← Quay lại trang sách

Chương 8 Mật mã cổ vật thật giả

Chẳng ngờ ở nơi vốn tưởng là thờ phật Lô Xá Na, lại chẳng có chùa chiền, cũng không có am thờ Phật, mà là một ngôi miếu Quan Công.

Có điều ngôi miếu này trông kỳ quặc khó tả. Kido Kana kéo tay tôi thì thầm, “Phong cách kiến trúc này hình như em từng thấy ở đâu ấy nhỉ…” Được cô nhắc nhở, tôi mới để ý ngôi miếu Quan Công cỡ nhỏ này khác thường từ những chi tiết nhỏ nhất. Ví như họa tiết trang trí và độ cong góc mái hiên trước khám thờ quá lớn, dọc bờ tường ken dày cỏ gấu, thoạt trông như nạm một dải trang sức màu nâu đỏ - rất gần với phong cách chùa miếu ở Tây Tạng.

Tôi lại gần hai bước, thấy pho tượng Quan Công tuy vẫn ăn mặc theo lối người Hán, nhưng bệ đỡ dưới chân lại là một đóa mạn đà la. Thấy vậy, tôi giật thót mình, vội bảo Kido Kana đứng yên đó đợi còn mình vòng ra sau miếu. Quả nhiên phát hiện một cột đá khắc kinh Phật đã đổ sụp, nhưng vẫn phân biệt được phần đầu, thân và bệ.

Cột đá khắc kinh Phật vốn xuất hiện vào giữa thời Đường. Người đương thời tin rằng trong đó ẩn chứa Phật pháp vô biên, có thể trừ tà tránh nạn, thu phục ác quỷ. Cột đá này có bệ tu di bát giác*, phần thân lờ mờ hoa văn mạn đà la, rõ ràng là vật của Mật tông.

Là một dạng bệ trong kiến trúc và điêu khắc truyền thống Đông Á, cung điện, đền chùa, tháp, bia đá, sư tử đá, trụ cửa đều có bệ tu di. Bệ tu di bắt nguồn từ Phật giáo Ấn Độ, tượng trưng cho núi Tu Di, trung tâm thế giới, ý chì độc tôn và vững chãi.

Cũng có nghĩa là, trong ngôi miếu đậm phong cách Mật tông này, thờ Quan Công.

Tôi có cảm giác như xem ti vi mà chuyển nhầm kênh, thấy Hoàng Dung của Anh hùng xạ điêu chạy đến Bến Thượng Hải yêu Hứa Văn Cường.

Giữa lúc bàng hoàng, tôi sực nghĩ ra, theo lý thì trên cột đá sẽ khắc tên người dựng cột, vội ngồi thụp xuống nhìn kỹ, chữ đã mờ hết cả, chỉ thấy loáng thoáng một chữ “Tín”, bên dưới đề “cẩn lập”, ngoài ra chẳng còn gì hết.

Trên cột đá chỉ có chữ Hán, không có chữ Tạng, song cũng chẳng hề khó hiểu. Nếu ngôi miếu Quan Công này cùng thời với đầu Phật ngọc của Võ Tắc Thiên thì bấy giờ chữ Tạng mới ra đời không lâu, chưa được sử dụng rộng rãi.

Tôi quan sát một lúc thật lâu mới quay ra trước miếu. Kido Kana đang chụp ảnh pho tượng, thấy tôi quay lại bèn hỏi có phát hiện được gì không. Tôi lắc đầu, cô trỏ Quan Công nói, “Chắc đây là võ tướng Quan Vũ nhà Thục Hán?”

“Ừ.”

“Sao ông ta lại xuất hiện ở đây? Liệu có liên quan gì tới pho tượng chỉ còn nửa thân dưới ở chùa Thắng Nghiêm không nhỉ?”

Tôi phủ định giả thiết này. Tượng Quan Công ở chùa Thắng Nghiêm quá lắm chỉ vào thời Thanh, cách xa niên đại của ngôi miếu này. Huống hồ từ khi Thần Tú thăng Quan Công lên làm thần hộ pháp trong Phật giáo, tượng Quan Công nhan nhản khắp các chùa miếu Trung Thổ, chẳng nói lên được điều gì cả.

Kido Kana móc găng tay cao su trong túi đeo vào rồi sờ nắn bức tượng một lượt từ trên xuống dưới, còn lấy cả thước ra đo. Chừng mười phút sau, cô ngoái lại bảo, “Pho tượng đồng này ít nhất cũng phải hơn nghìn tuổi rồi.”

“Ồ? Ước tính được chính xác đến thế cơ à?”

“Vâng, em suy đoán dựa trên độ dày lớp gỉ đồng đấy. Anh xem, vết gỉ này lớp lang rõ ràng, chia thành mấy lớp, độ ăn mòn của từng lớp chênh lệch rất nhỏ. Có công thức tính toán cả mà.” Kido Kana đáp, hễ nhắc tới chuyên môn, giọng cô lại tự tin hẳn.

Tôi cười, “Anh quên mất đấy, luận văn của em viết về vấn đề này mà.”

Còn nhớ trong sơ yếu lý lịch của Kido Kana, từng liệt kê một luận văn đầy tham vọng, định đo lường phân tích thành phần hồ bọc của văn vật. Viết được bài luận như thế, chắc hẳn cô nàng cũng khá tự tin về trình độ giám định cổ vật.

Kido Kana giải thích, “Đó không hoàn toàn là thành quả của em đâu. Ông nội em mới là người đầu tiên đề ra lý luận ấy.”

Nghe cô nói đầy tự hào, tôi nhất thời chẳng biết trả lời thế nào. Kido Kana đâu biết pho tượng Quan Công này không phải đồ thật, có lẽ nó được làm ra chính vào tháng Sáu năm 1931 tại Kỳ Sơn, dưới bàn tay Trịnh Hổ.

Tôi cũng chỉ sực nghĩ ra, pho tượng này là đồ thời Dân Quốc, vậy mà gỉ sét lại kết dày như vậy, rõ ràng cố ý làm giả. Ông tôi nhờ Trịnh Hổ tạo ra vật này, hẳn là định giăng bẫy lừa Kido Yuzo. Lớp gỉ đồng trông như thật kia, chẳng những lừa được Kido Kana bây giờ, mà e rằng mấy chục năm trước cũng đã qua mặt được ông nội cô.

Nếu suy luận này đúng, thì chuyến thám hiểm của ông nội tôi và Kido Yuzo sẽ trở nên khác hẳn với những gì được công bố, thành một vụ lừa gạt mà ông tôi là kẻ giăng bẫy, còn Kido Yuzo là người bị hại.

Nhưng vì sao lại là Quan Công? Dấu hiệu này có ý nghĩa gì đặc biệt trong vụ án đầu Phật chăng?

Thấy tôi thần người, Kido Kana nghi hoặc ra mặt, “Còn chuyện gì em chưa được biết à?” Cô hỏi rất khéo, nhưng tôi vẫn nhận ra vẻ buồn bã thấp thoáng trong giọng nói. Dường như cô đã phát hiện tôi vẫn còn điều giấu giếm, trực giác phụ nữ quả là đáng sợ.

Tôi phân vân giây lát, cuối cùng vẫn kể cô nghe về tượng đồng Quan Công. Cô đã thành thật với tôi, nếu tôi còn giấu giếm mãi thì thực chẳng đáng mặt đàn ông. Nghe tôi kể xong, Kido Kana biến sắc, xem chừng cũng ý thức được, mấy chục năm trước ông nội từng phạm sai lầm giám định hệt mình.

Cô khẽ níu cánh tay tôi, thở dài, “Sao anh… không kể sớm với em? Chẳng phải chúng ta đã thỏa thuận rồi ư? Giữa vợ chồng với nhau, không cần giấu giếm gì cả.” “Ừm…” Tôi ngượng nghịu, chẳng biết phải nói gì. Kido Kana mặt buồn rười rượi, không giấu được thất vọng, khiến tôi cũng đâm áy náy, toan nắm lấy tay cô, nhưng cô lại né đi, “Anh còn chuyện gì giấu em nữa không?”

“Không mà, thật đấy.” Tôi vội đáp. Tiếc rằng lời giải thích này vô hiệu, mối nghi ngờ của Kido Kana chẳng hề bớt đi. Cô buông cánh tay tôi ra, nói khẽ, “Để em ra phía sau xem.” Đoạn bước ra sau miếu xem cột đá đổ kia.

Trước phản ứng thầm lặng ấy, tôi không đuổi theo giải thích, cũng chẳng biết phải giải thích cái gì. Cô đi rồi, tôi lắc lắc đầu, tiếp tục xem kỹ pho tượng Quan Công. Tay nghề người nhà họ Trịnh đúng là tinh xảo, nếu tôi không biết trước, e rằng cũng tưởng tượng này thuộc thời Đường. Trình độ làm giả đến bậc này vượt xa Trịnh Quốc Cừ, không dùng máy móc tinh vi kiểm tra thì không sao nhận ra nổi.

