam Nam không xa, thường có lạt ma tới làm khách. Chẳng qua họ tới để bái lạy pho Tì Lư Già Na kia thôi. Được cái đưa tiền dầu đèn nhiều nên nhà chùa cũng vui vẻ.”
“Sao họ phải làm thế?”
Lão giơ một ngón tay lên, “Kiến thức căn bản ấy mà cô cậu cũng quên à? Phật Tì Lư Già Na còn gọi là gì nào? Đại Nhật Như Lai! Đức Phật tối cao của Mật tông Tây Tạng đấy!”
Nghe vậy tôi như bị đập thẳng vào đầu, suýt thì loạng choạng đứng không vững.
Ngu gì ngu thế không biết! Đến thường thức cơ bản nhất cũng quên!
Đại Nhật Như Lai chí cao vô thượng mà Mật tông thờ phụng chính là Phật Tì Lư Già Na! Thế nên đỉnh nghiêm của đầu Phật mang phong cách Tây Tạng chẳng có gì lạ cả.
Những thường thức Phật giáo này, tôi vốn thuộc làu. Có điều đầu Phật ngọc dù sao cũng là vật thời Sơ Đường, bấy giờ Phật giáo Tây Tạng mới manh nha, tướng mạo Đại Nhật Như Lai không giống tạo hình về sau cho lắm nên tôi không nhận ra. Mãi tới khi lão Tạ nhắc nhở, tôi mới sực nhớ, hóa ra còn có mối liên hệ ấy.
Tượng thần Hộ Pháp Già Lam Quan Công.
Đại Nhật Như Lai bằng ngọc trong minh đường Võ Tắc Thiên.
Đỉnh nghiêm theo Phật giáo Tây Tạng.
Phật Tì Lư Già Na và Lô Xá Na được thờ đối xứng nhau.
Những manh mối đứt đoạn xoay vòng trong não tôi thành một vòng xoáy cực lớn, không sao xua tan nổi. Tôi cố gắng vớt chúng lên để tìm liên hệ bên trong, nhưng cứ thấy bất lực.
Lão Tạ thấy tôi biến sắc, bèn hỏi có khó chịu ở đâu không? Đoạn móc trong áo ra một bình thuốc, khoe rằng ngoài học đạo lão còn học cả nghề thuốc, kết hợp với thuật dưỡng sinh của Đạo gia, chế thành thuốc tễ, chữa được bách bệnh. Tôi từ chối thẳng, rồi hỏi sang chuyện khác, “Ông bảo hai vị Phật thường được thờ đối xứng nhau, vậy Phật Lô Xá Na ở chùa Thắng Nghiêm đâu rồi?”
Lão bối rối nghĩ ngại một hồi rồi đáp, “Không có.”
“Không có à?”
Bị tôi hỏi vặn lại, lão có vẻ chạm tự ái, mạnh miệng khẳng định, “Chùa Thắng Nghiêm tổng cộng có một trăm ba mươi bảy pho tượng, lão nhớ rành rọt từng pho, không lầm đâu.” Tôi ậm ừ gật đầu rồi kết thúc câu chuyện.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã rời chùa Thắng Nghiêm, đánh xe về Kỳ Sơn, tiện thể đưa lão Tạ vào thị trấn. Lão chắp tay chào chúng tôi rồi quay đầu tót vào chợ nông sản, chẳng biết định mua cái gì. Kido Kana hỏi tôi muốn về nhà khách hay đi đâu, tôi bèn nói tới nhà sách Tân Hoa đã. Thế là chúng tôi tới nhà sách, mua một tấm bản đồ khu vực phụ cận Bửu Kê tỷ lệ lớn, tiện thể mua luôn một tập bản đồ Trung Quốc. Kido Kana có vẻ thắc mắc, nhưng cũng không hỏi.
Sau khi về nhà khách, tôi trải bản đồ ra giường, cầm kính lúp săm soi hồi lâu rồi lấy thước đo, cuối cùng mới ngẩng lên bảo Kido Kana, “Tôi nghĩ mình biết rồi…”
“Biết gì cơ?” Kido Kana chớp mắt.
Tôi nói rành rọt, “Tôi biết ông nội chúng ta đã đi đâu trong hai tháng biến mất vào năm 1931 rồi.” Tay Kido Kana run bắn lên, suýt nữa đánh rơi cốc nước. Tôi kiểm tra cửa sổ nhà khách một lượt, khép cửa phòng lại rồi quay vào nghiêm túc nói, “Trước khi giải thích, tôi muốn xác nhận lại một chuyện.”
“Anh cứ nói.”
“Cô trả lại đầu Phật ngọc, thực ra là vì mục đích gì?”
Rồi chẳng để cô ta kịp đáp, tôi đã chặn ngay, “Đừng nói là vì cái gì mà quan hệ hữu nghị hai nước hay chuộc tội cho ông, tôi không tin đâu.” Không khí trong phòng bỗng trở nên gượng gạo.
