Chương 9 Lão Triều Phụng đứng sau xúi giục lộ nguyên hình
Nghe họ nói, tôi ngây ra. Tôi bị bắt? Sao tôi lại bị bắt?
Chẳng để tôi kịp phản ứng, họ đã xô tôi ra, xộc vào phòng, lục soát khắp nơi. Kido Kana trợn tròn mắt kinh hoàng, không hiểu rốt cuộc có chuyện gì. Thấy tôi đưa mắt ra hiệu, cô vội siết chặt lấy tập bản thảo trên bàn.
May sao cảnh sát không hề quan tâm đến nó, họ sục sạo một vòng, chẳng mấy chốc đã tìm thấy chiếc tước chạm rồng cạnh giường tôi. Thực ra tôi cũng không định giấu. Tay cảnh sát dẫn đầu cầm lên đưa Hai Tần xem, gã liền gật như bổ củi, “Đúng, đúng rồi, tôi thấy chính cái này đấy!”
Gã cảnh sát nhếch miệng cười hỏi tôi, “Anh Hứa Nguyện, cái này của anh à?”
Câu này của gã hiểm thật. Tước chạm rồng là bảo vật quốc gia cấp một, nếu tôi nhận là của mình, sẽ bị căn vặn nguồn gốc xuất xứ; nếu tôi nói lấy được từ nhà họ Hoàng, thì càng bị nghi ngờ là đánh cắp văn vật, trả lời thế nào cũng không xong. Thấy tôi im lặng, họ bập ngay còng vào cổ tay, “Đi theo chúng tôi.”
“Các anh dựa vào đâu mà bắt người?” Tôi cao giọng chất vấn.
Hai Tần bước đến vênh váo quát, “Cứ nhìn điệu bộ lấm la lấm lét của mày thì biết, cái tước chạm rồng kia không phải đồ ăn cắp cũng là đồ tùy táng, các đồng chí đây từ tận Bắc Kinh lặn lội đến, chẳng lẽ còn đổ oan cho mày được à?”
“Các anh không phải cảnh sát Kỳ Sơn ư?” Tôi nhíu mày.
“Không, chúng tôi từ Bắc Kinh tới.” Tay cảnh sát lạnh lùng đáp.
Tôi than thầm trong bụng. Cứ ngỡ Hai Tần cố tình phá thối, chạy đến đồn cảnh sát địa phương báo án, quá lắm thì cậy cục quan hệ, mượn việc công trả thù riêng, thế lại dễ giải quyết. Nhưng nếu là người từ Bắc Kinh phái đến thì phiền phức rồi đây.
Cảnh sát từ Bắc Kinh đến Kỳ Sơn bắt người, chứng tỏ đằng đó đã chính thức lập chuyên án. Chắc chắn nhà họ Hoàng đã đứng sau xúi giục. Là chủ nhân thực sự của tước chạm rồng, hễ họ báo cảnh sát, tôi sẽ lập tức trở thành tội phạm đánh cắp văn vật nhà nước hạng một rồi bỏ trốn.
Giờ bắt được quả tang, chứng cứ rành rành, dù tôi muốn thanh minh hoặc xin nhà họ Hoàng thu tay lại, thì trước hết cũng phải bị giải về Bắc Kinh cái đã. Bất luận ra sao, tôi không thể tiếp tục ở lại Kỳ Sơn nữa rồi.
“Đi tìm Phương Chấn!”
Trước khi bị dẫn đi, tôi chỉ kịp dặn Kido Kana đúng một câu. Giờ chỉ có Phương Chấn và cục trưởng Lưu đứng sau lưng y là cứu được tôi thôi. Kido Kana nắm chặt xấp bản thảo trong tay, gật đầu thật mạnh.
Xe cảnh sát Kỳ Sơn đỗ ngay ngoài nhà khách, tôi lên xe, hai tay đặt lên đầu gối, hai cảnh sát im lìm ngồi hai bên kẹp tôi vào giữa. Xe chạy rất lâu, thấy đã sắp ra khỏi thị trấn, tôi thắc mắc, “Đồng chí ơi, chúng ta đi đâu đây?” Thấy đối phương không đáp, tôi cúi đầu nhắm nghiền mắt, sắp xếp lại những suy nghĩ rối loạn trong đầu.
Lý ra năm phái đã tán thành việc tôi điều tra đầu Phật. Dù nhà họ Hoàng không vừa lòng với hành vi của tôi ở An Dương, cũng đâu đến nỗi huy động cảnh sát chuyện bé xé ra to như vậy. Giờ xem tình hình này, dường như không phải định chỉnh đốn tôi, mà có người không muốn tôi tiếp tục ở Kỳ Sơn nữa.
Lẽ nào hắn sợ tôi moi ra thêm chuyện? Thú vị đây. Có lẽ kẻ đứng đằng sau giết chết Cơ Vân Phù, lão Thích và lão Tạ ngày càng nôn nóng rồi. Đối với tôi, đây cũng chưa hẳn không phải việc tốt.
Còn đương nghĩ ngợi lan man, xe bỗng dừng lại. Tôi bị dẫn xuống xe, ngẩng đầu lên thấy một tòa nhà cao ngất, trên đỉnh lấp loáng ánh đèn. Xa xa còn có hai hàng đèn âm đất chạy dài thẳng tắp, tiếng ong ong trầm đục vọng vào tai.
Đây là sân bay Kỳ Sơn, hơn nữa còn là sân bay quân dụng, mấy chiếc máy bay sơn ký hiệu không quân đỗ dọc đường băng.
“Liệu đấy, đi theo chúng tôi mau.” Cảnh sát lôi tôi tới trước một máy bay bụng phệ. Vừa nhìn đã nhận ra là Y-7, loại máy bay do Trung Quốc nghiên cứu chế tạo, được dùng trong cả hàng không dân dụng và quân dụng. Khoang máy bay mở toang, thang dây được thả xuống, cánh quạt hai bên đã bắt đầu quay tít, phát ra tiếng vù vù trầm đục.
Tôi ngẩng lên nhìn chiếc Y-7 to đùng, chợt mừng khôn xiết.
Không ngờ chúng lại nôn nóng đến mức không đợi nổi tạm giam một đêm, mà áp giải tôi lên máy bay ngay. Đủ thấy kẻ đứng đằng sau cũng rất kiêng dè. Hắn biết nếu Phương Chấn nhúng tay vào, hoặc cục trưởng Lưu gọi điện chỉ đạo từ Bắc Kinh, cảnh sát nhất định không thể đưa tôi ra khỏi Kỳ Sơn được nữa. Vì thế, hắn đã mạnh tay huy động cả máy bay quân dụng áp tải một nhân vật nhãi nhép như tôi, không để họ kịp trở tay.
Nói thực lòng, tôi còn lấy làm vinh dự nữa chứ, mẹ kiếp.
Lên máy bay, tôi nhìn quanh mới thấy mình hơi tưởng bở. Khoang máy bay cực rộng, xếp đầy những bưu kiện và bao tải xanh lá, xem ra đây không phải máy bay dành riêng cho tôi, mà là máy bay chuyển bưu phẩm và hàng hóa.
Tôi bước vào khoang hàng, cảnh sát còng tay tôi vào tay nắm rồi ai nấy tự tìm một chỗ ngồi phệt xuống sàn. Trong khoang còn mấy người khác, thấy đám cảnh sát mặt mày cau có, tôi lại đeo còng, nên không dám lân la bắt chuyện.
Chẳng mấy chốc, máy bay cất cánh, loại máy bay động cơ cánh quạt này tròng trành rất khiếp, mọi người đều phải dựa sát lưng vào vách khoang để giảm thiểu chấn động. Nhưng tay tôi lại bị còng vào tay nắm, phải giơ lên, thân thể rung lắc dữ dội, hết sức nôn nao khó chịu. Không sao chịu nổi nữa, tôi đành hỏi xem có được đổi chỗ không. Hai viên cảnh sát trao đổi mấy câu rồi đứng dậy rút chìa mở còng, dẫn tôi xuống một góc phía sau còng lại.
Chỗ này còn đỡ, có thể dựa thẳng người. Yên vị rồi, tôi bắt đầu nhìn quanh ngó quất, phát hiện một ông anh đang tựa vào bọc bưu kiện gần đó. Ông anh này đầu to bất thường, lơ thơ mấy cọng tóc, trông như miếng thịt viên, cần cổ lại gầy gò, nhìn mà chỉ sợ sắp gãy gập. Tôi nheo mắt, mượn ánh đèn vàng lờ nhờ trong khoang máy bay, trông thấy trên cổ anh ta đeo một mặt dây nhỏ, thỉnh thoảng anh ta lại lấy tay lau lau, hẳn là rất quý. Đó là “lợn nắm”, một loại đồ ngọc thời Hán, hình trụ tròn, chỉ dùng vài nhát dao mà chạm thành hình con lợn béo nằm ườn, nắm gọn trong một bàn tay. Khi chôn cất, người ta sẽ đặt lợn nắm vào lòng bàn tay người chết, tượng trưng cho tiền tài dưới âm phủ, tương tự như ve ngọc tám dao thời Hán tử thi ngậm trong miệng vậy.