Đang sờ mó, tôi chợt phát hiện pho tượng hơi lung lay, xoay thêm cái nữa thì suýt long. Tôi nhìn kỹ chỗ nối, thấy vết hàn rất nhỏ, còn cả khe hở mảnh vênh ra. Có nghĩa là, tượng với bệ vốn không liền nhau, mà về sau mới ghép vào. Vậy ban đầu trên bệ này đặt cái gì? Tượng Phật Lô Xá Na bằng đá tương ứng với pho trong chùa Thắng Nghiêm, hay Phật ngọc của minh đường Võ Tắc Thiên?

Tôi khoanh chân ngồi xuống trước pho tượng Quan Công, nhắm nghiền mắt, cố gắng tưởng tượng mình là ông nội, xem ông sẽ thấy gì, làm gì, nghĩ gì ở đây. Hai ông cháu thuộc hai thế hệ lại giao thoa một cách thần kỳ tại cùng một địa điểm, tôi đặt mình vào màn sương bí ẩn mấy chục năm trước, cố vén từng hạt bụi mờ, hòng nhìn rõ cảnh tượng bên trong, tìm cho ra dụng ý thực sự của ông mình.

Có lẽ còn cả của bố tôi nữa.

Chẳng biết bao lâu sau, tôi mở bừng mắt, đứng dậy vòng ra sau miếu. Kido Kana đang dùng chổi lông chuyên dụng quét lên bề mặt cột đá, hòng nhận thêm mặt chữ.

“Xem nữa làm gì, vừa nãy anh xem rồi, trên đó khắc kinh Đà La Ni.” Tôi bước lại gần. Kido Kana không buồn ngẩng lên, chỉ im lặng làm. Tôi đặt tay lên vai, cô xoay người toan giãy ra. Tôi đành thở dài, “Nếu em muốn giận thì đợi một chút, để anh đào nó lên đã.”

Kido Kana ngẩng lên, thoáng đờ đẫn rồi cười gượng, “Thì ra anh vẫn còn nhiều chuyện chưa kể.”

“Không không…” Nhận ra mình lỡ lời, tôi vội chữa lại, “Vừa rồi trông thấy tượng Quan Công, anh mới nghĩ ra thôi. Nếu anh nói dối thì trời không cho anh xuống núi nữa!” Kido Kana nửa tin nửa ngờ, nhưng vẫn đứng dậy nhường chỗ.

Cột đá khắc kinh khá to, may mà đã gãy. Nửa phần bệ vùi dưới đất, tôi phải rút xẻng sắt ra đào hết đất xung quanh lên, sâu khoảng ba mươi phân mới thấy đế bệ. Lại hì hục khiêng cả đế lẫn bệ ra, đặt sang một bên rồi tiếp tục đào xuống. Có điều lối đào của tôi hơi lạ, trước tiên xới hết đất quanh miệng hố rồi mới moi sâu xuống, cứ thế vừa xới vừa moi, chẳng mấy chốc đã tạo thành một hố hình trụ tròn tiêu chuẩn.

Trước hành động kỳ quặc của tôi, Kido Kana không nhịn được hỏi, “Anh đào gì thế?” Tôi dừng tay, nhoẻn miệng, “Em không giận nữa anh mới nói.” Kido Kana đỏ bừng mặt, “Em có giận đâu.” Tôi giơ tay nắm lấy cánh tay cô, trầm giọng nói, “Xin lỗi, anh quên chưa kể rõ chuyện tượng đồng Quan Công với em, bỏ qua cho anh nhé.” Kido Kana khẽ ừm một tiếng, tôi gặng thế là bỏ qua hay không bỏ qua, cô lại ừm tiếng nữa. Tôi bèn nói vậy em cười đi, cười tức là bỏ qua. Kido Kana nhoẻn môi cười trừ.

Nịnh nọt làm hòa xong xuôi, tôi mới tiết lộ, “Anh đang đào một thứ có liên quan mật thiết đến chúng ta.” Dứt lời lại tiếp tục vung xẻng đào. Kido Kana nghe vậy cũng tò mò, đứng bên mép hố nhìn lom lom. Đào thêm một lúc, mũi xẻng va phải thứ gì đó, nghe keng một tiếng. Tôi vội dùng xẻng gạt lớp đất xốp, để lộ tầng đá hoa cương dưới đáy hố.

“Chẳng có gì cả.” Kido Kana thất vọng thốt lên.

“Anh không cho là vậy đâu. Không có thực ra chính là có. Có thực ra lại là không có.” Tôi tủm tỉm cười. Kido Kana ngơ ngác không hiểu. Tôi lại lấy xẻng gõ vào mép hố, “Em xem trên này là gì?” Tôi đã gạt hết bùn đất trong hố, Kido Kana cúi đầu nhìn xuống, thấy vách hố cúng là đá hoa cương hệt như dưới đáy, tạo thành một cái hố hình trụ bằng đá hoa cương.

Tôi cắm chiếc xẻng vào đống đất cao như cái gò bên cạnh, giải thích, “Núi ốc là do vận động tạo núi dồn ép mà thành, thành phần chính là đá hoa cương. Vậy mà trên đỉnh núi lại đào được chừng này bùn đất, chẳng lạ lắm ư. Đáng ngạc nhiên hơn là, kích thước đống đất này vừa hay lại có hình trụ, trong khi xung quanh toàn đá, chứng tỏ điều gì?”

“… Có người cố ý đào ra cái hố này?” Kido Kana hiểu ra ngay.

Tôi gật đầu, “Đúng thế, rất có thể chính người dựng ngôi miếu này đã tạo nên cái hố, mục đích là để chôn cột đá xuống cho vững. Nhưng như vậy lại nảy ra một vấn đề khác.”

Tôi cầm cây thước của cô lên đo thử, “Phần chân cột chôn dưới đất khoảng ba mươi phân, còn cái hố này sâu tận tám mươi phân. Tầng đá hoa cương ở đây rất cứng, đào vừa tốn sức lại tốn thời gian, vì sao đám thợ ấy phải mất công đào thêm năm mươi phân nữa làm gì?”

“Trừ phi…” Kido Kana ngập ngừng.

“Trừ phi bên dưới cột họ còn chôn một thứ khác, cao chừng năm mươi phân.”

Kido Kana bỗng mở to mắt. Từ đầu Phật ngọc hiện giờ có thể ước lượng kích thước toàn bộ pho tượng ở minh đường Võ Tắc Thiên vừa đúng năm mươi phân. Kido Kana run rẩy trước phát hiện lớn này. Nó đã chứng minh Phật ngọc của minh đường Võ Tắc Thiên mà chúng tôi vẫn mải miết tìm kiếm, ít ra đã từng được chôn dưới cột đá này một thời gian dài, say ngủ trong dãy Tần Lĩnh.

Kido Kana ngồi xuống, vươn tay xuống hố định nắm một nắm đất, như muốn cảm nhận dấu vết pho tượng ngọc nghìn năm tuổi kia để lại. Lặng thinh hồi lâu, cô mới lên tiếng hỏi, “Sao anh đoán ra được thế?”

“Đơn giản thôi, trên cột đá khắc kinh Đà La Ni. Trong tiếng Phạn, đà la ni nghĩa là ‘tổng trì’, cũng có nghĩa là pháp, tượng trưng cho Phật Tỳ Lô Giá Na đại biểu Pháp Thân Phật. Nhà Phật thường chôn pháp khí và vật phẩm cúng tế dưới móng các đền tháp, ví như cung ngầm ở chùa Pháp Môn, nên anh đoán dưới cột đá nhất định chôn thứ gì đó.”

“Nhưng… lẽ ra phải là Phật Lô Xá Na tương ứng với pho ở chùa Thắng Nghiêm chứ?”

Tôi trỏ phía trước, “Đáng lẽ là vậy, pho Lô Xá Na ấy vốn đặt trên bệ thờ trong miếu kìa. Nhưng không hiểu vì sao người ta lại đổi thành tượng Quan Công, còn pho tượng kia e rằng đã bị hủy rồi.”

Chúng tôi hiểu, mấy chục năm trước, trên đỉnh núi này, tại điểm giao thoa thời gian quan trọng ấy có lời giải cho tất cả câu chuyện và nhân quả đến tận bây giờ. Giữa ông tôi Hứa Nhất Thành, Kido Yuzo và “Anegakoji Eitoku” bí ẩn nhất định đã xảy ra chuyện gì đó nên cuối cùng họ mới đào Phật ngọc dưới chân cột đá ra, phá hủy Phật Lô Xá Na trong miếu, thay bằng tượng Quan Công - pho Quan Công đó nhất định cũng mang ý nghĩa đặc biệt.