Nếu cô ta thực sự muốn trả lại đầu Phật để chuộc tội cho ông thì cách hợp tình hợp lý là phát thông cáo báo chí, sau đó làm cầu nối liên hệ giữa chính phủ Trung Quốc và Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Là người thừa kế đầu Phật, hẳn cô ta có thừa sức ảnh hưởng để thúc đẩy việc hợp tác. Vậy mà chẳng những không quay về Nhật điều đình với Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, cô ta lại ôm một đống ảnh chụp đầu Phật cũ mèm chạy đến Trung Quốc, nghe ngóng tin tức khắp nơi - nhìn thế nào cũng không giống những việc người muốn chuộc tội nên làm, ít nhất là vào lúc này.
Vừa rồi tôi xem bản đồ, đã rút ra một suy đoán khá đáng tin cậy. Nếu có thể chứng thực, tôi sẽ tiến được một bước dài về phía bí mật năm xưa. Trong thời điểm mấu chốt này, tôi nhất định phải thận trọng. Nếu Kido Kana không thực sự đáng tin, thà tôi giữ riêng suy đoán ấy cho mình.
Thấy tôi nghi ngờ, Kido Kana lộ vẻ đau buồn. Cô vén tóc, cắn môi, lặng lẽ ngồi trên xô pha. Tôi cũng không gặng hỏi, chỉ khoanh tay lạnh lùng nhìn cô ta. Lâu thật lâu, cô ngẩng lên, “Nếu tôi nói ra, anh vẫn sẽ đi cùng tôi chứ?”
“Vậy phải xem cô nói ra chuyện gì đã.”
“Dù tôi nói thực chăng nữa, thì làm sao để anh tin đây?”
“Tôi khắc tự nhận ra.”
Kido Kana gượng cười lắc đầu, “Nhưng tôi làm sao biết được anh đã dốc lòng kể hết với tôi hay chưa?”
Bị cô ta vặn lại, tôi cứng họng. Đúng vậy, niềm tin phải đến từ hai phía, dĩ nhiên cô ta sẽ không kể hết với tôi, còn tôi cũng sẽ không nói ra toàn bộ sự thật. Giờ phải ngửa hết bài ra à? Tôi thoáng phân vân, rồi sực nhận ra, bỏ mẹ, mắc bẫy rồi.
Đây chỉ là phép thử của Kido Kana. Thấy ánh mắt tôi lộ vẻ lảng tránh, cô ta biết ngay tôi cũng có chuyện giấu giếm.
Cô ả này thực không vừa. Tôi vốn định to mồm át vía cô ta hòng dò xét sự tình, nào ngờ lại bị cô ả âm thầm cho vào tròng. Nhưng cặp mắt to của Kido Kana không hề lộ vẻ đắc ý, thay vào đó là nỗi buồn vì bị hiểu lầm. Cô chăm chú nhìn tôi hồi lâu, rồi đột nhiên đề nghị, “Tôi nghĩ có một cách có thể giúp chúng ta gạt bỏ hết nghi ngờ, thực sự trở thành đồng minh tin cậy của nhau.”
“Cách gì?”
“Hai ta, ừm, kết hôn.” Kido Kana khẽ nói, giọng hơi run run.
“Kết hôn á!” Tôi giật bắn mình trước tư duy nhảy vọt nọ, thế này chẳng phải đốt cháy giai đoạn quá nhanh sao.
Kido Kana đỏ bừng mặt, song vẫn cố đánh bạo nói tiếp, “Phải, kết hôn đi. Hai gia tộc chúng ta từ thời ông cha đã có vướng mắc phức tạp. Sau khi thành vợ thành chồng, chúng ta sẽ trở thành một nhà, cùng gánh vác vận mệnh này, không còn gì ngăn cách nữa.”
Cách nghĩ của cô gái này thực chẳng bình thường chút nào. Tôi nghĩ ngợi hồi lâu mới ngập ngừng đáp, “Muốn kết hôn cũng không kịp. Hộ khẩu của tôi vẫn để ở Bắc Kinh.” Kido Kana liền nói, “Chúng ta xác định quan hệ thôi, bổ sung thủ tục pháp lý sau.”
Vẻ mặt tôi trở nên kỳ quặc đến cực điểm, “Xác định thế nào?” Trong phòng chỉ có hai chúng tồi một nam một nữ, không khí đầy mờ ám. Dường như đoán được ý nghĩ của tôi, Kido Kana vừa giận vừa thẹn vung tay bực bội, “Ý tôi là, chúng ta đính hôn trước.”
Tôi vỗ trán, tự trách mình nghĩ quá xa. Kido Kana rót hai chén nước trắng, đưa cho tôi một chén, “Nếu anh không chê thì mời uống cạn chén này, coi như bằng chứng ta đã đính hôn.” Tôi cầm chén nước, chẳng biết nói sao. Kido Kana khẽ cụng chén với tôi rồi uống cạn.
“Sau này em còn phải cùng anh chung lưng đấu cật nữa mà, mong anh giúp đỡ em nhé.” Thấy tôi cạn chén, Kido Kana gập người thật thấp, cười tươi như hoa, hệt một cô dâu Nhật lý tưởng. Dáng vẻ dịu dàng ngoan ngoãn ấy khiên tôi hơi choáng váng, cảm giác không thực sao đó, cứ ngơ ngáo thế này mà lấy vợ à?
Kido Kana đặt chén xuống, ngồi ghé bên giường, hai tay nắm lấy tay tôi, “Anh đã thành chồng chưa cưới của em thì em còn giấu giếm anh làm gì nữa.”