Lợn nắm là đồ tùy táng, chôn cùng người chết. Có lẽ ông anh này là người ngoài nghề, bằng không ai lại đeo đồ tùy táng lên người? Nếu người ở Phan Gia Viên trông thấy, ắt sẽ cười ngặt nghẽo là “mắt nhét đít”.
“Mắt nhét đít” là một điển cố. Thời Dân Quốc, Tôn Điện Anh quật mộ Từ Hi, phần lớn đồ tùy táng bên trong đều lưu lạc trong dân gian, một ông lão người Mãn ở Bắc Kinh chẳng hiểu sao lại tìm được một miếng ngọc tùy táng hình lăng trụ, xinh xắn đáng yêu. Ông ta thích thú không rời, ngày ngày rảnh rỗi đều ngậm trong miệng. Về sau có người biết chuyện mới bảo, ngọc ấy gọi là cửa chín lỗ*, dùng để bịt kín chín lỗ của thi thể, vật ngậm trong miệng ông ấy, vốn là bịt hậu môn của Từ Hi…
Cửu khiếu (chín lỗ) trên cơ thể phụ nữ bao gồm: hai mắt, hai lỗ mũi, hai lỗ tai, miệng, âm hộ và hậu môn.
Chờ hai viên cảnh sát đi khỏi, ông anh kia mới thò đầu sang tò mò hỏi tôi, “Này này, cậu phạm tội gì thế?”
Tôi nhìn anh ta không đáp. Anh ta bèn sán lại, “Được hẳn máy bay áp tải, chắc không phải vừa đâu nhỉ?”
“Cổ vật.” Tôi thốt ra hai chữ.
Đầu To sáng mắt lên, “Ồ, lấy từ nhà họ Đồng à?”
Nhà họ Đồng là tiếng lóng trong giới giám định, ý chỉ đồ đích thân đào được dưới mộ. Có điều từ này đã rất xưa, sau giải phóng hầu như không ai dùng nữa mà đổi sang gọi là nhà họ Tôn, ý thu mua được từ nhà dân. Chắc Đầu To nghe hơi nồi chõ hóng được, chỉ hiểu lơ mơ nhưng vẫn đem ra dùng bừa. Hạng nửa vời này trong giới rất nhiều, cứ tưởng ta đây hiểu nhiều biết rộng, thật ra lại chẳng biết cái gì đến nơi đến chốn. Cộng thêm tính tò mò hay hóng, lừa gạt họ còn dễ hơn lừa đám gà mờ chẳng biết mô tê gì.
Đi guốc trong bụng anh ta, tôi chợt nảy ra một ý. Tôi từ từ xoay cổ, nhìn chằm chằm vào con lợn nắm trước ngực anh chàng, mãi tới khi anh ta để ý thấy mới nhìn lảng đi, lắc đầu thở dài. Nghe tôi thở hắt ra, Đầu To bỗng bồn chồn hẳn, cứ mân mê mãi con lợn nắm, ánh mắt lấp loáng, ngập ngừng hồi lâu mới ghé lại hỏi,
“Này tôi bảo, cái này có vấn đề gì không?”
“Có gì đâu, tôi tiện thể thì nhìn thôi.”
Tôi nửa cười nửa không, khiến Đầu To phát hoảng, càng cho rằng tôi đã nhìn ra gì đó. Anh ta hậm hực rụt lại, nhưng chẳng được bao lâu lại thò đầu ra, “Tôi bảo nhé, chúng mình bèo nước gặp nhau, cùng ngồi chung một chuyến bay cũng xem như có duyên rồi. Giờ đang rảnh rỗi, thấy cậu cứ phân vân lưỡng lự mãi, rốt cuộc là muốn nói gì thế?”
“Tôi là phạm nhân, không được nói năng lung tung đâu.” Tôi lắc đầu.
Thấy vậy, Đầu To càng tin chắc chắn có vấn đề gì đó, chẳng qua tôi không dám nói. Anh ta vỗ trán đứng dậy đi đến thì thầm mấy câu với hai cảnh sát cách đó không xa, rồi quay lại bảo, “Tôi hỏi rồi, chỉ cần không chạm vào cậu thì nói vài ba câu cũng được.”
Kẻ lên được máy bay quân dụng, ít nhiều cũng có chỗ chống lưng. Có lẽ hai cảnh sát kia cảm thấy đây chỉ là việc nhỏ, không cần làm mất mặt anh ta, nên cũng thuận theo thời thế mà chấp nhận. Đầu To sợ bị tôi phớt lờ, bèn vỗ ngực đảm bảo, “Người anh em à, tôi quen biết vài người ở Kinh Tân*, cậu giúp tôi, rồi tôi cũng sẽ giúp cậu.”
Chỉ Bắc Kinh và Thiên Tân.
Chỉ đợi câu này, tôi chậm rãi mở mắt ra, “Anh đưa cái kia lại gần đây tôi xem.”
Đầu To nghe vậy vội tháo miếng ngọc xuống giơ ra trước mắt tôi. Tôi quan sát một lượt dưới ánh đèn rồi hỏi đầy bí hiểm,
“Anh kiếm đâu được thứ này thế?” Đầu To chợt đỏ mặt, gãi đầu gãi tai, nhe răng cười ngây ngô mãi mới đáp, “Đây là… tín vật tình yêu bạn gái tôi tặng.”
Hóa ra Đầu To là con em trong ngành hàng không quân dụng ở Bắc Kinh, quen một cô gái ở Kỳ Sơn qua thư, đôi bên thư từ một thời gian, anh ta bèn chạy tới Kỳ Sơn để gặp người thật việc thật. Cô gái nọ giới thiệu anh ta với bố mẹ, bố mẹ cô ta bèn lấy ra vật này, nói là đồ gia truyền, chỉ tặng cho con rể tương lai. Đầu To cảm động suýt khóc, nhận luôn người yêu, còn móc hết tiền trong túi để gia đình bạn gái mua sắm cả đống đồ làm sính lễ, sau đó đem theo vật này về Bắc Kinh chuẩn bị đám cưới.
Nghe kể xong, tôi đã chắc mẩm trong bụng, bèn bảo: “Họ có biết gia cảnh anh không?”
“Biết chứ, trong thư tôi kể rồi mà.”
“Anh còn hứa gì với họ nữa không?”
“Hở? Tôi hứa sẽ chuyển cô ấy về Bắc Kinh làm trong nhà máy quốc doanh, giúp em trai cô ấy tìm việc ở Tây An, mua ti vi màu cho bố mẹ cô ấy, mua xe đạp cho cô ấy…” Đầu To xòe ngón tay lần lượt liệt kê. Chẳng để anh ta nói hết, tôi đã cắt lời, “Về Bắc Kinh, anh chỉ cần làm một việc thôi.”
“Gì cơ?”
“Bỏ ra tám tệ gửi cho cô ấy một bức thư, chấm dứt quan hệ.”
“Sao lại thế?” Đầu To há hốc miệng kinh ngạc.
“Thứ này là do xưởng chế tác ngọc địa phương làm ra, chỉ lừa được người ngoài nghề thôi.” Tôi ngả người ra sau, “Ngọc thời Hán đường khắc đều xiên, nên miệng vết khắc một mặt sâu một mặt nông. Anh nhìn miếng ngọc này mà xem, đường khắc và miệng vết khắc phẳng lì, thoạt trông đã biết là cắt bằng máy.”
Đầu To không ngồi vững nổi, cằm run lập cập, “Cậu có võ đoán quá không? Tôi đã tìm chuyên gia giám định cẩn thận rồi mà.”
Tôi khẽ thở dài. Dạng người này tôi gặp quá nhiều, bị lừa thì chớ, còn không chịu đối diện với sự thực, khư khư bảo thủ, hễ ai chê bai là sinh nghi.
“Chuyên gia kia là ai tìm cho anh?”
“Cô ấy chứ ai.”
“Thế thì đúng rồi, họ lừa anh thôi.”
Chẳng biết có phải Đầu To IQ thấp bẩm sinh hay yêu vào đâm mù quáng, chuyện đơn giản như thế cũng không nghĩ ra. Tôi giải thích hồi lâu anh ta mới chịu chấp nhận sự thực, cả người ỉu xìu như bánh đa ngâm nước, suy sụp ngồi bệt xuống giữa mấy kiện bưu phẩm, rồi tự dưng bật khóc…
Anh ta khóc thảm thiết, không nức nở rền rĩ, nhưng nước mắt như mưa, thổn thức không thôi. Thực không ngờ đường đường một người đàn ông mà khóc lóc hệt đàn bà con gái. Vừa khóc anh ta vừa thút thít kể lại những kỷ niệm đẹp với cô ả kia, còn dùng khăn tay lau nước mắt. Hai tên cảnh sát tưởng tôi làm gì anh ta, bèn tới gặng hỏi. Tôi cũng chẳng giấu giếm, tông tốc kể hết, họ thấy anh ta khóc lóc nước mắt nước mũi tèm lem, tức cười mà không dám cười, đành quay về chỗ.