Đang vắt óc nghĩ mãi không ra, lại nghe tiếng bước chân đi đến. Chúng tôi ngoảnh lại, thấy Phương Chấn đứng ngay phía sau, hỏi tại sao lại vào đây, y thản nhiên đáp, “Sạn đạo sập rồi.”

Chúng tôi tái mặt, vội hỏi đầu đuôi. Phương Chấn nói vừa rồi nghe thấy lộp độp mấy tiếng rồi dây thừng cố định con đường bắt đầu lắc lư dữ dội. Y định chạy xuống xem, nhưng cả con đường rung lắc chao đảo, không thể đặt chân lên được. Cứ thế chừng năm phút, gần như tất cả ván gỗ đều rơi xuống cả, chỉ còn vắt vẻo mấy sợi thừng.

“Tự nhiên nổi gió à?” Kido Kana hỏi.

“Làm gì có chuyện trùng hợp thế, hơn sáu mươi năm dãi dầu mưa gió không hỏng, đúng lúc chúng ta đến lại bị gió lớn làm hỏng chắc?” Tôi phản bác, có cảm giác chuyện này không đơn giản như vậy.

Phương Chấn im lặng hút thuốc, trước khi có chứng cứ xác thực, y rất ít phát biểu ý kiến, cặp mắt sắc lạnh nhìn chằm chằm xuống núi.

Còn một vấn đề phiền phức khác, thực tế hơn tìm hiểu nguyên nhân đường bị phá hủy, đó là chúng tôi phải xuống bằng cách nào đây?

Vấn đề này khá cấp bách, tuy núi ốc không mấy cao nhưng cũng chẳng thấp, vách núi bốn bề đều gấp khúc gần chín mươi độ. Nếu không có đường, chỉ dựa vào mấy sợi thừng leo núi chúng tôi đem theo thì không thể tụt xuống được.

“Lão Tạ bên dưới có biết không nhỉ?” Tôi sực nhớ ra, “Ta gọi với xuống xem?”

Phương Chấn ít nói, Kido Kana bẩm sinh không nói to được, nhiệm vụ bắc loa này rơi ngay vào tôi. Tôi bèn buộc dây thừng vào thắt lưng, đưa một đầu cho Phương Chấn rồi nhích từng bước đến gần vách đá, thò đầu ra, hít sâu lấy hơi, hét vọng xuống núi. Nơi đây được nhiều núi bao quanh, tiếng rền vang vọng, núi này lại không quá cao, nếu lão Tạ vẫn còn ở dưới núi thì chẳng lý nào không nghe thấy. Nhưng tôi gọi đến khản cả giọng vẫn chẳng thấy bên dưới có động tĩnh gì, đành hậm hực rụt trở vào.

Giờ đã năm giờ chiều, chỉ còn hơn một tiếng nữa là mặt trời lặn. Ba chúng tôi không đem theo lương thực và lều bạt, qua đêm trên núi rất nguy hiểm. Phương Chấn đi quanh đỉnh núi một vòng, xem bộ cũng chẳng còn cách nào. Tôi ngồi phệt xuống một phiến đá, Kido Kana cũng ngồi xuống bên cạnh, tựa vào người tôi.

Vầng dương đằng xa bắt đầu lặn xuống phía Tây, đây là lần đầu tiên tôi được ngắm hoàng hôn trên Tần Lĩnh, vành tròn đỏ ối từ từ chìm vào giữa rặng núi xám xanh, trông như một tấm gương đồng thời Hán được nung đỏ rực rồi nhúng vào nước lạnh, ngay mây mù xung quanh cũng bị nhuộm thành đỏ thắm.

Kido Kana lặng ngắm tà dương, khiến tôi trong giây lát cứ ngỡ cô đã thiếp đi, nào ngờ cô lại lẩm bẩm khẽ nói, “Thuở bé em nghịch như quỷ, rất thích thơ thẩn chơi trong mấy gian nhà gỗ từ thời Minh Trị, Đại Chính của gia đình. Có lần trèo lên xà một căn phòng gỗ, em vô tình tìm thấy hốc ngầm, bên trong giấu một cuốn sổ tay. Em vui quá hoa chân múa tay; sơ ý đạp đổ luôn thang. Căn phòng ấy cách âm rất tốt, lại nằm ở góc khuất nẻo, gào khóc kêu cứu thế nào cũng chẳng ai nghe. Thế là em cứ nắm chặt quyển sổ, sợ hãi co rúm lại trên xà nhà, mãi tới khi người lớn tìm ra…”

“Hóa ra chính em tìm thấy sổ tay của ông Kido Yuzo ư?”

Kido Kana gật gật rồi vùi đầu vào cánh tay tôi, “Bấy giờ em một mình đứng cheo leo trên cao, thấy rất sợ, cũng rất trơ trọi, chỉ có cuốn sổ kia ở bên cạnh, tiếp thêm cho em sức mạnh đợi đến khi người lớn đến cứu. Em luôn cho rằng đó là linh hồn ông nội ngụ trong cuốn sổ. Ông đã bảo vệ em, đồng thời cũng chọn em để hoàn thành tâm nguyện của mình…”

Có lẽ cảnh tượng tương tự trước mắt đã chạm đến ám ảnh thuở nhỏ, khiến Kido Kana không nén nổi xúc động. Tôi chỉ biết ôm cô vào lòng, dịu dàng vuốt ve mái tóc. Đột nhiên cô hỏi, “Nếu em chết, anh có buồn không?”

“Đừng nói bậy, chúng ta sẽ không ai chết cả. Ba người sống sờ sờ, sao lại bó tay trước một ngọn núi cỏn con được?” Tôi khẽ mắng rồi cốc nhẹ đầu cô.

Kido Kana ngẩng lên, nước mắt như mưa, lắc tay tôi, “Anh chưa hiểu sao? Chúng ta tìm thấy dấu vết ông cha để lại, sau đó bị mắc kẹt. Anh không thấy hai tình huống giống hệt nhau à? Là luân hồi, là số mệnh đấy? Ông nội chúng ta nhất định đang ở đâu đây, quan sát chúng ta!”

Nghe đến đó, trong đầu tôi chỉ văng vẳng mấy chữ “dấu vết ông cha để lại. Dấu vết ông cha để lại…” Tôi ôm chặt Kido Kana, nhắm nghiền mắt, lờ mờ nhận ra trước đây mình đã bỏ qua một trình tự cực kỳ quan trọng.

Tháng Sáu năm 1931, ông tôi và Trịnh Hổ đến Kỳ Sơn đúc nên tượng đồng Quan Công, Trịnh Hổ từ giã; sau đó vào tháng Bảy, Hứa Nhất Thành và Kido Yuzo cùng “người thứ ba” bí ẩn đến núi ốc bắc sạn đạo kunu lên đỉnh núi tìm được Phật ngọc. Từ đó có thể thấy, trong khoảng giữa tháng Sáu và tháng Bảy, ông tôi đã đem cả pho tượng đồng Quan Công giả lên núi, thay cho pho Lô Xá Na rồi mới xuống núi tụ họp với Kido Yuzo.

Nói cách khác, trước khi bắc sạn đạo kunu, ông tôi đã lên núi theo đường khác - hơn nữa con đường này rất vững chãi kiên cố, bằng không đâu thể chuyển được pho tượng đồng nặng trịch kia lên.

Giờ nhất định nó không còn nữa, nhưng ít ra cũng cung cấp cho chúng tôi một khả năng khác. Tôi đứng dậy, vỗ về trấn an Kido Kana một hồi rồi bước đến nói với Phương Chấn cách nghĩ của mình. Phương Chấn trầm tư giây lát, “Đúng là có khả năng đó, nhưng vừa rồi tôi đã xem xét toàn bộ vách núi xung quanh, không phát hiện bất cứ dấu vết nào khác cả.”

Tôi thất vọng thở hắt ra. Đột nhiên y hỏi, “Cậu đọc Sherlock Holmes chưa?”

“Tôi xem phim rồi.”

“Khi nào rảnh thì đọc tiểu thuyết ấy, viết hay lắm.” Giọng Phương Chấn đều đều, “Holmes từng nói một câu rằng, khi bạn loại trừ tất cả những điều không thể, thì điều còn lại duy nhất, dù vô lý đến đâu, cũng là sự thực.”

Hai chúng tôi không hẹn mà cùng ngoảnh đầu nhìn về phía ngôi miếu Quan Công. Dưới bóng chiều buông, ngôi miếu nhỏ hương tàn khói lạnh toát lên vẻ quạnh quẽ khó tả. Chúng tôi nhìn nhau cười rồi cùng chui vào miếu, dỡ tượng xuống, nhấc luôn cả bệ ra. Nhờ ánh ngày tàn sót lại, tôi quan sát mặt đất phía dưới bệ rồi ra dấu khẳng định với Phương Chấn.