“Ừm, anh nghe đây.” Tôi đáp, để nguyên không rút tay ra.
Kido Kana bắt đầu kể, “Trước hết em phải làm rõ một chuyện. Những tài liệu em cung cấp cho phía Trung Quốc trước đây, kể cả những việc kể với các anh đều là sự thật. Chẳng qua em đã giấu một điều, một điều em không thể kể với người ngoài được.” Nói tới đây, cô nàng nhìn tôi đầy mờ ám, ý rằng giờ có thể nói với anh rồi.
“Mối liên quan giữa gia tộc Kido và pho tượng ngọc kia, không phải bắt đầu từ đời Kido Yuzo ông em đâu…” Giọng Kido Kana đều đều bình thản như đang bảo vệ luận văn trên giảng đường đại học, “Theo những ghi chép không đầy đủ mà tổ tiên nhà Kido để lại, mối dây liên hệ sớm nhất phải truy đến tận thời nhà Đường.”
“Nhà Đường ư? Vậy chẳng phải cùng niên đại với Phật ngọc sao?” Tôi không ngờ lại sớm như thế.
“Vâng, cũng tầm tầm đó. Theo những gì ông em nghiên cứu được thì, thuở ấy dòng tộc nhà em có một người được cử sang Đại Đường làm Khiển Đường sứ*, vô tình trông thấy pho tượng ngọc nọ ở Lạc Dương. Tại Lạc Dương, giữa ông ta và pho tượng đã xảy ra chuyện gì thì sách sử không ghi rõ, nhưng sau khi quay về, ông ta lúc nào cũng canh cánh nghĩ tới nó, thậm chí còn trăng trối lại với con cháu, mong có ngày hậu duệ mình có thể tới chiêm bái pho tượng lần nữa.”
Từ đầu thế kỷ VII đến cuối thế kỷ IX, khoảng 264 năm, đề học tập tiếp thu văn hóa Trung Hoa, Nhật Bản đã mười mấy lần phái người sang nhà Đường, gọi là Khiển Đường sứ. Khiển Đường sứ có đóng góp cực lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội Nhật Bản và quan hệ hữu nghị Trung Nhật.
“Cũng có nghĩa đầu Phật ngọc này không phải do ông Kido Yuzo và ông nội anh vô tình phát hiện trong quá trình khảo sát ư? Ngay từ khi đến Trung Quốc, ông em đã định tìm nó rồi hả?”
“Vâng. Bấy giờ Hội phong tục China đặt ra một kế hoạch, họ sưu tầm các loại tài liệu về văn hiến Trung Quốc được lưu giữ ở Nhật, viết nên cuốn Ghi chép về đồ cổ China, liệt kê khoảng hơn một trăm thứ chưa từng xuất hiện trên thị trường, đồng thời còn cả những cổ vật quý giá với nhiều manh mối vụn vặt để lần theo, bao gồm cả ghi chép về Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên của nhà Kido. Người của Viện nghiên cứu Đông Bắc Á vô cùng hứng thú với Phật ngọc bởi giá trị của nó còn hơn cả viện bảo tàng. Ông nội em được cử đến Trung Quốc vì sứ mệnh ấy.”
“Sau đó ông ấy gặp được ông anh, đôi bên đồng tâm nhất trí, cuỗm luôn đầu Phật ngọc à?” Giọng tôi đượm phần chua chát, bất lực và châm chọc.
Kido Kana cứng người lại, cao giọng, “Nhưng ban đầu ông em không định sang Trung Quốc trộm cổ vật. Ông là người si mê đồ cổ, không quan tâm đến chính trị, chỉ mong được nhìn thấy pho tượng ngọc bao đời nhà Kido tha thiết ước ao mà thôi.”
“Nhưng rốt cuộc ông ấy vẫn đem Phật ngọc về Nhật đấy thôi.”
“Ông em là một nhà khảo cổ thuần túy, trong mắt ông ấy, quốc gia hay dân tộc không có vai trò gì quan trọng trong nghiên cứu văn vật cả. Huống hồ ông nội chỉ mang được mỗi đầu Phật ngọc về nước. Vì chuyện này mà ông buồn bã rất lâu. Người ngoài cứ tưởng ông tiếc vì không lấy được toàn bộ pho tượng, nhưng em biết thực ra ông buồn vì một báu vật vô giá phải đầu mình đôi ngả.”
Thấy tôi nửa tin nửa ngờ, Kido Kana lại nói thêm, “Hôm nay chẳng phải Cơ Vân Phù cũng nói đấy ư? Thầy Hứa Hòa Bình bố anh đột nhiên quyết định tới Tây An, đem theo hai cuốn sổ. Em đang nghi rằng hai cuốn sổ này là do ông em trao lại cho bố anh nhằm chuộc tội.”
Tôi suýt nữa bật dậy khỏi xô pha, “Chuyện gì nữa đây?”
“Sau khi ông em qua đời vì bệnh, sổ tay của ông mới được tìm thấy trong một ngăn kéo ngầm trong nhà rồi đưa vào bảo tàng tư nhân. Nhưng về sau em từng kiểm tra ngăn ngầm nọ, rõ ràng nó được làm theo kích thước cuốn sổ tay, nhưng độ sâu đủ xếp vừa tận ba cuốn. Bởi thế xưa nay em vẫn nghi ngờ không chỉ có một cuốn sổ. Giờ nghe Cơ Vân Phù kể, em càng quả quyết hơn. Nhất định trước khi qua đời, bằng cách nào đó, ông nội em đã trả lại hai cuốn cho bố anh, nên thầy Bình mới lần đến Kỳ Sơn.”