Khóc tức tưởi hồi lâu, anh ta mới quẹt nước mắt, “Cảm ơn người anh em. Nếu không nhờ cậu nhìn kỹ, tôi đã bị cô ta lừa gạt tình cảm rồi. Nói xem, tôi giúp gì được cậu đây? Trong trại giam tôi cũng có mấy người quen, có thể để mắt chăm lo cho cậu.”
“Thực ra không cần phiền phức thế đâu. Tôi chỉ cần anh chuyển lời cho một người thôi.” Đoạn rỉ tai anh ta mấy câu. Đầu To nghe xong sững người ra, “Người này quan hệ thế nào với cậu?”
“Đó là người duy nhất tôi tin cậy được ở Bắc Kinh.”
Tôi thở hắt ra.
Đầu To chẳng mấy chốc lại rúc vào xó, tiếp tục tưởng niệm mối tình giả dối kia. Còn tôi lại nhắm mắt dưỡng thần, vắt óc ngẫm nghĩ.
Từ nhà khách đầy mờ ám chuyển sang khoang máy bay lạnh ngắt, cuối cùng tôi cũng có thể tĩnh tâm, từ từ tiêu hóa cú sốc cuốn sổ tay đem lại.
Theo toàn bộ những gì được ghi chép, việc truyền thừa Phật ngọc đến cuối thời Minh thì đứt đoạn. Phải tới đời ông nội tôi mới sưu tầm tài liệu bổ sung đầy đủ. Có lẽ bài khảo cứu này được hoàn thành vào khoảng năm 1930, chưa chừng Kido Yuzo đọc được nó nên mới nảy ra ý định tới Trung Quốc.
Nhưng trong khảo chứng này vẫn tồn tại một mâu thuẫn cực lớn. Theo Tự thuật của Hứa Hoành, Phật ngọc từ thời Đường đã bị tách rời, đầu một nơi thân một nẻo, Kawachi đem đầu Phật về Nhật, còn Hứa Hoành chôn thân Phật ở Kỳ Sơn. Nếu vậy đầu Phật phải ở Nhật mới phải, sao Kido Yuzo còn đến Trung Quốc tìm?
Điều này chứng tỏ giữa hai sự kiện này còn thiếu một mắt xích quan trọng. Trong thời gian từ thời Đường đến Dân Quốc, đầu Phật rất có thể đã trở về Trung Quốc, mãi tới trước chiến tranh thế giới mới lại được đưa sang Nhật. Cơ Vân Phù nói có thể đối chiếu văn bản này với Cảnh Đức Truyền Đăng lục, nhưng Cảnh Đức Truyền Đăng lục chỉ ghi lại sự tích các cao tăng đời Tống, thì liên quan gì tới nó? Trong tay tôi không có cuốn sách này, nên đành tạm gác qua một bên vậy.
Đột nhiên tôi nhớ ra trên đường đến núi ốc, chúng tôi từng thấy một ngôi mộ lớn. Theo văn bản này, đó có lẽ là mộ của Hứa Tín đời Minh. Phương Chấn tìm thấy ở đó một đồng tiền hoa, mặt phải đề “Nhữ Nam Thế Đức”, mặt trái cũng có bốn chữ, song chỉ nhìn rõ hai chữ: nhân, tâm.
Tôi bỗng thấy lòng lạnh buốt. Đồng tiền hoa nọ có lỗ vuông, lỗ vuông là hồi, hồi đọc gần giống “hối”. Bốn mặt bốn chữ, hai chữ là nhân, tâm, lẽ nào hai chữ còn lại là sự, quá. Chẳng lẽ ý nó là hối người hối lòng hối việc hối lỗi?
Đó là lời trăng trối của ông tôi, của bố tôi, cũng là lai lịch cái tên Tứ Hối Trai.
Tôi cứ ngỡ lời trăng trối của bố thể hiện lòng hối hận của ông với một số người và việc. Nhưng giờ mới phát hiện, trong mộ của ông tổ nhà chúng tôi vào thời nhà Minh cũng đã có bốn chữ này, chứng tỏ đây là tổ huấn của nhà họ Hứa, nói vậy là lời trăng trối của bố tôi còn ý nghĩa khác.
Nghĩ mãi nghĩ mãi, tâm trí tôi dường như lại quay về ngày hôm đó.
Đó là một buổi chiều nắng đẹp. Tôi đi đánh bóng rổ về, thấy cả đám người xúm đông xúm đỏ trước cửa nhà. Hàng xóm thấy tôi về, lần lượt tránh ra nhường đường, ánh mắt có xót xa, có thương cảm, thậm chí có cả những ánh mắt hả hê, nhưng không một ai lên tiếng. Tôi chẳng hiểu họ có ý gì, chỉ rẽ đám đông, rút chìa mở cửa. Hằng ngày về nhà, mẹ sẽ bưng ra một ca sứ tráng men đựng nước sôi để nguội, rồi cởi áo ba lỗ đẫm mồ hôi của tôi đi giặt, còn bố lúc nào cũng ngồi lì trong phòng đọc sách. Nhưng lần này, trong nhà lặng phắc như tờ, chẳng thấy một ai.
Trong phòng đọc sách, tôi thấy một tờ giấy viết thư trên bàn, có tám chữ bố viết: hối người hối lòng hối việc hối lỗi và một dãy số. Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, tôi tiện tay gấp lại. Đúng lúc này bên ngoài vang lên tiếng đập cửa, tôi mở ra thì thấy tay cầm đầu ủy ban cách mạng ở trường. Hắn hống hách chỉ mặt tôi nói, hai vợ chồng tên phản động cánh hữu Hứa Hòa Bình khiếp sợ trước uy thế của các tiểu tướng cách mạng, sợ bị vạch trần tội trạng nên đã đâm đầu xuống hồ Thái Bình tự tử, kết thúc cuộc đời tội lỗi của mình. Hắn nhận lệnh tới thu giữ tội chứng phần tử phản động để lại.
Đáng ngạc nhiên là, như đã dự liệu trước, tôi không quá bi thương, trái lại còn bình tĩnh khác thường, lao vào đánh đá tên cầm đầu kia. Tên nọ là nòng cốt của đội bóng rổ trường đại học, cao to cường tráng, vậy mà hôm ấy lại bị tôi đánh gãy hai dẻ sườn. Sau đó tôi bị bảy tám người ấn xuống đất tay đấm chân đá, không sao cựa quậy được, đành trơ mắt nhìn một đám người xông vào nhà mình, phá hủy tất cả những gì thân thuộc. Ảnh cưới của bố mẹ bị xéo nát dưới đất, chậu hoa của mẹ bị đập, bằng khen trên tường và các đồ trang trí trong tủ đều bị ném ra ngoài cửa sổ.
Tôi bị giam ở đồn công an suốt ba ngày. Tới khi được thả thì hay tin bố mẹ đã được hỏa táng. Tôi không được gặp họ lần cuối, chỉ nhận được một hũ tro cốt - thậm chí chúng còn không chia ra hai hũ, nhưng như vậy cũng tốt. Từ đầu chí cuối, tôi không nhỏ một giọt nước mắt.
Trở về nhà, tôi thấy trong nhà ngổn ngang hết cả, chẳng chỗ nào không bị giày xéo, chẳng thứ nào không bị xới tung lên. Tôi ôm bình tro cốt co ro ngủ giữa đống ngổn ngang một đêm. Sáng hôm sau, tôi lại rút thư tuyệt mệnh của bố ra xem, chợt phát hiện dãy số kia là số tra cứu của thư viện trường đại học. Thời ấy trường học cũng nháo nhào cả lên, chẳng ai đến lớp, càng không ai lên thư viện. Tôi tìm cơ hội lẻn vào, dựa theo số hiệu, tìm được một cuốn sổ tay, chính là Tố đỉnh lục, còn mật mã của nó, chính là tám chữ “hối người hối lòng hối việc hối lỗi”. Có điều cuốn còn lại giấu ở đâu thì tôi không biết, có lẽ đã hoàn toàn biến mất trên thế giới này rồi, đem theo bao bí mật khi căn nhà cũ bị phá dỡ.