Sàn miếu lát đá phiến vuông, mỗi bề một thước, giữa các kẽ gạch cũng lên đầy cỏ gấu nhuộm bằng đất đỏ, tạo thành những đường kẻ ô đỏ mang đậm phong cách Tây Tạng, cỏ gấu một khi được nhuộm đỏ thì cả ngàn năm cũng không phai màu, nhưng tùy theo thời gian mà màu sắc sẽ khác biệt chút chút. Tôi thấy có mấy kẽ gạch màu khác hẳn, có lẽ từng bị cạy ra rồi lát lại.

“Lẽ nào dưới sàn có đường ngầm?” Tôi lẩm bẩm. Phương Chấn nhíu mày, “Không đúng, nếu bên dưới có đường ngầm thì chỉ cần hai viên gạch che lên là đủ. Nhưng những viên gạch có kẽ biến màu ở đây lại xếp thành một hàng dài, từ giữa miếu đến tận chân tường hai bên, vừa hẹp vừa dài. Ai lại đào đường ngầm thế này?”

“Kệ nó, cứ cạy hết lên xem!”

Tôi và Phương Chấn cúi xuống, bắt đầu cạy từng viên gạch. Kido Kana đứng ngẩn ra nhìn chúng tôi hì hục, chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, nhưng tôi chẳng có thời gian đâu mà giải thích, bởi trời sắp tối sập đến nơi.

Dưới lớp gạch là đất xốp, giống chất đất trong hố chôn Phật ngọc dưới chân cột đá. Xói hết đất lên, bên dưới là tầng đá hoa cương cứng đanh. Nhưng giữa mặt đá cứng có một vết nứt chạy dài, xuyên suốt dọc ngôi miếu, vừa hay được hàng gạch kia che đi. Ví như núi ốc nứt ra một khe hở chạy dọc từ đỉnh xuống dưới, sau đó được con người dùng đất và gạch lát vá lại.

Tôi và Phương Chấn không ngờ dưới nền miếu lại giấu một khe hở lớn đến vậy, vượt xa tưởng tượng của chúng tôi. Có điều khe nứt này tuy dài nhưng không đủ cho người chui lọt, nên không thể dùng như đường ngầm được.

Quan sát độ sâu và chiều dài một hồi, Phương Chấn nói, đây rất có thể là dấu tích để lại sau một trận động đất, vì kết cấu địa chất đặc thù nên nó nứt từ trong lòng núi, chứ không hề lộ ra vách đá bên ngoài. Y vòng ra bên ngoài tuông bao, cúi xuống đào mấy xẻng, quả nhiên xói hết một tầng đất thì tìm thấy vết nứt kéo dài, miệng khe nứt khá rộng, một người lớn cố gắng cũng chui lọt. Tôi thò đầu xuống nhìn, thấy bên dưới tối thui, sâu không thấy đáy.

Phương Chấn cảm thán bằng giọng ăn năn hiếm thấy, “Trước khi leo lên, tôi đã thấy độ dốc hai bên sườn núi hơi là lạ, đáng lẽ phải phát hiện trong lòng núi có vấn đề từ lúc đó mới phải.”

“Lẽ nào trước đó họ leo từ đây lên?” Tôi buột miệng hỏi.

“Trong lòng rặng núi vốn có vô số hang động, nếu vết nứt này tình cờ chạy qua một vài cái trong số đó, thì có thể tạo thành lối đi thông.” Dứt lời, Phương Chấn quẹt một que diêm ném xuống khe nứt. Diêm roi xuống chưa được bao lâu đã va vào đá tắt ngấm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, chúng tôi đã kịp trông thấy sâu bên dưới khe, vách đá hai bên gồ ghề lồi lõm, đá nhọn đâm lên tua tủa, có điều như vậy lại tiện đu bám leo trèo. Chẳng còn lựa chọn nào khác, đành tụt xuống thử vận may thôi.

Thuật lại tình hình với Kido Kana, cô tỏ ý muốn đi theo tôi, tới bất cứ đâu cũng được. Ban đầu chúng tôi còn định đem tượng đồng Quan Công theo, nhưng xét thấy khá nguy hiểm, đành tạm thời để lại. Còn người thì còn của, văn vật về sau muốn quay lại lấy lúc nào mà chẳng được.

Khe nứt này dễ bám víu hơn chúng tôi tưởng, những mấu đá lồi lõm hai bên bỗng dưng lại thành chiếc thang thiên tạo, khe nứt khi rộng khi hẹp, mỗi lúc chúng tôi lo hết đường, lại thấy nó mở ra một không gian mới, mênh mông rộng rãi. Thiên nhiên đúng là kỳ diệu, ngọn núi này tựa như một quả óc chó bị đập nứt, tuy vỏ ngoài vẫn còn nguyên, nhưng chỉ cần bóp mạnh hai bên, nó sẽ tách ra ngay, để lộ phần nhân bùi béo ngậy. Cũng chẳng biết người xưa làm sao phát hiện ra lối đi này nữa.

Vừa tụt xuống tôi vừa hình dung lại từng hành động của ông mình năm ấy.

Trước hết ông vời Trịnh Hổ đúc tượng đồng Quan Công, rồi cùng “người thứ ba” đến núi này, men theo khe nứt leo lên, đem thay vào tượng Phật Lô Xá Na. Sau đó họ lấp gạch lại nguyên dạng, đặt bệ tượng về chỗ cũ rồi tụt xuống từ khe nứt bên ngoài tường bao. Khi Kido Yuzo theo ông tôi tới núi này, ông đã cố ý giấu biến khe nứt, cùng Kido Yuzo bắc đường núi kunu. Lên đến nơi, Kido Yuzo nhất định đã dồn hết tâm trí vào ngôi miếu nhỏ, ông tôi hoặc “người thứ ba” thừa cơ lấp đất giấu luôn khe nứt bên ngoài tường bao đi.

Thế là, trong mắt Kido Yuzo, núi ốc đã trở thành một nơi heo hút từ khi xây dựng vào thời nhà Đường tới giờ không ai đặt chân tới, pho tượng đồng Quan Công cũng nghiễm nhiên được coi là đồ thời Đường. Ông tôi tốn bao tâm sức bày ra cục diện này, rốt cuộc để làm gì nhỉ? Nếu tất cả chỉ nhằm lừa gạt Kido Yuzo, vậy thì pho tượng ngọc họ phát hiện trên đỉnh núi cũng rất khó phân định được thật giả.

Mất hơn ba tiếng đồng hồ, chúng tôi mới chật vật xuống được tới nơi, chỉ gặp duy nhất một sự cố bất ngờ, là Kido Kana sơ ý bước hụt, suýt thì rơi xuống, may có Phương Chấn nhanh tay níu lại, nhung chân phải y cũng bị thương. Cuối cùng chúng tôi chui ra từ một hang ngầm cực kỳ kín đáo, cửa hang bị rễ cây đại thụ khổng lồ che khuất, gần như không thể phát hiện. Ba chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, thầm nhủ vết nứt nọ đúng là đường ngầm thiên nhiên tuyệt hảo.

Bật đèn pin lên, đi vòng từ cửa hang ra con đường núi ban đầu, chúng tôi không khỏi kinh hoàng.

Trước mắt chúng tôi, lều bạt và đồ dùng đều đã bị ném xuống chân núi, một đoạn sạn đạo từ trên cao rủ xuống lòng thòng, lão Tạ nằm sấp ngay bên dưới, thân hình cứng đờ, đầu và thân gập lại thành một góc độ kỳ quặc. La bàn của lão rơi cách đó không xa, vỡ nát.

Phương Chấn bước đến kiểm tra một lát rồi tuyên bố lão đã chết vì ngã từ trên cao xuống gãy cổ. Tôi đấm mạnh xuống đất, lòng đau vô hạn. Lão Tạ vốn chẳng liên quan gì tới chuyện này, chỉ muốn kiếm chút tiền còm, nào ngờ lại phải bù thêm cái mạng.

Xem ra tình huống lúc ấy đại khái thế này: lão Tạ chẳng hiểu nghĩ thế nào, lại định lên núi. Kết quả mới đặt chân lên sạn đạo, đi được mấy chục bước đã gặp phải gió lộng, con đường rung lắc dữ dội, khiến lão mất thăng bằng rơi xuống, kéo theo cả dây thừng buộc đường, cuối cùng dẫn tới cả con đường đổ sụp.