“Nhưng vì sao chỉ đưa hai cuốn mà không trả cả ba?” Tôi thắc mắc.
“Có lẽ ông muốn giữ lại chút kỷ vật cho mình.” Kido Kana khẽ thở dài, “Những năm cuối đời, ông rất cô đơn. Đầu Phật bị Viện nghiên cứu Đông Bắc Á thu giữ, ông hầu như không được nhìn thấy nữa, người nhà cũng gần như bỏ mặc ông. Chỉ còn duy nhất cuốn sổ này ghi lại ký ức. Lần này em nói muốn trả đầu Phật về Trung Quốc, mục đích thực sự là muốn nhân cơ hội này hoàn thành nguyện vọng của gia tộc và ông nội, tìm cho ra phần thân tượng mất tích năm xưa, để pho tượng được chắp lại hoàn chỉnh. Còn về sau Phật ngọc ở Nhật Bản hay Trung Quốc, không quan trọng. Miễn khôi phục được báu vật thì ông em cũng ngậm cười nơi chín suối.”
“Vì chuyện này mà em trở mặt với cả Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, còn lặn lội đến tận Trung Quốc, tự ý đính hôn với một người đàn ông xa lạ hay sao? Sao em quý mến người ông chưa từng gặp mặt thế?”
“Chắc cái đó gọi là máu mủ. Chẳng phải anh cũng bôn ba khắp chốn vì người ông chưa từng biết mặt đấy ư?” Kido Kana hỏi ngược lại.
Bốn mắt nhìn nhau, cả hai chúng tôi đều vỡ lẽ. Mấy chục năm trước, Hứa Nhất Thành và Kido Yuzo bước lên con đường kiếm tìm Phật ngọc; mấy chục năm sau, con cháu hai người cũng lại bước lên con đường y hệt, việc này thoạt nhìn tưởng như ngẫu nhiên, nhưng thực ra lại ẩn giấu yếu tố tất yếu. Thực ra chúng tôi đều thuộc típ người sống hơi lý tưởng, thường cố chấp kiên trì với những việc tưởng chừng vô vị, chẳng tiếc đánh đổi mọi thứ - hẳn đây là “máu mủ” mà Kido Kana nói.
Chúng tôi nhìn nhau cười. Bấy giờ tôi mới nhận ra Kido Kana bất giác đã dựa vào vai mình, thân hình nhẹ nhàng ngả sang, giữ tư thế thân mật mà mờ ám. Để chữa ngượng, tôi đằng hắng nói, “Kido này, để anh kể cho em nghe những gì hôm nay anh mới phát hiện nhé.”
Kido Kana ngồi thẳng người lại, “Sau này cứ gọi em là Kana thôi.” Đoạn cô nàng nhoẻn cười tươi tắn. Vẻ đẹp của Kido Kana và Hoàng Yên Yên khác nhau một trời một vực, Yên Yên đẹp đến hồn xiêu phách tán, như ngọn lửa cháy rực giữa đồng hoang, còn Kido Kana lại như một tập thơ mở sẵn, âm thầm thơm ngát.
Chúng tôi tạm thời xem như đã đính hôn, hơn nữa cô nàng cũng bộc bạch ý định thực sự, nếu tôi còn giấu giếm thì quá đáng quá. Nghĩ vậy, tôi khoanh chân ngồi ngay ngắn, lật ra bản đồ thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam, cầm bút chì lên nói, “Tổng họp những tin tức nắm được đến giờ, ta có thể biết: pho tượng ngọc thờ phụng trong minh đường Võ Tắc Thiên là Phật Tì Lư Già Na, cũng tức là Đại Nhật Như Lai, được tạc phỏng theo tướng mạo bà ta. Lão Tạ từng nói, chẳng biết em còn nhớ không, rằng hai pho Đại Nhật Như Lai và Lô Xá Na ở rất nhiều chùa đều được đặt đối xứng nhau theo tinh túy Pháp Báo một thể.”
“Có ạ.”
“Nghe được câu ấy, anh cứ băn khoăn mãi, trong minh đường Võ Tắc Thiên ở Lạc Dương thờ tượng ngọc của Đại Nhật Như Lai. Vậy nhất định còn một pho Lô Xá Na tương ứng với nó nữa. Di chỉ minh đường hiện giờ nằm ở góc Đông Bắc ngã tư đường Trung Châu và Định Đỉnh.”
Vừa nói tôi vừa dùng bút chì khoanh tròn trên bản đồ. Được tôi gợi ý, Kido Kana sáng mắt lên, giật cây bút từ tay tôi, từ nội thành Lạc Dương vẽ một đường chì mờ mờ kéo dài đến tận động Long Môn.
“Chính xác!” Tôi nhìn cô đầy tán thưởng, “Trong động Long Môn là Đại Phật Lô Xá Na, còn trong minh đường là Đại Nhật Như Lai. Một pho ngoài sáng một pho trong tối. Chúng ta có lý do để tin rằng, hai pho tượng này tuân thủ nghiêm ngặt cách bài trí Pháp Báo một thể.”