Đúng là kỳ diệu, Kido Yuzo có ba cuốn sổ nhưng không biết chìa khóa giải mã, bố tôi biết cách giải mã, nhưng lại không có sổ. Mãi tới khi Kido Yuzo qua đời, hai cuốn mới được gửi tới tay bố tôi. Tuy đã biết sự thật từ trước, nhưng bố tôi chọn cách im lặng, sau khi giao một phần tài liệu cho Cơ Vân Phù, ông tiếp tục mai danh ẩn tích, mãi tới khi con sóng thời đại đập tan gia đình tôi…
Tôi dựa vào vách khoang máy bay, lặng lẽ hồi tưởng lại những chuyện này, chợt có cảm giác mọi chuyện đã được định trước từ khoảnh khắc minh đường bắt lửa nghìn năm trước. “Ông ơi, bố ơi, mẹ ơi…” Tôi nhìn ra bầu trời đêm bị che khuất, lẩm bẩm. Nước mắt không rơi hôm ấy, giờ lại lăn dài xuống má.
Chẳng biết bao lâu sau, khoang máy bay rung lên một chập, xem như đã hạ cánh an toàn. Tôi bị dẫn xuống, thấy một chiếc xe cảnh sát đợi sẵn trên đường băng. Đã nửa đêm, tôi hít sâu một hơi, lúc đến An Dương, tôi đâu có ngờ lại quay về Bắc Kinh theo cách này.
Nếu đã là máy bay quân dụng thì hẳn phải đỗ xuống sân bay Nam Uyển phía Nam Bắc Kinh. Lúc máy bay hạ cánh, Đầu To ra hiệu sẽ nhớ lời tôi gửi gắm, rồi xách túi đi thẳng. Hai tên cảnh sát kèm tôi lên xe, rèm cửa xe kéo kín mít, nên tôi cũng không biết mình sẽ bị đưa tới đâu.
Xe chạy chừng hai mươi mấy phút rồi dừng trước một trại tạm giam không biết ở đâu. Tường trắng ngói xám, không lớn lắm, lúc này chỉ có trạm gác và phòng tiếp đón sáng đèn. Tôi bị đưa đến phòng tiếp đón rồi bỏ lại đấy, chẳng nói nửa lời. Quản giáo quan sát tôi một lượt, cũng chẳng nói nhiều, chỉ bảo tôi thay đồ tù, phát cho bàn chải và cốc súc miệng, niêm phong ký tên vật dụng cá nhân, thái độ rất lịch sự. Làm xong thủ tục, tôi bị giam vào một phòng đơn.
Đãi ngộ tốt thế này khiến tôi có phần chờn chợn. Điều kiện sống trong trại tạm giam Bắc Kinh khá tồi tệ, thông thường mười mấy người phải chen chúc một phòng, ăn uống ị đái luôn trong đó, rất ít phạm nhân được một mình một phòng đơn. Chẳng biết tôi có tài đức gì mà được hưởng ưu đãi ấy.
Thực ra phòng đơn này cũng chẳng ra sao, chăn đệm thì rách nát màu cháo lòng, lại két cả lớp dầu vàng ệch như cứt. Trên tường dính vài vết ố rất đáng ngờ, chi chít vạch khắc lộn xộn. Góc tường phía đầu giường đặt một cái bô, chân tường sát cái bô xanh rì rêu nước tiểu, mùi khai thoang thoảng.
Nếu là Hoàng Yên Yên, Dược Bất Nhiên hoặc Kido Kana, hẳn không sao chịu nổi, nhưng tôi đã quen với cảnh ngộ này, chẳng buồn cởi quần áo, ngả người xuống giường ngủ khò.
Trước đây có một khoảng thời gian tôi từng lang thang đầu đường xó chợ, làm một tên lưu manh côn đồ, cũng hiểu chút quy tắc. Với trại tạm giam, phòng đơn chỉ là một trạm trung chuyển tạm thời, phạm nhân ở đây, hoặc là hạng hung tàn cực độ, hoặc là kẻ có chống lưng, hai dạng người này đều không ở lâu. Bởi vậy tôi đoán chắc mình chỉ ở đây một hai ngày là cùng, chẳng bao lâu sẽ bị thuyên chuyển nữa.
Nhưng lạ một điều là, liên tục năm ngày sau đó, tôi chẳng thấy động tĩnh gì cả, không ai thẩm vấn, chẳng ai thăm hỏi, cũng không người bảo lãnh, thậm chí suất hóng mát mỗi ngày hai lần tôi cũng chẳng có phần, chỉ thấy cơm nước đưa đúng giờ, ngày ba bữa. Ngày qua ngày, tôi đành đợi trong gian phòng bé bằng mắt muỗi này, nghe tiếng chửi bới của đám phạm nhân phòng bên cùng tiếng chân quản giáo đi tuần. Sự bình lặng này khiến người ta hết sức bất an, tôi cứ như trở thành Dantès trong Bá tước Monte Cristo, bị giam vào một nhà lao cũ kỹ chẳng ai nhìn ngó đến. Thế giới bên ngoài đã quên lãng sự tồn tại của tôi, cho tới khi tôi già rồi chết.
Hòng xua tan nỗi sợ, hằng ngày tôi liên tục đi lại trong phòng để thân thể được vận động, việc này ở trong ngục gọi là chó chạy quanh; tâm trí tôi cũng không nghỉ phút nào, luôn trong trạng thái sắp xếp và tổng hợp lại những manh mối từ trước tới giờ, xem có phát hiện gì mới không, nghĩ mãi nghĩ mãi đến đau cả đầu mà chẳng nghĩ ra được gì.
Đến ngày thứ sáu, cuối cùng cũng thấy quản giáo mở cửa bảo tôi, “Hứa Nguyện, có người tìm anh.” Tôi ra khỏi phòng, tham lam vươn vai một cái, rồi theo y đến phòng khách. Phòng khách được ngăn đôi bằng một vách kính, bên kia là một ông cụ râu tóc bạc phơ, hai tay đặt trên đầu gối, đang nhắm mắt dưõng thần.
Là Lưu Nhất Minh, người đứng đầu Hồng môn ư?
Hóa ra lại là ông ta.
Tôi không mấy ấn tượng với ông già này, chỉ nhớ trong bữa cơm lần ấy, ông ta khá kiệm lời. Trước lúc tôi cáo từ, ba phái kia đều tặng quà, chỉ riêng ông ta tặng cho hai câu nói khơi khơi. Thực không ngờ, người đầu tiên đến thăm tôi, không phải Kido Kana, không phải cục trưởng Lưu hay Phương Chấn, mà lại là ông ta. Nói thật dù Hoàng Khắc Vũ có đến, tôi cũng chẳng kinh ngạc đến vậy.
Tôi chậm rãi đi đến, ngồi xuống ghế. Nghe tiếng, Lưu Nhất Minh từ từ mở mắt ra, chăm chú nhìn một lát mới lên tiếng, “Cậu phải chịu khổ nhiều rồi.” Câu này rất quen, trong phim, phàm các điệp viên nằm vùng bị đồng chí của mình hiểu lầm, tới khi sự thật phơi bày, thể nào cũng có một vị lãnh đạo đại diện cho tổ chức nói câu này.
“Ồ? Ông nói chịu khổ là sao?” Tôi không giữ kẽ.
“Chuyện này là hiểu lầm thôi. Mọi người cứ ngỡ cậu đã chết ở An Dương, kết quả có kẻ lại phát hiện tước chạm rồng ở Kỳ Sơn, nhà họ Hoàng tưởng nó bị người ta đánh cắp nên mới báo công an, không ngờ lại bắt phải cậu.”
Nghe vậy tôi chỉ cười, Lưu Nhất Minh cũng nhếch mép, đôi bên đều hiểu mà không nói. Ông ta đưa ra một lời giải thích vụng về như vậy, là muốn ngầm mách cho tôi, việc này do một mình nhà họ Hoàng bày ra, không phải quyết định chính thức của Minh Nhãn Mai Hoa.
Lưu Nhất Minh phủi phủi lưng ghế, “Cậu không cần nghĩ nhiều, nhà họ Hoàng sẽ rút đơn kiện nhanh thôi, phía cảnh sát có Phương Chấn sắp xếp, không lập án đâu. Có điều theo trình tự, cậu vẫn phải ở đây mấy hôm nữa. Tôi sẽ dặn người ở trại quan tâm tới cậu.”
Tôi dửng dưng, “Tôi chịu khổ chút ít chẳng sao, làm lỡ việc chính mới quan trọng.”
Lưu Nhất Minh nghe ra tôi có ẩn ý, bèn cười khà, “Cậu yên tâm, bất luận là tước chạm rồng hay đầu Phật, Hội đều sẽ giải thích rõ ràng, không để cậu chịu khổ oan đâu.”
Tôi nhận ra ông ta đang bóng gió dò hỏi phát hiện của tôi ở Kỳ Sơn. Chứng tỏ cả Phương Chấn lẫn Kido Kana đều không tiết lộ mọi chuyện lúc ấy. Tôi hết sức ngạc nhiên, Kido Kana giấu giếm còn hiểu được, nhưng Phương Chấn là người của cục trưởng Lưu, lại không chịu hé răng nửa lời, đúng là kỳ quặc. Lẽ nào Lưu Nhất Minh và cục trưởng Lưu không cùng phe?