Tôi còn đương ngậm ngùi thương tiếc đã thấy Phương Chấn tập tễnh đi tới gần, mày nhíu chặt. Y nhìn quanh rồi nói bằng giọng nghiêm nghị chưa từng có, “Lão Tạ không phải gặp tai nạn, mà là bị giết.”

Tôi hít sâu một hơi, toàn thân lạnh toát. Một người đang sống sờ sờ, thoắt cái đã thành xác chết, còn được phát hiện là bị giết. Giữa núi sâu nhan nhản bóng đen lay động, nghe được tin này đúng là rợn gáy.

“Trước hết, nếu ông ta ngã từ sạn đạo đang chao đảo thì không thể rơi xuống ngay bên dưới được, mà phải lệch đi chừng hai ba mét.” Phương Chấn chậm rãi phân tích, “Thứ hai, đường này rất khó đi, làm gì có ai vừa đi vừa cầm la bàn nữa? Thứ ba, cũng là điều quan trọng nhất, xác chết do ngã từ trên cao xuống không chảy máu như thế, hình dạng đốm xác cũng khác.”

“Ý ông là…”

“Tôi nghĩ sau khi giết lão Tạ, hung thủ đã sắp xếp lại hiện trường. Nếu chúng ta cho rằng ông ta vô ý ngã từ trên cao xuống là mắc bẫy hắn.”

Không hổ là cảnh sát hình sự lão luyện, chỉ phân tích hiện trường đã rút ra ngay kết luận.

“Vậy hung thủ đâu rồi…” Tôi kinh hoàng nhìn ra bóng đêm xung quanh. Phương Chấn trấn an, “Mục đích của hung thủ hẳn là muốn giữ chân chúng ta trên đỉnh núi. Hắn không biết đến khe nứt nên chắc đã bỏ đi rồi.” Tôi lặng thinh. Tên hung thủ này cũng như Phương Chấn, luôn bám theo chúng tôi suốt dọc đường, vận dụng trăm phương nghìn kế, hẳn mục đích của hắn phải liên quan đến đầu Phật ngọc. Tôi luôn cảm thấy có ai đó âm thầm theo dõi mình, bất luận là ở Bắc Kinh, Thiên Tân, An Dương hay Kỳ Sơn, lúc nào cũng thấy cân cấn như có dằm trong thịt, không sao xua đi được. Linh cảm không lành bấy lâu, giờ cuối cùng cũng hiện rõ - chúng tôi sắp chạm đến chân tướng nên hắn mới quyết định ra tay.

Tôi bỗng sinh nghi, có khi nào lúc trước Phương Chấn đã phát hiện được gì đó nên mới chủ động ra mặt bảo vệ chúng tôi?

Có điều tôi không hỏi y, bởi có hỏi cũng toi công. Nếu muốn cho biết, y tự khắc sẽ nói, bằng không có đánh chết cũng đừng hòng cạy nổi miệng.

“Giờ phải làm sao đây?”

“Dựng lều nghỉ lại, mai đi tiếp.” Phương Chấn đáp.

Kido Kana vẫn chưa hết hoảng sợ. Suốt đêm tôi ở trong lều cùng cô, nói đủ thứ chuyện. Từ tuổi thơ của tôi đến tuổi thơ của cô, dòng họ nhà tôi, dòng họ nhà cô. Phương Chấn cũng thức trắng, nửa đêm tôi còn nghe thấy y trở dậy đi loanh quanh cảnh giới, không khỏi bội phục tay lính giải ngũ này.

Sáng sớm hôm sau, Phương Chấn khám nghiệm lại thi thể lão Tạ kỹ càng, ghi chép cẩn thận rồi chôn ngay tại chỗ. Lão không có người thân bè bạn, ngoài chúng tôi ra e rằng chẳng ai để tâm tới sự sống chết của lão. Thậm chí đến tên thật của lão tôi còn không biết, đành viết mấy chữ “Mộ đạo sĩ họ Tạ” lên thanh gỗ cắm trước mộ. Kido Kana lầm rầm đọc một bài chú vãng sinh, tôi biết lão sẽ không câu nệ.

Có Phương Chấn dẫn đường, chúng tôi chỉ mất hơn hai ngày để ra khỏi rặng Tần Lĩnh, quay lại huyện Kỳ Sơn. Vừa vào đến thị trấn, Phương Chấn lập tức bỏ đi trước. Tôi điện thoại cho Cơ Vân Phù, nhưng lại người lạ bắt máy, tự xưng tên Cơ Vân Phương, em họ Cơ Vân Phù. Tôi hỏi Cơ Vân Phù có đó không, đầu kia ngập ngừng giây lát rồi hỏi tôi là ai, tôi trả lời là một người bạn, chị ta liền thông báo tối qua Cơ Vân Phù bất ngờ lên cơn đau tim, hiện đã qua đời.

Như sét đánh ngang tai, tôi suýt nữa đánh rơi ống nghe.

Cơ Vân Phù cũng chết rồi ư?

Sao lại thế được?

Cơ Vân Phương cho tôi biết, Cơ Vân Phù mắc bệnh tim bẩm sinh nên hầu như chưa rời Kỳ Sơn bao giờ. Hôm qua có người đến tìm, phát hiện anh ta nằm gục trên bàn sách, đã lạnh ngắt. Pháp y khám nghiệm không thấy gì đáng nghi, nên thi thể đã được đưa đến nhà tang lễ.

Tôi nhắm mắt lại, lòng đau đớn khôn tả. Tôi không tin anh ta chết vì bệnh tim, cũng không tin lão Tạ ngã gãy cổ mà chết. Cái chết của họ, cả những nguy hiểm mà ba chúng tôi gặp phải, đều xảy ra khi đến gần chân tướng. Kẻ bí ẩn đằng sau ra tay vừa nhanh vừa độc, chẳng để chúng tôi kịp phản ứng.

“Anh ấy có để lại gì không? Tài liệu, giấy tờ hay ghi chép gì đó ấy.” Tôi run rẩy hỏi.

Cơ Vân Phương bất lực đáp, “Anh ấy để lại rất nhiều…”

Chị nói phải, sách vở Cơ Vân Phù sưu tập rất phong phú, chỉ riêng tài liệu đã choán hết mấy gian phòng lớn. Nhưng thư tôi muốn hỏi là cuốn sổ tay Kido Yuzo mà anh ta hợp tác vời lão Thích giải mã, không biết đã có kết quả chưa. Trực giác cho tôi biết cái chết của Cơ Vân Phù có liên quan trực tiếp đến nó.

Nhưng em họ anh ta dĩ nhiên không biết được những điều này. Tôi cũng không muốn cho chị ta biết, e lại thêm một người nữa bị liên lụy.

Tôi hỏi nếu tiện có thể tới viếng Cơ Vân Phù không, Cơ Vân Phương đồng ý.

Đặt điện thoại xuống, tôi báo tin buồn với Kido Kana, cô cũng kinh ngạc lặng đi, lắp bắp nói sao có thể, sao có thể như vậy được. Tôi lắc đầu, cả người rã rời như bị rũt cạn sức lực, ngực đau tức, thở hụt hơi. Nỗi uất ức tích tụ trong lồng ngực ngày càng nhiều, khiến tôi bật ra tiếng gào xé họng, đấm mạnh vào tường, thấy mình bất lực hơn bao giờ hết, hai hàng nước mắt nóng hổi lăn dài.

Tuy Cơ Vân Phù và tôi qua lại chưa lâu, nhưng thân thiết như người quen cũ, anh là một người anh, người bạn tốt của tôi. Không nhờ những phân tích tỉ mì tháo gỡ vấn đề và mớ tư liệu sưu tập của anh, chúng tôi chắc chắn không thế đi đến bước này. Tôi tin tưởng anh, cũng như bố tôi từng tin anh vậy. Ấy thế mà anh lại uổng mạng vì câu chuyện xa lắc xa lơ chẳng hề liên quan đến mình, điều này khiến tôi vừa phẫn nộ vừa hổ thẹn.

Tôi không cách nào thay đổi số mệnh của ông nội, cũng không thể thay đổi số mệnh của bố mình, giờ ngay cả số mệnh một người bạn, tôi cùng chỉ biết bó tay. Tôi nỗ lực nhường ấy rốt cuộc thay đổi được cái gì đây?

Tôi suy sụp ngồi bệt xuống đất, hồn xiêu phách tán. Kido Kana ra sức gọi tên, lắc tay, song tôi không còn sức trả lời nữa. Thình lình cô vung tay, tát cho tôi một cái cháy má.

“Anh tỉnh lại đi! Chúng ta phải mau mau đi tìm lão Thích!”

Bạt tai này rốt cuộc khiến tôi định thần lại. Phải! Còn lão Thích nữa! Ông ta mới là nòng cốt của việc giải mã!