Tôi lại trải bản đồ Bửu Kê lên giường, “Ta lại xem sang chùa Thắng Nghiêm này. Hôm nay lão Tạ cũng nói đấy, trong chùa chỉ có một pho Đại Nhật Như Lai, vậy pho Lô Xá Na kia đâu? Hai pho ở Lạc Dương, một trong linh đường, một ngoài ngoại ô, vậy hai pho ở chùa Thắng Nghiêm có phải cũng được bài trí tương tự, một pho ở trong, một pho ở ngoài chùa không?”
Kido Kana vỗ tay thốt lên một câu cảm thán bằng tiếng Nhật. Cô nằm nhoài nửa người ra bản đồ, ngón tay di từng tấc quanh Kỳ Sơn.
“Bởi thế anh cho rằng, pho tượng trong chùa Thắng Nghiêm là một mốc tọa độ. Sau khi xem xét khoảng cách và phương hướng giữa di chỉ minh đường và động Long Môn, anh đã áp tỷ lệ đó lên chùa Thắng Nghiêm. Kết quả phát hiện, vị trí của pho Lô Xá Na tương ứng với Đại Nhật Như Lai trong chùa nằm ngay tại đây…”
Kido Kana đưa bút theo lời tôi giảng giải, chẳng mấy chốc đã vạch được một đường thẳng. Bắt đầu từ chùa Thắng Nghiêm, kết thúc ở một điểm trên dãy Tần Lĩnh cheo leo chót vót, không có tên địa danh. Thấy cô ngước lên ra ý hỏi, tôi bèn gật đầu, “Ông anh và ông em rất có thể cũng phát hiện được mối tương quan ấy ở Kỳ Sơn, sau đó dựa theo vị trí suy từ pho tượng ở chùa cô Thắng Nghiêm, đi vào dãy Tần Lĩnh, tìm pho Lô Xá Na còn lại.”
Kido Kana hào hứng tiếp lời, “Cũng có nghĩa họ rất có thể đã tìm thấy Phật ngọc trong dãy Tần Lĩnh, nơi có pho Lô Xá Na làm dấu.” Nhưng liền sau đó, cô lại hoang mang, “Phật ngọc vốn được thờ tại Lạc Dương kia mà, sao lại trôi dạt sang tận xó núi hẻo lánh ở Kỳ Sơn?”
Tôi lắc đầu, “Em đừng quên, ngày mười sáu tháng Giêng năm Chứng Thánh thứ nhất, cũng tức là năm 695, minh đường đã bị hủy hoại trong một trận lửa lớn, rất nhiều báu vật bên trong cũng bị thiêu hủy. Pho tượng ngọc này có lẽ được chuyển đi ngay lúc đó, giấu vào một chỗ bí mật.”
“Vậy tiếp sau đây chúng ta phải làm gì?”
“Dĩ nhiên là tới thực địa xem xét rồi.” Tôi đưa tay trỏ dải Tần Lĩnh xa xa, vẻ bình thản.
Động Long Môn nằm về phía Đông Nam, cách di chỉ minh đường ở Lạc Dương chừng mười lăm cây số. Nếu suy luận của tôi chính xác thì pho Lô Xá Na bí ẩn cũng ở về phía Đông Nam cách chùa Thắng Nghiêm mười lăm cây số - vừa khéo nằm trong dãy Tần Lĩnh. Nghe thì gần, nhưng đây chỉ là độ dài đường chim bay trên bản đồ. Tần Lĩnh quanh co khúc khuỷu, trong núi không có đường mòn để đi, khó tránh phải vòng vèo leo núi, mười lăm cây số đường chim bay chẳng biết đi bao lâu mới đến.
Tôi thuật lại suy đoán này cho Cơ Vân Phù, anh ta cũng rất tán thành, muốn theo chúng tôi đi xem thử. Có điều anh ta phải giúp lão Thích giải mã sổ tay, không có thời gian. Bởi vậy tôi quyết định chỉ đưa Kido Kana đi theo. Vốn định tìm một người bản địa thông thuộc địa hình dẫn đường, nào ngờ trên đường lại đụng lão Tạ. Nghe nói chúng tôi muốn vào Tần Lĩnh, lão hăm hở đòi theo, vỗ ngực khoe rằng từ bé mình đã thuộc làu dải núi này, xuyên rừng vượt núi băng băng. Tuy lão nói cảm thấy đôi bên có duyên, nhưng tôi đoán nguyên nhân chủ yếu cũng vì chúng tôi rộng rãi thôi.
Chúng tôi mua ít trang bị leo núi ở Kỳ Sơn, còn chuẩn bị hai căn lều và đồ ăn dự trữ trong ba ngày. Giờ chưa vào thu, trong núi mới se lạnh, cắm trại ngoài trời rất hợp. Trước đây tôi từng theo người ta tới Trường Thành Tư Mã Đài ở gần Bắc Kinh chơi, có kinh nghiệm leo trèo, Kido Kana cũng kể khi còn ở Nhật thường đi vào núi sâu khảo sát những di chỉ đền thờ Thần đạo, đã quen tác nghiệp bên ngoài, về phần lão Tạ, năm xưa lão còn chạy từ Thiểm Tây đến tận Thành Đô, vừa đi vừa khất thực nên quãng đường ngắn tẹo này chỉ là chuyện nhỏ.