Lưu Nhất Minh là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa đời này, nhưng tôi cảm giác ông ta cứ như mây trôi hạc nổi, chẳng nhúng vào chuyện gì cả, đến nói năng cũng lan man mập mờ, hư nhiều hơn thực. Lần trước năm phái tụ họp, chuyện lớn như vậy mà ông ta chẳng nói được mấy lời, chỉ khuyên tôi hai câu không mặn không nhạt. Phong cách vòng vo tam quốc, không bao giờ chịu nói thẳng này cực kỳ giống cục trưởng Lưu.
Tôi thầm nhủ, trừ phi ông ta hỏi thẳng, bằng không tôi sẽ giả ngu đến cùng.
Bởi vậy, tôi chỉ lặng lẽ nhìn ông ta, không hé nửa câu. Lưu Nhất Minh cũng chẳng vội gì, tay gõ nhẹ lưng ghế, như đang nghĩ nước cờ. Cảnh vệ bên cạnh thấy hai chúng tôi như nhà sư ngồi thiền, chẳng nói năng gì thì ngạc nhiên ra mặt. Đôi bên giằng co hơn ba phút, cuối cùng y đành hắng giọng nhắc, “Này các vị, sắp hết giờ thăm rồi đấy.”
Câu này đã phát huy tác dụng với Lưu Nhất Minh, cuối cùng ông ta cũng phá vỡ bầu không khí im lặng, “Thực ra hôm nay tôi đến đây, ngoài thông báo để cậu yên tâm, còn muốn cho cậu biết một việc: Kido Kana về nước rồi.”
Tôi kinh ngạc quá đỗi, đứng bật dậy khỏi ghế, không giữ nổi vẻ bình thản nữa. “Cô ta về Nhật rồi sao?”
Thấy tôi mất bình tĩnh, Lưu Nhất Minh không hề biến sắc, thản nhiên nói, “Sau khi cậu xảy ra chuyện, cô Kido Kana lập tức quay về Bắc Kinh. Cô ta muốn gặp cậu, nhưng còn việc quan trọng hơn phải làm nên đành về nước trước, nhờ tôi nhắn với cậu một tiếng.”
“Việc gì?”
“Có lẽ cô ta đã nắm được một phần tài liệu, nói là về nước thương lượng với người của Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, thuyết phục họ trả đầu Phật lại cho chúng ta. Xem ra chuyến đi đến Kỳ Sơn của cô cậu đã thành công mỹ mãn.”
Tôi chợt nhận ra Lưu Nhất Minh cố tình. Tôi đang nôn nóng muốn biết tin Kido Kana, song ông ta lại đợi đến khi sắp hết giờ thăm mới tiết lộ, khiến tôi lo lắng, không giữ nổi bình tĩnh nữa. Tôi hít sâu một hơi, quyết định nói toạc móng heo, vặn lại đầy khiêu khích, “Ông không muốn biết chúng tôi đã phát hiện được gì ở Kỳ Sơn ư?”
Bất ngờ là Lưu Nhất Minh lắc đầu, đặt một ngón tay lên môi ý bảo tôi im lặng, rồi nói, “Cậu cứ yên tâm ở đây thêm mấy hôm, tuy điều kiện sống không được tốt, nhưng yên tĩnh hơn bên ngoài nhiều.” Đoạn ông ta đứng dậy, tiêu sái bỏ đi trong tiếng chuông báo giờ thăm kết thúc.
Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao sất, Lưu Nhất Minh đến trại tạm giam, chẳng đưa tôi ra thì chớ, cũng chẳng hỏi đầu đuôi, lẽ nào thực sự chỉ tới báo tin Kido Kana về nước thôi sao?
Trở về phòng, lòng tôi ngổn ngang muôn mối, cảm thấy chuyện này đã bắt đầu tiến triển ngoài dự tính. Kido Kana nắm giữ bản dịch sổ tay của Kido Yuzo, xem ra cô định dùng nó để thuyết phục Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Điều này hết sức đúng đắn. Giờ kẻ đứng sau là ai còn chưa biết, ở lại Trung Quốc quá nguy hiểm, chi bằng chuồn cho nhanh. Chỉ cần Viện nghiên cứu Đông Bắc Á đồng ý trả lại đầu Phật, mọi chuyện sẽ trở thành tiêu điểm của công chúng, kẻ kia muốn ra tay cũng khó khăn hơn.
Kido Kana đã về Nhật, Phương Chấn biết một phần sự thật, nhưng ngay từ đầu y đã cố tránh không nghe chúng tôi trò chuyện, nên hiểu biết cũng chỉ có hạn. Nếu có người muốn biết tình hình thực tế ở Kỳ Sơn thì chỉ có mỗi một cách là hỏi tôi; song nếu có kẻ muốn giấu giếm chuyện ở Kỳ Sơn thì mục tiêu duy nhất cũng chỉ có tôi…
Tôi bật dậy khỏi giường, kinh hoàng tột độ. Giờ những gì tôi biết đã quá nhiều, có kẻ không muốn tôi nói ra, lại có người nhăm nhe moi chuyện từ tôi. Thế lực ngầm của các bên đều đang lạnh lùng trông vào tôi, lách cách gảy bàn tính. Cứ thế mà suy thì tôi đã thành đích ngắm của tất cả mất rồi. Tôi sực hiểu ra, Lưu Nhất Minh nói tôi ở trong nhà giam yên tĩnh hơn, là ý này.
Lúc này ngoài cửa sắt vang lên tiếng lạch xạch, rồi ô cửa nhỏ mở ra, một chiếc bánh ngô nóng hổi, dưa muối và một bát thịt nấu rau cải được đẩy vào. Xem ra quả thật Lưu Nhất Minh đã có lời gửi gắm, bữa cơm hôm nay phong phú hơn mấy ngày trước nhiều. Phạm nhân phòng bên ngửi thấy mùi bèn làm loạn lên đòi một suất, quản giáo phải vung dùi cui lên mới chịu ngậm miệng.
Tôi đã ăn chay suốt mấy ngày, bụng thiếu dầu mỡ nên chẳng buồn khách khí, ngốn ngấu như rồng cuốn, chẳng mấy chốc đã ních căng bụng, phải nằm vật xuống đất nghỉ lấy hơi. Năm phút sau, tôi bắt đầu thấy không ổn. Thoạt đầu bụng chỉ hơi ngâm ngẩm đau, song chẳng mấy chốc cơn đau đã đâm ra vô số nhánh, lan rộng ra cả dạ dày, biến nó thành hiện trường vụ cháy, chẳng chỗ nào không phừng phừng lửa đỏ.
Tôi ôm bụng nằm lăn ra đất, mồ hôi lạnh đầm đìa, tay phải yếu ớt vươn về phía cánh cửa sắt, cố đập mấy lần song chẳng phát ra tiếng động nào. Cơn đau lại ập đến, tôi không nhịn nổi rên lên. Phạm nhân sát vách nghe thấy, bèn chế nhạo tôi tham thì thâm, về sau nghe thấy tôi rên rỉ đau đớn quá, mới gọi quản giáo giúp.
Cửa mở ra rầm một tiếng, thấy tôi co rúm người ôm bụng, đau đến tái ngắt mặt mày, quản giáo vội gọi bác sĩ đến kiểm tra. Bác sĩ hối hả chạy đến khám sơ bộ rồi lau mồ hôi trán, nói có thể là ngộ độc thực phẩm hoặc loét dạ dày, phải lập tức đưa đi viện. Vậy là ba bốn quản giáo vực tôi dậy, ba chân bốn cẳng đưa lên một chiếc xe bán tải của trại, có một tài xế và một quản giáo đi kèm, chạy thẳng đến bệnh viện gần đó.
Cũng lạ, tuy bụng tôi đau quặn, nhưng tâm trí lại vô cùng tỉnh táo. Nhất định là thức ăn có vấn đề, nhưng rốt cuộc kẻ nào muốn đầu độc tôi nhỉ? Là kẻ đứng đằng sau, hay ai đó trong Minh Nhãn Mai Hoa? Tại sao họ không ra tay ở Kỳ Sơn, mà phải đợi về đến Bắc Kinh mới diệt khẩu? Lưu Nhất Minh có liên quan gì tới việc này không?
Nghi ngờ tấn công tinh thần, cơn đau giày vò thân thể. Dưới hai tầng đả kích ấy, tôi liên tục nôn mửa, run rẩy, co quắp trên ghế ngồi. Thấy tôi sắp nguy ngập đến nơi, quản giáo lầu bầu gì đó trong miệng.
Đúng lúc này, xe thình lình phanh gấp. Tôi nghe quản giáo gắt gỏng hỏi, rồi tài xế đáp hình như va phải ai đó. Quản giáo liếc tôi rồi mở cửa xuống xe xem xét. Chẳng bao lâu sau, bên ngoài vang lên một tiếng bịch, như tiếng va đập rồi một người xông vào xe, đánh ngất tài xế, ghé sát vào tôi.