Tôi đứng phắt dậy, ra sức chùi mặt, gắng lấy lại tinh thần. Kido Kana tìm mua đuợc hai chiếc xe đạp ở gần đó, hai chúng tôi đạp thẳng đến khu nhà cấp bốn của lão Thích, sắp đến nơi, thấy đằng xa là một đống đen sì, tim tôi đập loạn lên. Tới gần mới biết, cả dãy nhà đã cháy trụi.

Hỏi thăm nguời dân quanh đó, chúng tôi được biết hôm kia khu này xảy ra hỏa hoạn, lửa bùng lên từ nhà lão Thích, lan sang mấy chục hộ bên cạnh. Lúc cứu hỏa đến nơi, mấy căn phòng ở giữa đám lửa đã cháy sạch bách, lão Thích và mấy bao tải bản thảo chứng minh giả thuyết Goldback đều đã không còn.

Trước cảnh tượng ấy, nỗi căm phẫn tột cùng lại khiến tôi trở nên vô cùng bình tĩnh. Tôi bỏ xe đạp ngã chổng kềnh, ngồi xuống trước đống hoang tàn, nhìn quanh một lượt. Lão Thích chết cháy hôm kia, còn Cơ Vân Phù hôm qua mới phát bệnh mà chết. Trình tự ấy chứng tỏ kẻ đứng đằng sau trước hết thiêu chết lão Thích, sau đó phát hiện Cơ Vân Phù đã lấy được kết quả giải mã, đành phải ra tay lần nữa, giết chết anh ta, đoạt lấy hoặc tiêu hủy bản dịch bút ký của Kido Yuzo.

Nhưng Cơ Vân Phù nhạy bén nhường ấy, hẳn đã nhận ra cái chết của lão Thích rất bất thường. Hai người lần lượt qua đời, chỉ cách nhau chưa đến một ngày, trong thời gian đó, lẽ nào Cơ Vân Phù lại chịu ngồi khoanh tay chờ chết?

Tôi cho là không.

Nghĩ tới đây, tôi đứng dậy, trèo lên xe đạp bảo Kido Kana, “Anh đưa em đến chỗ Phương Chấn, ở đó an toàn hơn.”

“Còn anh?”

“Anh có vài việc phải làm.” Tôi nghiến răng.

Tôi đưa Kido Kana tới chỗ Phương Chấn, báo hai tin buồn, y liền nói công an khu vực đã vào cuộc, bản thân y cũng sẽ thử tìm thêm các tài liệu khác, sắp xếp cho Kido Kana xong xuôi, tôi lại cưỡi xe đạp đến nhà họ Cơ.

Nhà họ Cơ không nằm trong thị trấn, mà ở ngoại ô phía Bắc. Tôi đi hơn nửa tiếng theo trí nhớ, cuối cùng suôn sẻ đến nơi. Cơ Vân Phù là người nổi tiếng trong giới văn hóa địa phương nên mới qua đời chưa đầy một ngày đã có người đưa vòng hoa đến viếng, xếp thành mấy hàng trước cửa.

Tôi gõ cửa, thấy một phụ nữ trung niên đeo kính đen, trông rất giống cô giáo tiểu học nghiêm khắc bước ra, chắc là Cơ Vân Phương em họ Cơ Vân Phù. Tôi nói rõ mục đích đến thăm, muốn tham quan phòng đọc sách của Cơ Vân Phù, nào ngờ chị ta nhìn tôi đầy giễu cợt, “Hôm nay có đến mấy lượt người tới, ai cũng nói vậy, chẳng qua các vị dòm ngó bộ siêu tập của anh ấy chứ gì?”

Tôi nghiêm mặt, “Tôi và anh Phù quen biết nhau chưa đầy một tuần, nhưng như thân thiết đã lâu, nên mới tới đây tưởng niệm, chứ đâu nghĩ gì đến bộ sưu tập của anh ấy. Nếu vào trong mà tôi tùy tiện động vào đồ đạc, chị cứ việc đuổi ra.”

Thấy tôi thành khẩn, chị ta cũng hơi dịu đi, mở cửa ra. Cơ Vân Phương dẫn tôi vào phòng sách, bên trong vẫn bề bộn như vậy, sách chồng chất khắp từ sàn đến trần, máy chiếu và điện đài vô tuyến vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Chị ta vừa đi vừa nói, “Tôi chưa hề động tay vào đồ đạc của anh Phù, vẫn giữ nguyên vị trí lúc trước. Ông anh họ tôi lúc nào cũng thích quăng đồ đạc bừa bãi, chẳng thèm phân loại gì cả, sau này sắp xếp lại di vật chắc mệt lắm đây.”

Tôi tủm tỉm cười. Đồ đạc của Cơ Vân Phù không phải để bừa bãi, anh có cách sắp xếp riêng, nếu không biết thì thấy ngổn ngang hỗn loạn nhưng biết rồi sẽ thấy ngăn nắp đâu ra đấy. Tiếc rằng anh đã đi rồi, chẳng ai có thể đem lại sức sống cho kho tư liệu khổng lồ này nữa.

Mấy hôm trước, Cơ Vân Phù còn đứng đây hào hứng kể với tôi về vụ án đầu Phật, vậy mà giờ đã âm dương cách trở. Nghĩ đến đó, lòng tôi lại quặn đau.

Bàn làm việc của anh vẫn giữ nguyên hiện trạng, ngổn ngang bừa bộn. Cơ Vân Phương trỏ: “Khi người ta phát hiện, anh ấy đang nằm gục trên bàn, đã tắt hơi rồi.” Chính giữa bàn trải một tờ giấy Tuyên trắng muốt, viết mấy hàng chữ thảo, nét chữ như rồng bay phượng múa, cây bút lông vẫn gác bên cạnh. Tôi lại gần xem, nhận ra bài “Dặn con” của Lục Du. Đáng ngạc nhiên hơn là, câu đầu tiên anh lại viết thành “Vốn biết chết rồi là hết chuyện”, cạnh chữ “vốn”, người viết sơ ý làm rớt giọt mực, tạo thành một đốm tròn.

Trong mắt nguôi thường, đây chẳng qua là một bức thư pháp bút lông bình thường. Nhưng đối với tôi, nó lại mang ý nghĩa khác hẳn. Tôi và Cơ Vân Phù quen nhau trong buổi đấu giá tấm bia thời Tống, bấy giờ anh đã chỉ ra điểm khác biệt về hai chữ “vốn” và “nguyên”, đánh bại tôi. Trước lúc lâm chung anh viết bài thơ này, lại cố ý viết sai một chữ, rõ ràng là một ám hiệu chỉ tôi mới hiểu.

Xem ra trước lúc qua đời, Cơ Vân Phù còn cầm cự được một thời gian với hung thủ. Biết mình không tránh khỏi kiếp nạn, dù để lại thư trăng trối hay gợi ý gì cũng sẽ bị hung thủ phá hủy, anh đã nắm lấy những giây phút cuối để tạo ra một chiếc chìa khóa chuyên dụng, chỉ phát huy tác dụng trong mắt tôi.

Nhưng chiếc chìa khóa này rốt cuộc dùng để mở cái gì?

Tôi nhìn lại mặt bàn, thấy trên đầu bày một đĩa rửa bút hình lá sen, một nghiên mực Hấp Châu, một lò hương đồng trổ hoa, một tấm thẻ bạc, một nhẫn ngọc lục bảo đeo ngón cái chạm hình chim, mấy cuốn sách đóng chỉ của Học viện Vị Kinh, còn cả một chén sừng tê nhỏ và một cây lược vàng, tổng cộng đến mười mấy thứ linh tinh, thứ tự bày cũng rất kỳ quặc, thành một hàng ngang.

Xem ra trước và sau lúc viết bài thơ, Cơ Vân Phù đã ngắm nghía mấy món này. Ở Kỳ Sơn, Cơ Vân Phù là nhân vật lớn trong giới sưu tầm, có vài món đồ trấn trạch cũng chẳng có gì lạ. Nhưng lạ là ở điểm, lần trước tôi đến, Cơ Vân Phù từng nói trong phòng này chỉ có sách vở và tư liệu, những thứ khác đã để ở nơi khác. Tự nhiên anh lại lấy mấy món này tới đây ngắm, ắt có dụng ý.

Tôi quay lại hỏi Cơ Vân Phương: “Tôi cầm lên xem được không?”

“Anh nhớ lấy lời mình nói là được, đừng có nuốt lời.” Chị ta khinh khỉnh bĩu môi, ngỡ tôi kiếm cớ dòm ngó bộ sưu tập của ông anh họ song tôi chỉ phớt lờ, cầm cây lược vàng lên xem xét thật kỹ, thầm nhủ, liệu Cơ Vân Phù có để lại lời nhắn gì trên những món đồ chơi này không nhỉ.