Vấn đề lớn nhất mà chúng tôi phải đối mặt là vị trí chính xác. Đây không phải là khảo sát một “vùng”, mà là một “điểm”, phải đến đúng “điểm” đó mới có ý nghĩa.
Cuối cùng vẫn là Cơ Vân Phù ra tay giải quyết giùm. Anh ta tìm trong bộ sưu tập của mình một bản đồ quân sự cũ mèm, trông khá thân thuộc với Kido Kana, bởi do cục Tham mưu Nhật Bản khi xưa xuất bản. Trước chiến tranh thế giới, Nhật Bản đã phái rất nhiều gián điệp thâm nhập Trung Quốc, vẽ lại vô sô bản đồ tinh vi chính xác, thậm chí còn tiện dụng hơn cả bản đồ của người Trung Quốc. Tấm này là bản đồ địa hình quanh Kỳ Sơn, tuân thủ nghiêm ngặt cách vẽ bản đồ quân sự, các đường mức và nét vẽ đều cẩn thận tỉ mỉ, độ cao so với mực nước biển cũng được ghi rõ ràng, rất dễ dùng.
“Công nhận người Nhật làm việc đúng là đâu ra đấy.” Thấy tôi giũ giũ bản đồ, lão Tạ khinh khỉnh, “Mấy đường gấp khúc ngoắt ngoéo này sao bì được la bàn trong tay và huyền cơ trong lòng lão đây?” Dứt lời lão lôi la bàn phong thủy ra, xoay xoay một hồi, làm bộ siêu phàm thoát tục.
La bàn của lão làm từ gỗ hoàng dương, quanh rìa bóng loáng, nổi hồ bọc đỏ thẫm, như óc chó bị người bóp mềm, ngấm khí huyết, thoạt nhìn đã biết là món văn vật quý. Có điều tôi rất nghi ngờ tính thực dụng của nó, la bàn thì xoay được, nhưng chữ phía trên đã mờ gần hết, từ tính của kim chỉ Nam cũng chẳng biết thế nào.
Kido Kana im lặng kiểm tra hành lý của chúng tôi. Từ khi “đính hôn”, lúc tôi trò chuyện với người ngoài, cô không bao giờ chen vào, luôn đứng lùi lại sau lưng tôi, lựa lúc đưa áo khoác hay nước uống, dịu dàng đức hạnh như phụ nữ Nhật truyền thống.
Nghe nói chúng tôi sắp lên đường, anh Hồ đề nghị dẫn Hai Tần theo. Có điều tôi thấy gã vẫn để bụng thù chúng tôi, nên từ chối khéo. Trong núi rất nguy hiểm, cần đồng đội chân thành và đoàn kết, tôi không muốn vừa leo núi vừa phải đề phòng gã.
Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi chọn một buổi sáng, đi vào Tần Lĩnh từ một ngọn núi gần chùa Thắng Nghiêm. Cơ Vân Phù đưa chúng tôi đến tận chân núi, dặn dò đủ điều, nói rằng khi nào chúng tôi về, có khi đã giải xong mật mã rồi.
Ngọn chính của Tần Lĩnh nằm trong địa giới huyện Mi, huyện Thái Bạch, huyện Chu Chí, cao hơn ba nghìn mét so với mực nước biển. Kỳ Sơn tiếp giáp ba huyện ấy, thuộc chân núi Bắc của ngọn chính. Dáng núi nguy nga kỳ vĩ, thế núi trùng điệp nhấp nhô, phong thái không thể xem thường. Lúc mới vào núi còn có đường mòn chăn dê để bám theo, nhưng chẳng mấy chốc đường mòn cũng mất dấu. Chúng tôi đành men theo sườn núi cheo leo, dò dẫm trèo lên, có lúc để vượt qua một con dốc cao, phải lên xuống mấy mỏm núi. Thoạt đầu thỉnh thoảng còn thấy ruộng nương hoặc rừng cây công nghiệp trong thung lũng, nhưng đi mãi về sau, thông trắng, du tùng, cây đoạn dã sinh nhiều lên, từ lưa thưa lác đác dần thành um tùm rập rạp, nhiều loại chim muông không biết tên thoắt ẩn thoắt hiện. Chúng tôi đi suốt một buổi trưa, thế mà dò bản đồ còn chưa đến ba ki lô mét đường chim bay.
Cả đám đầm đìa mồ hôi đi đến một chỗ thấp trũng nằm ở khúc quanh của hẻm núi, chợt thấy một con suối trong vắt chảy ngang qua rồi uốn lượn dẫn vào sâu trong núi. Mọi người quyết định dừng lại nghỉ ngơi bên khe suối, ăn trưa lấy sức.