Tôi đang mơ màng, không nhìn rõ mặt người nọ. Y lay gọi rồi nhét gì đó vào miệng tôi. Thứ đó đăng đắng, vừa trôi xuống bụng, dạ dày tôi đã nghe mát lạnh, ngọn lửa cháy bỏng giảm hẳn. Tôi gắng mở mắt ra, trông thấy một gương mặt già nua, trên cổ còn vết sẹo gớm guốc, khiến nét mặt toát lên vẻ hung hãn.
“Phó… Phó Quý?”
Kẻ đến hóa ra lại là Phó Quý, thanh tra Bắc Bình năm xưa. Ông ta đỡ tôi dậy, nghiêm nghị nói, “Đừng hỏi nhiều, chúng ta đi trước đã.” Đầu óc tôi vẫn hơi choáng váng, đành để mặc ông ta khoác tay tôi lên vai đỡ xuống xe, chui vào con ngõ nhỏ cạnh đó. Phó Quý hành động nhanh nhẹn dứt khoát, chẳng giống người già chút nào. Đầu kia con ngõ đã có một chiếc Santana đợi sẵn. Phó Quý ấn tôi vào xe, rồi nhảy lên, hô tài xế nổ máy. Chiếc Santana quay đầu, chạy về hướng ngược lại. Tôi lắc lư trên xe, dạ dày vẫn đau buốt. Phó Quý lại đưa thêm một viên thuốc, tôi há miệng nuốt ngay, thấy bụng dễ chịu hơn một chút.
Vốn định hỏi ông ta đầu đuôi câu chuyện nhưng tôi chẳng còn sức nữa, cứ thế thiếp đi, mặc cho xe chạy. Tới khi tỉnh lại, tôi đã nằm trên một chiếc giường Simmons êm ái, tủ đầu giường đặt một tấm khăn mặt hồng, còn cả một viên thuốc trên nắp bình nhựa.
Tôi nhìn quanh, cảm thấy căn phòng này rất độc đáo. Đồ vật trong phòng đều là loại phổ thông, nhưng bày biện cực khéo, không có tranh chữ hay cổ vật gì, nhưng lại toát lên phong vị cổ điển riêng. Chỉ có một ngoại lệ là con gấu bông mềm mại đặt trên đầu giường, cách đầu tôi không xa.
Cửa mở ra, Phó Quý bước vào, tay cầm cốc nước. Thấy tôi đã tỉnh, ông ta đưa nước cho tôi uống thuốc. Uống xong, tôi mới thều thào hỏi ông ta rốt cuộc chuyện là thế nào.
Phó Quý cười ha hả, “Để cứu cậu ra chứ sao nữa. Ta phải đút lót đầu bếp, cho một loại thuốc đặc biệt vào đồ ăn của cậu, ăn vào sẽ đau dạ dày. Trại tạm giam kia làm gì có bác sĩ tử tế, nhất định phải đưa cậu vào viện, chúng ta chặn đường cướp người, thế là xong. Chuyện nhỏ như con thỏ.” Nói đoạn, ông ta còn chậc chậc lưỡi,. “Cách cướp tù cũ rích từ thời Dân Quốc này chẳng ngờ đến nay vẫn dùng được, vị thuốc cũng y nguyên.”
Nhìn nét mặt Phó Quý, có thể tưởng tượng ra phong thái thanh tra uy phong khắp Tứ Cửu thành năm xưa. Tôi cười méo xẹo, cầm khăn lên lau mặt, “Cháu không hỏi chuyện đó, mà hỏi sao ông lại nhúng vào vũng nước đục này?”
“Cô nàng kia đến cậy tôi đấy.” Phó Quý ngoái lại nhìn. Thấy một bóng người uyển chuyển xuất hiện trước cửa, bàn tay cầm cốc của tôi run bắn lên.
Là Hoàng Yên Yên.
Hoàng Yên Yên dửng dưng đứng đó, vẻ mặt vẫn lạnh lùng như xưa, nhưng hai má đã tóp lại, xanh xao. Cặp mắt cô nhìn dán vào tôi, không vui không buồn. Phó Quý đứng dậy, ném cho tôi một cái nhìn mờ ám.
Hoàng Yên Yên đi đến, tôi gượng cười định mở miệng chào thì cô vung tay, giáng ngay cho tôi một bạt tai.
Cái tát như năm ngọn roi da thấm nước quật xuống. Tôi không kịp đề phòng, bị đánh suýt ngã ngửa ra giường, mặt rát bỏng. Đánh xong, Hoàng Yên Yên mới hỏi: “Sao lại là tôi?”
“Vì cả Bắc Kinh tôi chỉ tin mình cô thôi.” Tôi bưng mặt, nhìn thẳng vào mắt cô.
Trước khi Đầu To xuống máy bay, tôi đã nhờ anh ta chuyển lời cho một người. Người đó chính là Hoàng Yên Yên. Tôi biết mình sẽ bị tống giam, nhưng bên ngoài có một việc quan trọng, phải giao phó cho người có thể hoàn toàn tin tưởng. Dù bấy giờ Hoàng Yên Yên đang hận tôi thấu xương, nhưng tôi tin cô là lựa chọn tốt nhất. Vốn dĩ tôi đã nghĩ đến Dược Bất Nhiên, nhưng thằng lỏi này quá hấp tấp, không thể yên tâm một trăm phần trăm.
Nghe vậy, ánh mắt Hoàng Yên Yên lóe sáng, cô siết chặt tay lại, cái tát thứ hai cuối cùng không giáng xuống. Tôi sực nhớ ra, vội lấy chiếc xuyến đồng trong túi đặt vào tay cô, khẽ nói cảm ơn. Lúc tôi rơi xuống đường hầm, cô đã ném nó xuống theo, giờ coi như trả về chủ cũ. Hoàng Yên Yên nhíu mày, nhận lấy nó, rồi lại tát cho tôi thêm cái nữa.
Phó Quý bấy giờ mới nhắc nhở, “Này, ta mạo hiểm từ Thiên Tân chạy đến đây là để rửa oan cho lão bạn già Hứa Nhất Thành, không phải ngồi xem cô cậu vùng vằng đánh yêu nhau đâu nhé. Yên Yên tính sổ xong chưa? Vào chuyện chính đi.” Hoàng Yên Yên lạnh lùng nhìn năm ngón tay hằn trên mặt tôi, “Xong rồi.”
“Xong là tốt. Trên đời có hai thứ không được nợ, một là nợ ân nghĩa, hai là nợ phong lưu, tính sổ nhầm là phiền lắm.” Phó Quý đổ dầu vào lửa. Tôi xoa mặt, ngượng nghịu gật đầu, rồi vội vã đổi chủ đề, “Sao cô lại đi tìm ông Quý?”
Hoàng Yên Yên đáp, “Anh bảo phải đề phòng người của Hội, tôi còn lựa chọn nào khác đâu.” Phó Quý bổ sung, “Lúc con bé này tìm đến, ta giật cả mình. Nó bảo thằng lỏi con nhà cậu gặp nguy hiểm. Ta sao có thể khoanh tay không giúp con cháu lão Thành, đành liều bộ xương già một chuyến.”
“Nhưng sao hai người biết tôi gặp nguy hiểm?” Tôi hỏi.
Phó Quý đáp, “Yên Yên nói, Hoàng Khắc Vũ không hề biết chuyện nhà họ Hoàng báo công an. Cũng có nghĩa là, kẻ khác đang mượn tay nhà họ Hoàng để hại cậu. Kẻ này mưu sâu kế hiểm, coi cậu như cái gai trong mắt. Cậu ở trại tạm giam ấy có khác gì cá nằm trên thớt, không an toàn chút nào.”
Quan điểm của Phó Quý trái ngược với Lưu Nhất Minh, tôi không khỏi câm nín.
Nghe tôi kể chuyện Lưu Nhất Minh đến thăm, Phó Quý cười nói, “Có gì mâu thuẫn đâu. Lưu Nhất Minh nói không sai, nhưng ông ta chỉ tính đến việc phòng thủ, cho rằng cậu ở trại tạm giam sẽ bình yên vô sự, còn ta lại tính đến việc tấn công, nên cướp cậu ra. Binh pháp có nói, làm việc kẻ địch không muốn làm nhất, cướp cậu ra khỏi nhà lao cũng có nghĩa là táng thêm một biến số cho kẻ đứng sau mọi chuyện, khiến hắn phải ra tay sửa sai, sớm muộn sẽ để lộ sơ hở, đó chính là cơ hội của chúng ta!”