Cây lược này có lẽ là món đáng giá nhất trên bàn, nhìn hình dạng hình như là vật thời Đường. Sống lược có hoa văn hình tròn, dùng tơ vàng cực mảnh uốn thành, nhị hoa khảm từng hạt châu vàng nhỏ xíu, vô cùng quý giá. Tôi lật đi lật lại ngắm nghía, chẳng thấy chữ nghĩa gì, song vô tình lại nhận ra nó là đồ giả.

Nói ra thực mỉa mai, tôi vốn không hiểu nhiều về đồ vàng bạc, sở dĩ nhận ra được là nhờ những điều được Cơ Vân Phù chỉ bảo trong lần nói chuyện trước.

Anh giải thích với tôi, hạt châu vàng trên đồ trang sức thời Đường được làm bằng cách “vê châu”, trước tiên cắt tơ vàng thành từng đoạn bằng nhau, nung nóng chảy rồi nhỏ vào ống phễu, tự nhiên sẽ có hình tròn, sau đó dùng hai tấm cứng vê đi vê lại thành từng hạt châu. Lúc hàn lại dùng vàng lỏng trộn thủy ngân gắn hạt châu vào món trang sức, nung nóng lần nữa khiến thủy ngân bốc hơi, thế là hàn dính.

Cách này rất phức tạp nên đời sau đổi sang dùng cách “chần châu”, nhỏ luôn vàng nóng chảy vào nước lạnh, dưới sự chênh lệch nhiệt độ, vàng sẽ kết lại thành từng hạt châu nhỏ. Chần châu rút gọn được một công đoạn, nhưng hạt châu lại thô hơn so với vê châu, kích thước không kiểm soát được, hơn nữa không được tròn cho lắm.

Vấn đề của cây lược này chính ở chỗ đó: hạt châu trên nhị hoa không được tròn, cái to cái nhỏ, chen chúc với nhau, trông vừa thô vụng lại vừa lộn xộn.

Tôi đoán Cơ Vân Phù cũng nhận ra đây là đồ giả, nhưng thấy hay hay nên sưu tầm. Trước cặp mắt cú vọ của Cơ Vân Phương, tôi đặt cây lược xuống, nhìn sang mấy món kia, phát hiện một nửa số đó là giả. Chén sừng tê, nhẫn ngọc, đĩa rửa bút và vài món khác là giả, còn lại là thật.

Nhưng chẳng tìm thấy dấu khắc hay ký hiệu nào.

Tôi thất vọng quay người ra về, thầm nhủ có lẽ mình đã nghĩ quá, mọi chuyện chỉ là tình cờ thôi. Thấy tôi không yêu cầu gì nữa, Cơ Vân Phương thở phào nhẹ nhõm, tiễn ra tận cửa, thái độ cũng ôn hòa hẳn. Tôi hỏi khi nào đưa tang để đến phúng viếng, chị ta đáp vẫn chưa định ngày, nhưng nhất định sẽ báo.

Đi ra lấy xe, nỗi chán chường và bi thương khiến bước chân tôi nặng như đeo đá. Tôi vịn vào ghi đông ngoái đầu, muốn ngắm nhìn lại nơi đã biến thành nhà cũ của Cơ Vân Phù, ánh mắt lướt từ bờ tường xanh đến mái hiên, từ giọt gianh đến con thú chạm trên nóc, quét qua cả cột ăng ten cao ngất nghểu…

Khoan đã, ăng ten à?

Tim tôi đập rộn lên như vừa nắm được thứ gì đó. Cơ Vân Phù là thành viên Hội chơi điện đài vô tuyến ở Bửu Kê, trong nhà có điện đài vô tuyến, nếu không có gì quan trọng thường chỉ dùng nó để giao lưu với bên ngoài.

Liệu anh có lợi dụng thiết bị ấy để lưu lại thông điệp gì không?

Tôi bỏ ngay xe đạp, chạy ngược trở vào đập cửa thình thình. Cơ Vân Phương thấy tôi quay lại thì ngạc nhiên ra mặt. Tôi nài nỉ chị ta cho vào nhà xem lần nữa, Cơ Vân Phương nhìn tôi như nhìn một người bệnh thần kinh, nhưng không cản trở.

Tôi xộc vào phòng sách, chạy đến trước điện đài vô tuyến, tìm công tắc bật, nhưng không sao bật lên được. Kiểm tra mới thấy, râu ăng ten chĩa ra ngoài đã bị bẻ gãy tự lúc nào. Cơ Vân Phương bất lực nói, dù ăng ten còn nguyên vẹn cũng không dùng được, cách đây một tuần, điện đài đã hỏng, cháy mất một cuộn dây bên trong, muốn thay cái mới phải đặt từ xưởng ở nơi khác, giờ hàng vẫn chưa gửi đến.

Tuần trước tôi còn chưa quen Cơ Vân Phù, xem ra đây cũng không phải ám hiệu anh để lại. Tôi suy sụp gục đầu xuống, tuyệt vọng như thể trông thấy đáp án bài thi ở ngay trước mặt, nhưng vò đầu bứt tai mãi không trả lời nổi.

Thấy vậy Cơ Vân Phương cũng thương tình, thở dài kể, “Ông anh tôi từ nhỏ đã thích mấy thứ kỳ quặc. Ngoài những lúc đọc sách ra, cả ngày anh ấy cứ ôm khư khư cái điện đài này, gõ tành tạch. Nếu anh thích thì cứ lấy đi, dù sao trong nhà tôi cũng chẳng ai biết dùng cả. Nó có nơi gửi gắm, chắc anh tôi ở dưới suối vàng không để bụng đâu.”

Như phần lớn mọi người, Cơ Vân Phương không hiểu nhiều về điện đài vô tuyến, cho rằng nó cũng gần giống máy điện báo trong phim chiến tranh, chỉ biết kêu tạch tạch.

Tạch tạch tạch ư?

Tạch tạch tạch!

Sao Cơ Vân Phù lại bẻ gãy râu ăng ten của chiếc điện đài đã hỏng.

“Đúng rồi! Hóa ra là thế!”

Tôi đứng phắt dậy khiến Cơ Vân Phương giật nẩy mình, hốt hoảng lùi lại mấy bước, tiện tay vơ nghiên mực trên bàn toan tự vệ. Tôi phớt lờ chị ta, quay sang hau háu nhìn kỹ mấy món lặt vặt trên bàn.

Hiểu rồi!

Vừa rồi xem một vòng, tôi thấy trong các thứ trên bàn có đồ thật, cũng có đồ giả. Vốn tưởng chỉ là tình cờ, giờ mới nghĩ ra là Cơ Vân Phù cố ý xếp đặt, thứ tự bày các món đồ thật giả hết sức quan trọng.

Từ trái sang phải, bên trái là lò hương đồng chạm hoa thời Thanh, đồ thật, chấm một chấm; bên phải nó là cây lược vàng hoa văn tròn thời Đường, đồ giả, gạch một gạch. Cứ thế mà suy, thông qua thứ tự các món đồ thật giả đặt trên bàn, thật là chấm, giả là gạch, cuối cùng tôi thu được một chuỗi mã Morse chấm gạch.

Chuyển dãy ký tự chấm gạch thành số, rồi dùng mã điện báo dịch ra, sẽ được thông tin anh muốn nói. Cách này cũng y như phương thức mã hóa mấy cuốn sổ tay.

Đa phần mọi người chỉ chú ý tới từng món riêng lẻ, chẳng ai ngờ xếp những đồ cổ này lại thành dãy, thì sự thật giả mới được thổi vào một lớp nghĩa sâu xa. Kẻ giải được mật mã này nhất định phải biết giám định đồ cổ, còn phải nắm rõ mã Morse và quy luật chuyển đổi giữa mã Morse và mã điện báo nên chỉ có thể là tôi. Tố đỉnh lục trong tay tôi được mã hóa bằng mã điện báo, tôi lại thường xuyên đọc nó, nên đã thuộc làu bảng mã.

Bài “Dặn con” nhằm nhắc nhở; râu ăng ten gãy ám chỉ việc liên quan đến mã điện báo; còn những món cổ vật có thật có giả lại ẩn giấu tin tức. Ba thứ này được bố trí đơn giản mà khéo léo, liên kết chặt chẽ với nhau, dựng nên một cánh cổng lớn chỉ tôi mới mở được, từng bước từng bước dẫn tới gần thông tin mà Cơ Vân Phù che giấu. Sắp xếp trước lúc lâm chung của anh đúng là ý tưởng của một thiên tài.

Để chắc chắn, tôi lại kiểm tra một lượt những món đồ cổ trên bàn, còn kỹ hơn lần trước. Chỉ cần nhìn lầm thật giả một lần, có thể sẽ không giải mã được tin tức nữa. Chẳng mấy chốc, tôi đã quy đổi xong.