Tôi cúi đầu cầm la bàn xem bản đồ, nghiên cứu xem đi đường nào tối ưu. Bản đồ này tuy được vẽ kỹ càng, nhưng cũng không thể tin hoàn toàn được. Có những nơi hiểm trở nhưng đá núi gập ghềnh, có thể đặt chân bám víu, có nơi trống thì bằng phẳng nhưng lại là rừng cây san sát, không đi qua được. Lão Tạ cầm la bàn đi quanh một vòng, thấy tôi đang vò đầu bứt tai thì nheo mắt nói, “Nơi này gọi là Ma Nhổ Tóc. Nhìn mà xem, Đông một khe, Tây một dải, như bị ma túm đầu nhổ mất mấy nhúm tóc vậy, nổi tiếng khó đi, dân chúng quanh đây cũng ít khi lai vãng.”
“Nói vậy là ông cũng chưa từng đến hả?”
“Khụ! Chỗ này có gì báu bở đâu, trừ tội phạm trốn truy nã, ai lại tự dưng chạy vào núi làm gì.” Lão móc ra một cái màn thầu, ngồi xuống mép nước gặm.
Kido Kana không tham gia thảo luận, chỉ ân cần cắt cho tôi một lát bánh mì, phết sô cô la lỏng lên trên, còn rắc thêm mấy quả nho khô. Tôi đón lấy bánh mì cắn một miếng, cô lại đưa nước pha mật ong, thả vài lát chanh vàng tới, khiến lão Tạ ghen tị đỏ cả mắt.
Ăn uống no say, nằm xuống bãi cỏ nghỉ ngơi, cô chợt hỏi tôi: Phật ngọc vốn đặt ở minh đường tại Lạc Dương, vì sao ông tôi và Kido Yuzo lại đến Kỳ Sơn tìm?
Trước đây tôi từng tìm hiểu về vấn đề này. Dù sao cứ dò dẫm đi mãi cũng chán, tôi bèn kể cho cô nghe câu chuyện phía sau.
Minh đường vốn chỉ nơi để tuyên cáo chính lệnh và tế bái thời cổ, mang đậm màu sắc chính trị. Để chuẩn bị cho việc xưng đế, Võ Tắc Thiên đã cho xây một tòa minh đường ở Lạc Dương vào năm Thùy Củng thứ tư, cũng tức là năm 688, gọi là “Vạn Tượng thần cung”. Cai quản việc xây xướng là một gã người tình của bà ta, tên Tiết Hoài Nghĩa. Kẻ này vô cùng thông minh, chỉ huy mấy vạn dân công, lấy điện Càn Nguyên làm nền, chỉ mất một năm đã xây được minh đường hùng vĩ nguy nga.
Minh đường chu vi một trăm mét, cao gần trăm mét, ở thời nay cũng có thể coi là tòa nhà bề thế. Chia làm ba tầng, tầng cao nhất là một ngôi đình mái vòm, bên trong đặt một con kim phụng bằng sắt, ám chỉ Võ Tắc Thiên. Phía sau minh đường còn một tòa thiên đường, đặt pho tượng phật bồi vải* cao cả trăm thước xung quanh bày nhiều vật khí Phật giáo, rất có thể pho tượng ngọc Đại Nhật Như Lai cũng bày ở đây.
Một phương pháp thủ công để làm tượng sơn, trước tiên dùng đất nặn thành lõi, sau đó lấy sơn trát vải ra bên ngoài tượng đất, đợi khô đi lại trát thêm một lớp sơn mới, trát mấy lần, cuối cùng rút phần lõi đất đi, pho tượng không chỉ sống động mà còn rất nhẹ. (TG)
Minh đường dựng được tám năm thì vào tết Nguyên Tiêu năm Chứng Thánh thứ nhất (695), để lấy lòng Võ Tắc Thiên, Tiết Hoài Nghĩa đã dốc hết tâm sức bày ra một buổi biểu diễn quy mô cực lớn. Y đào hố sâu năm mét trong minh đường, đưa một pho tượng Phật xuống, rồi dùng xích sắt kéo lên trước mặt Võ Tắc Thiên, xem như kỳ quan đức Phật hiện ra từ lòng đất. Y còn dùng máu bò vẽ một bức tranh Phật cao hai trăm thước, treo trên cầu Thiên Tân. Tiếc rằng Võ Tắc Thiên chẳng mấy mặn mà, bởi đang dồn hết tâm tư vào tình mới là Thẩm Nam Cù.
Tiết Hoài Nghĩa ganh ghét, ngay sau tết Nguyên Tiêu đã châm lửa đốt thiên đường. Thế lửa quá lớn, lan sang cả minh đường, thiêu trụi tất cả. Võ Tắc Thiên không muôn vạch áo cho người xem lưng, chỉ truyền ra ngoài là thợ thuyền sơ suất.
“Về sau trải qua nhiều lần tu sửa, song minh đường không thể khôi phục lại quy mô ban đầu. Đến loạn An Sử thì bị thiêu hủy hoàn toàn. Anh đoán tượng Phật ngọc đã được bí mật chuyển ra ngoài vào một trong hai lần hỏa hoạn ấy.”
“Nếu đưa Phật ngọc đến Trường An gìn giữ thì em còn hiểu được. Nhưng tại sao lại đưa nó đến vùng phụ cận Kỳ Sơn? Lẽ nào Kỳ Sơn có vị thế đặc biệt vào thời Đường ư?” Kido Kana hỏi. Tôi lắc đầu, tỏ ý không trả lời được. Thực ra mục đích chuyến này chính là để tìm hiểu câu chuyện đằng sau pho tượng ngọc mà.