Nói tới đó, ông ta đấm mạnh xuống bàn, khiến khung ảnh trên đó nẩy lên suýt thì rơi xuống đất, ánh mắt lấp lóe vẻ hung tàn. Năm xưa Phó Quý tung hoành Bắc Bình, có chuyện gì chưa từng trải, lại phá bao nhiêu vụ án ly kỳ quái lạ, bất luận tầm nhìn hay kiến thức đều là hạng nhất. Nghe ông ta phân tích, tôi mới hiểu hóa ra họ cứu mình ra còn vì nguyên nhân sâu xa như thế.
“Phiền ông quá ạ.” Tôi thật lòng cảm tạ. Đến giờ Phó Quý vẫn đang bị truy lùng ở Thẩm Dương Đạo, vậy mà lại cả gan đến tận Bắc Kinh cướp xe tù của trại tạm giam, lòng can đảm và nghĩa khí ấy thực không phải tầm thường. Tôi biết ơn ông từ tận đáy lòng, cảm thấy ông mình đã không nhìn nhầm người bạn này.
“Khỏi cần cảm ơn.” Phó Quý xua tay, “Ta giúp cậu, một là nể mặt Hứa Nhất Thành, nhưng chủ yếu là không sao hiểu được hành động của ông ta năm ấy. Khi việc này giải quyết ổn thỏa, cậu phải kể lại đầu đuôi cho ta nghe, để lão già này yên tâm xuống lỗ.”
Tôi giơ ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út tay phải lên, tư thế này tượng trưng cho thiên, địa, nhân, cũng biểu trưng cho quân, thân, sư, là cách lập lời thề trịnh trọng nhất của giang hồ khi xưa. Tôi trang trọng thề rằng, khi vụ án được làm sáng tỏ, sẽ kể lại cặn kẽ mọi chuyện cho Phó Quý, nếu trái lời, xin sấm sét đánh chết.
Phó Quý hài lòng gật đầu. Tôi hỏi tiếp theo phải làm gì, ông ta đáp cậu còn nhớ đã nhờ Hoàng Yên Yên điều tra chuyện gì không. Tôi đáp đương nhiên.
Trước khi tới Thiên Tân và An Dương, tôi nhận được hai phong thư nặc danh, chỉ viết vỏn vẹn mấy chữ “Có chuyện gian trá”. Còn ngầm chỉ đến một địa chỉ. Thoạt đầu tôi chẳng mấy để tâm, nhưng sự thật lần lượt phơi bày, tôi cũng ngày càng cảm thấy, hai phong thư này rất quan trọng trong việc phá giải câu đố. Thế nên khi nhờ Đầu To chuyển lời cho Hoàng Yên Yên, tôi không quên dặn cô điều tra theo địa chỉ kia.
Kẻ viết thư nắm rõ hành tung của tôi, hẳn phải có liên quan đến năm phái. Hoàng Yên Yên sử dụng lợi thế của mình, tập trung tìm điểm chung giữa các thành viên trong Hội và địa chỉ này. Kết quả phát hiện đó là một hội sở thưởng trà cao cấp, người quản lý họ Thẩm, tên Thẩm Quân, chính là cháu họ xa của Thẩm Vân Sâm đứng đầu Thanh môn.
Hoàng Yên Yên nhắc tôi, hôm năm phái tụ họp, anh ta cũng có mặt, đứng sau lưng Thẩm Vân Sâm. Tôi hồi tưởng lại, chỉ nhớ láng máng gương mặt ấy, anh ta luôn nép mình trong chỗ tối, chẳng nói nửa lời nên không có mấy ấn tượng.
Kẻ này viết cho tôi liền hai bức thư nặc danh, nhưng không chịu để lộ thân phận, rốt cuộc có dụng ý gì? Tiếc rằng hội sở nọ quản lý rất chặt, chỉ tiếp doanh nhân Hong Kong Đài Loan sang đại lục đầu tư, dù là Hoàng Yên Yên cũng không thể ngang nhiên bước vào được. Phó Quý sợ rút dây động rừng nên không cho cô tiếp tục thăm dò nữa, để lại cho tôi.
“Hắn ta đã ngầm mách cho cậu địa chỉ đó, nhất định có cách để cậu đi vào.”
Tôi sực nhớ ra. Bữa cơm hôm ấy, Thẩm Vân Sâm từng cho tôi một tấm danh thiếp, dặn rằng nếu có việc gì cứ cầm tới nhờ Thanh môn giúp đỡ. Tấm danh thiếp nọ chất liệu không phải tầm thường, có hoa văn cây trúc, hẳn là được đặt làm riêng. Chuyện này Thẩm Quân cũng biết, có lẽ nhờ nó, tôi có thể bước vào hội sở ấy chăng.
Phó Quý vỗ tay reo, “Hay lắm! Được rồi, không chùng chình nữa, chúng ta lên đường ngay thôi.”
“Đi luôn bây giờ ạ?” Tôi ngớ người.
“Cậu còn định nằm trên giường con gái người ta bao lâu nữa hả?”
Bấy giờ tôi mới nhận ra căn phòng này là phòng ngủ của Hoàng Yên Yên, tức thì luống cuống. Hoàng Yên Yên hờ hững buông một câu, “Liên quan gì đâu, tôi sắp bán căn nhà này rồi.” Dứt lời đẩy cửa đi thẳng.
Phó Quý nhún vai, lấy ra một chiếc mũ lưỡi trai vành rộng chụp lên đầu tôi, rồi chằng thêm cái khẩu trang, “Thời sự và báo chí chẳng nhắc gì đến vụ cướp tù, xem ra đã bị người ta cố tình giấu nhẹm. Nhưng cảnh sát ngoài lơi trong chặt, tra xét rất nghiêm, trước khi ra cửa, cậu phải che mặt mũi đi đã.”
Tôi nhận lấy khẩu trang đeo vào rồi ba người cùng bước ra cửa. Chiếc Santana đã đậu sẵn bên ngoài. Hoàng Yên Yên mở cửa bên ghế lái, co đôi chân dài chui vào. Để khỏi bị chú ý, tôi chọn ghế sau. Vừa đặt mông ngồi xuống, Hoàng Yên Yên bỗng ngoái lại cười nhạt, ”À phải, tôi quên chưa chúc mừng chàng rể hiền của nhà Kido rồi.”
Tôi cứng họng. Trước khi về nước, quả nhiên Kido Kana đã thông báo hôn sự của chúng tôi với người trong Hội. Việc này tuy là ứng biến tạm thời, nhưng quả thực không sao biện bạch được.
“Xin lỗi…” Tôi thành thật nói, không khỏi chột dạ. Cũng chẳng rõ là xin lỗi vì tôi đã lừa gạt cô ở An Dương, hay vì đính hôn với Kido Kana nữa.
Hoàng Yên Yên nhún vai tỏ ý không liên quan tới mình, tôi không cần giải thích. Tôi giữ lấy ghế trước, nhô đầu lên, “Yên Yên, tôi… ừm, cảm ơn cô tin tôi lần này. Tôi sẽ kể lại cho cô đầu đuôi mọi chuyện.”
Hoàng Yên Yên lôi kính râm trong tấm chắn nắng ra đeo vào, che khuất quá nửa gương mặt, “Tôi chỉ muốn biết kẻ nào định biến nhà họ Hoàng thành quân cờ thôi.” Giọng cô ta hết sức lạnh lùng, thấp thoáng sát khí.
Tôi e dè rụt người lại, tình cờ ngước lên nhìn, bắt gặp chiếc xuyến đồng được xâu sợi tơ xanh, đang đung đưa dưới gương chiếu hậu.
Hội sở thưởng trà cao cấp nọ nằm gần cửa Kiến Quốc phía Đông Bắc Kinh, rất gần nhà khách Bộ Ngoại giao. Không được đỗ xe tại đó, tôi và Phó Quý đành xuống trước, để Hoàng Yên Yên đi tìm chỗ đỗ. Chẳng biết Phó Quý tìm đâu được một chiếc máy nghe trộm nhỏ xíu, để tôi đeo vào người, còn ông ta nấp gần đó, phụ trách nghe lén. Lão cảnh sát vô pháp vô thiên này thậm chí còn kiếm được một bộ cảnh phục, lỡ có việc gì ngoài ý muốn, ông sẽ đóng giả làm cảnh sát để can thiệp.
Trang bị xong xuôi, tôi sải bước tiến vào hội sở, vừa ngước lên đã thấy bảng vàng “Ngát hương thưởng trà” treo ngay trên đầu. Hội sở này đúng là bề thế, trong sảnh bày bốn chiếc ghế gỗ đàn, hai ghế thái sư, lại thêm hai tấm bình phong vẽ người, đều là hàng xịn thời Minh Thanh. Sau quầy là một chiếc tủ nhiều ngăn bằng tre, các ô xen kẽ rất đẹp, bày các loại lá trà đủ màu và tên người gửi.