Mẩu tin rất ngắn gọn: Giá hai hàng hai.

Cách tốt nhất để giấu một chiếc lá là đặt nó trong rừng. Phòng sách này của Cơ Vân Phù là nơi tốt nhất để giấu tài liệu, ném bừa đâu đó cũng khó mà tìm ra được. Có lẽ hung thủ cảm thấy Cơ Vân Phù chết đi rồi, hắn tìm không thấy thì người khác cũng đừng hòng thấy được nên mới yên tâm bỏ đi.

Tôi nhìn quanh phòng, nhận ra các giá sách gỗ được chia thành sáu giá lớn, chạy dài từ sàn lên đến trần nhà. Trên mỗi giá viết một chữ, lần lượt là: Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số, sáu nghệ của nhà Nho. Vậy giá hai hẳn là giá chữ Nhạc.

Tôi đi đến trước giá chữ Nhạc, ngẩng lên thấy hàng hai ở tít trên cao gần chạm đến trần nhà, bèn tìm một chiếc ghế leo lên. Thấy tôi tự tiện, Cơ Vân Phương líu cả lưỡi, nhất thời quên bẵng ngăn cản. Hàng thứ hai của giá chữ Nhạc dài hơn hai mét, xếp mấy chục cuốn sách cao có thấp có, xen lẫn các mẩu cắt từ báo, tài liệu, ảnh và hóa đơn, nhìn rất lộn xộn.

Mật mã tạo thành từ những món đồ cổ thật giả dung lượng có hạn, Cơ Vân Phù không nhét thêm được thông tin vào nữa, tôi đành phải kiểm tra lần lượt từng cuốn. Cơ Vân Phương bên dưới ngửa cổ gắt, “Anh không xuống thì tôi không nể nang nữa đâu đấy.”

Sốt ruột quá, tôi rút chứng minh thư và ví tiền trong túi ra ném xuống, “Tôi tên Hứa Nguyện, không phải người xấu đâu, chứng minh thư của tôi đây, tiền cũng ở trong đó cả đấy.” Thấy chị ta nhặt chứng minh thư lên xem, tôi lật đật bổ sung, “Lúc còn sống thầy Phù có một tài liệu, bảo là giao cho tôi, tôi phải tìm cho ra.”

Cơ Vân Phương lạnh lùng, “Lời nói gió bay lấy gì làm bằng chứng, tôi dựa vào đâu mà đi tin một người mới quen anh ấy chưa được một tuần chứ?”

“Tình cảm không thể suy xét theo thời gian quen biết vắn dài được, tuy tôi và thầy Phù biết nhau chưa lâu, nhưng không khác nào cố nhân.”

Tôi vừa cố gắng câu giờ vừa lật tìm thật nhanh, hy vọng có thể tranh thủ thêm chút thời gian. Cơ Vân Phương đứng dưới nửa tin nửa ngờ, nằng nặc đòi tôi xuống nói rõ đầu đuôi đã. Tôi biết chị ta bắt đầu nghi ngờ, tụt xuống chưa chắc đã leo lên được nữa, nên cứ lờ đi, tiếp tục tìm.

Mãi đến khi chị ta sắp nổi trận lôi đình, tay tôi mới khựng lại, rút từ một cuốn sách ra xấp bản thảo. Chất giấy này tôi rất quen, giống hệt loại giấy lão Thích dùng. Tôi đang định mở ra xem thì Cơ Vân Phương đã đạp đổ ghế, làm tôi ngã nhào xuống đất.

Chị ta cúi xuống nhặt tập bản thảo lên, “Xéo đi.” Mặt Cơ Vân Phương sa sầm, hẳn đang điên tiết vì thái độ tự tiện của tôi. Tôi vã mồ hôi vì căng thẳng, vội nhao ra giật lại, nào ngờ Cơ Vân Phương cười nhạt lùi lại, cầm bật lửa lên định đốt, “Di vật của anh họ tôi, đừng ai hòng chiếm đoạt được.”

Đây là manh mối duy nhất, nếu bị thiêu hủy thì cái chết của Cơ Vân Phù và lão Thích chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tôi nài nỉ: “Tôi không định chiếm đoạt… chỉ muốn xem thôi, xem xong sẽ trả về chỗ cũ. Chuyện này liên quan đến chân tướng cái chết của anh họ chị, không thể đốt được.”

“Anh tôi chết hoàn toàn tự nhiên, có gì đáng nghi hả?” Cơ Vân Phương không mảy may dao động.

Tôi không có thời gian giải thích lằng nhằng, đành nói to, “Cái chết của anh Phù liên quan trực tiếp đến tập bản thảo này đấy.” Nghe tôi nói vậy, Cơ Vân Phương nghi hoặc mở ra đọc lướt qua, nét mặt chị ta bỗng trở nên vô cùng kỳ lạ.

“Vừa rồi anh bảo mình tên Hứa Nguyện à?”

“Chị xem cả chứng minh thư rồi còn gì.”

Thật không ngờ, chị ta bỗng đưa cả xấp bản thảo cho tôi, “Được rồi, anh cầm đi đi.”

Cơ Vân Phương đột ngột thay đổi chủ ý khiến tôi hơi bối rối. Chị ta lạnh nhạt nói, “Mấy câu vớ vẩn của anh, tôi chẳng tin đâu. Sở dĩ tôi để anh đi, là vì lời trăng trối của anh tôi thôi.”

Tôi sững người, “Trăng trối gì cơ?”

Chị ta trỏ xấp bản thảo, tôi vội mở ra xem, thấy bên trong chi chít chữ Hán, phía trên cùng có một dòng viết bằng bút chì: “Giao cho Hứa Nguyện, để tham khảo cùng với Cảnh Đức Truyền Đăng lục*.”

Còn được gọi tắt là Truyền Đăng lục, là tác phẩm lịch sử cổ nhất của Thiền tông Trung Quốc, được một vị thiền sư thuộc tông Pháp Nhãn là Đạo Nguyên, môn đệ của Quốc sư Thiên Thai Đức Thiều, biên soạn vào năm Cảnh Đức thứ nhất, đời Tống Nhân Tông (1004). Sách này sưu tập ghi chép về hành trạng, cơ duyên v.v. của 1701 vị, bắt đầu từ Phật đời quá khứ đến các vị Tổ thuộc đời thứ 51 của Ngũ gia tông phái, về pháp hệ truyền thừa giữa thầy và trò nối nhau không dứt giống như lửa của ngọn đèn có năng lực phá trừ tối tăm được thắp nối liên tục nên gọi là Truyền Đăng.

Bước ra khỏi nhà Cơ Vân Phù, trời đã sập tối. Tôi thở hắt ra, vô thức xoa tập bản thảo nhét trong ngực, leo lên xe đạp phi về thị trấn.

Nông thôn vẫn giữ nếp mặt trời lặn thì nghỉ ngơi, đường cái ở đây không có đèn đường, lại hẻo lánh, nên sau khi trời tối, gần như chẳng còn ai đi lại, ngoài tôi. Nghĩ tới việc nội dung sổ tay Kido Yuzo sắp được hé lộ, tim tôi lại đập rộn lên, guồng chân đạp xe vun vút, chỉ hận không thể một bước đến ngay thị trấn.

Đi được chừng mười mấy phút, trời càng tối hơn, đồi núi và ruộng nương chạy dài hai bên đường. Chợt tôi nghe phía sau có tiếng rì rì, quay đầu lại nhìn mới thấy đằng xa có hai luồng sáng đang từ từ tiến đến gần, có lẽ là xe hơi nhưng không trông rõ được. Tôi liền quành xe, tấp vào bên đường. Giữa đêm chạy xe rất nguy hiểm, tài xế có lúc không để ý thấy người đi đằng trước, xe tôi lại không có đèn hậu, lỡ bị tông vào đuôi thì phiền.

Cỗ xe hơi kia chạy rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp tôi, ngọn đèn pha rọi sáng lóa cả con đường đằng trước. Tôi nheo mắt đi chậm lại, nhìn hình dáng thì đây là một chiếc Mercedes B2. Cán bộ bình thường không được ngồi xe này, đây chắc phải là lãnh đạo cấp cao nào đó đi công tác. Tôi thầm nghĩ, rồi lại dạt sát vào lề hơn.

Đột nhiên tôi sực nhận ra mình đã sắp chệch khỏi mặt đường mà vẫn bị hai luồng sáng kia rọi thẳng, chứng tỏ đầu xe Mercedes vẫn nhằm vào tôi, nó đang chạy về phía tôi. Đúng lúc ấy, cỗ xe phía sau gầm lên, tài xế đạp mạnh chân ga, đ