Tôi phủi tay, đứng dậy đeo ba lô lên, chuẩn bị lên đường. Kido Kana ngồi dưới đất, giơ tay lên để tôi kéo dậy. Lão Tạ một mình đi trước, xưa nay chúng tôi trò chuyện, lão chẳng bao giờ chen vào. Tuy lão mồm mép tép nhảy, nhưng thực ra rất thông minh, hiểu rõ có những việc nên vờ không biết là hơn.
Lại dò dẫm trong núi suốt buổi chiều, từ bên sườn một ngọn núi cao ngất đi xiên vào chỗ giao nhau giữa hai vách núi, men theo vách đá cheo leo hẹp như sợi chỉ đi xuống. Những tầng đứt gãy tự nhiên ở đây hình thành nên một con đường mòn hiểm trở, cố thì cũng qua được, nhưng phải áp lưng vào vách núi, đi từ từ từng bước. Xem trên bản đồ, đây là một dải núi như tường bao bên ngoài, vượt qua mới thấy thế núi bên trong thoai thoải, dễ đi hẳn.
Trước khi mặt trời lặn, cuối cùng chúng tôi cũng băng qua được bức tường núi, đến một khe núi đầy trúc và cây thích. Địa hình nơi đây bằng phẳng, rất hợp dựng lều nghỉ lại. Đột nhiên lão Tạ la lên, chúng tôi nhìn theo ánh mắt lão, thấy sâu trong rừng thấp thoáng bóng một công trình kiến trúc.
Chúng tôi không nén nổi kinh ngạc trước phát hiện này, thực chẳng ngờ ở nơi heo hút vậy còn có người ở. Cả ba thận trọng dừng bước, định quan sát kỹ càng rồi tính. Công trình nọ bị trúc và thích che khuất phần lớn, trông mặt bắt hình dong có thể đoán được kích thước của nó khá nhỏ, còn thấp hơn nhà tranh bình thường. Trảng cỏ và rừng cây xung quanh không hề có vết chân người.
Lão Tạ quan sát một hồi, vuốt râu nhận xét, “Lấy thích làm màn, không phải nơi người ở.”
“Vậy là gì?”
Lão quay lại, nghiêm trang đáp, “Là một ngôi mộ.”
Tôi thở phào. Giữa chốn thâm sơn cùng cốc này, một ngôi mộ còn an toàn hơn một đám người không rõ lai lịch. Chúng tôi lại gần, quả nhiên là một nấm mồ. Nhìn bề ngoài, mộ này hẳn là từ thời Minh, xây bằng đá xanh khối lớn. Có điều nó từng bị trộm viếng thăm, bia đá trước mộ chỉ còn trơ bệ, cả ngôi mộ tênh hênh phơi ra như một người bị mổ phanh bụng, thấp thoáng thấy cả nửa phần vòm khum khum. Có lẽ kẻ trộm thấy nơi này hoang vắng không người nên chẳng kiêng dè gì, đến đường hầm cũng không buồn đào, khơi khơi quật mồ lên.
Quanh mộ cỏ hoang và cây bụi mọc cao gần như vùi lấp quá nửa ngôi mộ, không thấy dấu đường mòn đâu cả. Chứng tỏ dù năm xưa từng có người hương khói, thì nay nó cũng đã bị bỏ hoang lâu ngày, ngay chuyện bị trộm cũng là từ rất lâu rồi. Lão Tạ cầm la bàn xem xét một vòng, nói rằng ngôi mộ này hết sức kỳ lạ, nơi đây không có nước bao quanh núi, hình thế vừa tù túng vừa khô cạn, xây mộ ở đây rõ ràng không muốn người chết được yên.
Tôi theo thuyết vô thần, Kido Kana ở Nhật cũng chẳng lạ gì mồ mả, về phần lão Tạ thì tự xưng biết pháp thuật, ma quỷ không dám đến gần. Ba chúng tôi chẳng chút e sợ, cắm lều căng bạt nghỉ lại ngay bên cạnh mộ. Lão Tạ còn nói không cần ngủ trong lều, chỉ cần một phiến đá là đủ. Nhưng nghĩ thương lão đã có tuổi, chúng tôi cũng chẳng đành lòng để lão ngủ ven đường, bèn dúi cho lão một căn.
Có điều làm vậy lại nảy ra một vấn đề, chúng tôi chỉ còn một căn lều duy nhất. Tôi đang lúng túng thì Kido Kana đã chui vào, trải sẵn đệm hơi rồi lôi ra hai túi ngủ. Thấy thế tôi mới se sẽ thở phào.
Đi suốt một ngày, ai cũng mệt lử. Xong bữa tối, tôi và lão Tạ tán gẫu một chập rồi ai vào lều nấy. Vừa vén bạt đi vào, tôi đã thấy Kido Kana quỳ trên tấm đệm hơi, hai tay đặt trên đầu gối, “Anh về rồi ạ.” Giọng điệu dịu dàng như vợ đợi chồng đi làm về. Cô giúp tôi cởi áo khoác, cẩn thận gấp thành hình cái gối rồi đặt ở miệng túi ngủ. Tôi bỗng ngơ ngẩn nhận ra mình đã dần quen với sự có mặt của cô bên cạnh.
Tôi để ý thấy cô đã cởi áo khoác le