Thấy tôi bước vào, một cô gái mặc xường xám bước ra đón, nhìn lướt qua tôi rồi áy náy trình bày, “Xin lỗi anh, chỗ chúng tôi chỉ tiếp hội viên thôi.” Tôi bèn lấy danh thiếp ra, “Tôi muốn gặp anh Thẩm Quân, quản lý của các cô.” Vừa thấy cái tên trên danh thiếp, cô nàng biến sắc, vội quay lại quầy gọi điện rồi đặt máy xuống, “Chào anh, mời anh đến sảnh Trúc Tư đợi một lát, quản lý sẽ tới ngay.”
Đoạn cô ta dẫn đường đưa tôi vào trong. Hội sở này khá rộng, nơi nơi đều thấy lối nhỏ quanh co thông đến chỗ vắng vẻ, tôi bị dẫn đi lòng vòng chóng cả mặt, chợt thấy cạnh hành lang phía trước xuất hiện một rừng trúc, hẳn là sảnh Trúc Tư mà cô ta nói. Đang lững thững bước vào thì một cánh tay thình lình từ bên cạnh vươn ra, bịt chặt miệng tôi. Tôi toan vùng vẫy, nhưng chẳng còn hơi sức, đành trơ mắt nhìn bàn tay nọ đoạt lấy máy nghe trộm, nhẹ nhàng đưa cho cô gái mặc xường xám dẫn đường. Còn tôi bị lôi xềnh xệch vào một phòng làm việc bé xíu, ném bịch xuống đất.
Lúc này tôi mới nhìn rõ người lôi mình đi. Đó là một gã cao to lừng lững, phải gần mét chín, tóc ngắn mày kiếm, sống mũi cao thẳng, cơ bắp gồ lên dưới chiếc áo cổ tàu, chẳng trách tôi không chống cự nổi.
“Hứa Nguyện, không ngờ cậu lại lỗ mãng thế kia đấy.” Gã to con ngồi vào ghế, chiếc ghế yếu ớt rên lên ken két như không chịu nổi sức nặng của gã.
“Anh là ai?” Tôi ngước lên, bỗng cảm thấy gã này quen quen.
“Đúng là quý nhân thì hay đãng trí.” Gã nhếch môi, để lộ hai hàm răng trắng bóc, “Hôm soát nhà thầy Bình, tôi còn bị cậu đánh gãy hai xương sườn đấy.”
Ngày bố mẹ tôi tự tử, tay cầm đầu đội Đấu tố ủy ban cách mạng nhà trường dẫn một đám người đến lục soát nhà. Gã tên Ngụy Đại Quân, là nòng cốt của đội bóng rổ trường đại học, cũng là học sinh của bố tôi. Hôm ấy, tôi điên tiết quá đâm ra hăng máu, đánh gãy hai xương sườn của gã, khiến gã phải nằm viện mấy tháng, tôi cũng vì thế mà bị tạm giam mấy hôm. Từ sau trận đánh lộn ấy, tôi không gặp lại gã nữa, chẳng ngờ mười mấy năm sau lại chạm mặt ở đây.
“Anh là… Ngụy Đại Quân?” Tôi ngạc nhiên thốt lên, ký ức cũng dần thức tỉnh. Ngụy Đại Quân phanh cổ áo, trỏ vào ngực, cảm khái đáp, “Hai cái đinh sắt giờ vẫn ở trong xương tôi đây. Hôm nay thấy ngâm ngẩm đau, tôi đã linh cảm là cậu đến.”
Tôi túa mồ hôi lạnh, tự biết trên đời lấy đâu ra chuyện ngẫu nhiên đến vậy, tự dưng gặp một người quen cũ không hề muốn chạm mặt ngay tại hội sở của Thanh môn. Gã lôi tôi đến đây làm gì? Lẽ nào để trả mối thù năm ấy? Nghĩ đến đó, tôi vô thức liếc ra ngoài. Ngụy Đại Quân cười nói, “Khỏi tìm làm gì, tôi đưa máy nghe trộm của cậu đến sảnh Trúc Tư rồi, giờ chắc đồng bọn của cậu vẫn tưởng cậu đang ngồi đợi ấy chứ.”
Tôi gắng trấn tĩnh, ngờ vực hỏi, “Sao anh lại ở đây… Không, sao anh biết tôi đến đây?” Ngụy Đại Quân nghiêng đầu, kéo ghế lại gần tôi rồi trỏ vào mình, “Bởi người hai lần gửi thư cho cậu không phải Thẩm Quân, mà là tôi.”
Tôi bàng hoàng, chuyện này rốt cuộc là sao? Ánh mắt tôi nhìn về phía chồng báo trên bàn và giá gác bút máy Parker. Gần như có thể khẳng định, hai bức thư nặc danh kia được viết tại đây.
Ngụy Đại Quân không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi, mà đổi sang hỏi một câu khác, “Trước khi đến đây chắc cậu cũng điều tra rồi, có ấn tượng gì về cái tên Thẩm Quân không?” Tôi lắc đầu. Đây chẳng qua là cái tên tôi nghe từ miệng Hoàng Yên Yên khi nãy.
“Cũng khó trách… Năm ấy cậu còn nhỏ, không nhớ được nhiều…”
Gã ngả người ra sau, hai tay đặt lên khoang bụng vồng cơ, thái độ châm biếm đã biến mất, thay vào đó là vẻ áy náy và hoài niệm, chẳng hiểu sao, còn thoáng chút buồn thương.
“Y và tôi là bạn thời đại học, cùng học thầy Bình.”
Tôi kinh ngạc đến đờ người. Cứ ngỡ bố tôi đã cắt đứt liên hệ với Minh Nhãn Mai Hoa, ngờ đâu trong số học sinh của ông vẫn có con cháu họ.
“Bố tôi có biết không?”
“Chắc là không…” Ngụy Đại Quân vê cằm, “Thầy Bình nhiệt tình nhưng quá đơn thuần, chỉ biết dạy học, chẳng màng những chuyện khác. Bằng không sao khi ấy lại bị chúng tôi quy là trí thức tiểu tư sản chứ. Ôi, đúng là oan cho một ông thầy tốt.” Nói đến đây, Ngụy Đại Quân cười tự giễu.
“Đâu chỉ oan uổng.” Tôi lạnh lùng nhận xét. Ngụy Đại Quân sầm mặt, mấp máy môi, nhưng cuối cùng vẫn im lặng. Tôi gặng, “Nói tiếp đi chứ, anh và Thẩm Quân rốt cuộc đã làm gì?”
“Đều là những chuyện hoang đường thời trẻ…”
Giọng anh ta bùi ngùi.
Ngụy Đại Quân kể, anh ta và Thẩm Quân là bạn cùng lớp, từ năm nhất đã học lớp thầy Bình, lại hợp tính nhau nên rất thân. Đến Cách mạng Văn hóa, Ngụy Đại Quân nhờ xuất thân tốt, thành phần cứng, làm đến đội trưởng đội Công nông binh quyết đấu, còn Thẩm Quân giữ vai trò quân sư, bày mưu tính kế. Hai người bắt tay, đấu tố khắp lượt trong trường, chẳng ai dám trêu vào.
Đội Công nông binh quyết đấu có hai nhiệm vụ chính: một là đối kháng với Hồng vệ binh ở các trường khác, hai là bắt đủ loại ngưu quỷ xà thần trong trường mình ra đấu tố công khai. Chỉ huy nhiệm vụ một là Ngụy Đại Quân, sắp xếp nhiệm vụ hai là Thẩm Quân, về mặt này, Thẩm Quân có thiên bẩm cực mạnh, quá khứ không tốt hay lời lẽ không đúng đắn của các giáo sư hay học giả cao tuổi, bất luận giấu kỹ tới đâu, y cũng moi ra được, trích ra mà quy tội. Bởi vậy trường đại học của họ cứ hai ba hôm lại tổ chức đấu tố một lần, lần nào cũng có cái mới, cách mạng hơn hẳn các trường khác. Có điều Thẩm Quân không kể công mà nhường hết vinh quang cho Ngụy Đại Quân, nên không mấy người biết tới y.
Một lần, Thẩm Quân tìm Ngụy Đại Quân, cho gã xem một bảng kế hoạch, liệt kê tên các giáo viên “chưa bị phê phán”, trong đó có tên bố tôi. Ngụy Đại Quân hơi do dự, bởi mấy thầy cô giáo này khá được lòng sinh viên, bố tôi lại từng giúp đỡ gã. Nhưng Thẩm Quân bảo Ngụy Đại Quân, cách mạng không phải mời khách dùng bữa, không thể ôn hòa lễ độ được. Y đã thu thập đầy đủ tài liệu đấu tố, đủ để đánh đổ cả đám kia ngã dúi xuống đất, rồi giẫm đạp lên.
Y đã nói vậy, Ngụy Đại Quân cũng chẳng phản đối nữa. Đội phê đấu đã thông thuộc quy trình như lòng bàn tay, trước tiên là đăng báo chữ to khắp mọi nơi, sau đó đấu tố trong khoa, trong viện, tiếp đến phát triển thành đấu tố trước toàn trường, thậm chí còn giải đi diễu khắp