Chương 6 HI VỌNG VÀ DỮ LIỆU KHÔNG THỂ BÁC BỎ
Pe-ke, pe-ke, pe-ke, pe-ke. Chiếc xuồng máy phát ra tiếng động cơ nhịp nhàng khi ngược dòng Pachitea. Thuyền trưởng của chúng tôi, một ông già Amazon nhỏ nhắn, ngồi ở phía đuôi và giữ máy. Khi ông tự giới thiệu với chúng tôi lúc còn ở Honoria, dì Guida và tôi không dám tin vào tai mình.
“Francisco Pizarro *? Giống như kẻ chinh phục?” tôi hỏi.
* Francisco Pizarro González, (sinh 1475, mất ngày 26 tháng 6 năm 1541) là một nhà thám hiểm và chinh phục thực dân Tây Ban Nha xâm chiếm Trung và Nam Mỹ. Ông là người đã chinh phục đế chế Inca và sáng lập ra thành phố Lima, mệnh danh là La Ciudad de los Reyes (thành phố của vua) (theo Wikipedia).
“Đúng vậy,” ông đáp lại tự hào.
Chúng tôi chạy khoảng nửa giờ dọc theo đường thủy cao tốc xuyên qua rừng rậm. Những vách đá xám xịt, dựng đứng cao 15 bộ * tiếp giáp hai bên bờ sông. Rừng xanh rậm rịt vươn ra từ đỉnh vách đá.
* 4,57 mét.
Cây quá cao và rừng quá rậm nên thật khó để phân biệt được địa hình trên sườn núi. Ở nhiều nơi, các ngôi nhà tranh nằm trên các bãi cỏ xanh tươi điểm xuyết bởi những cây lớn và bầy gia súc đang gặm cỏ. Những mảnh ghép đã được thuần hóa của khu rừng để lộ ra các ngọn đồi và khe núi.
“Thật đáng kinh ngạc phải không?” dì Guida nói, tươi cười. “Dì yêu rừng.”
“Đẹp quá.” Tôi gật đầu. “Nhưng con rất nóng lòng nhìn thấy con sông nhiệt này. Thực sự con rất khó tập trung vào những thứ khác.”
Dì Guida cười phá lên: “Hãy cố gắng tận hưởng giây phút hiện tại nhiều hơn một chút,” dì nói. “Dòng sông sẽ tới sớm thôi.”
Chúng tôi nghe thấy một tiếng hét từ phía trước pekepeke, nơi người hướng dẫn thứ hai của chúng tôi, Brunswick, đang đứng. Anh chỉ chớm 30 tuổi và là học trò của Đại sư. “Nhìn ở đằng kìa!” anh nói, chỉ về phía trước khoảng 30 bộ *. “Đó là Cửa Sông Sôi, nơi nước nóng và nước lạnh gặp nhau.”
* 9,14 mét.
Cuối cùng, dòng sông đây rồi! Tôi đưa mắt lướt nhìn cảnh vật. Nhánh sông bên phải, rộng hơn con đường hai làn, đang đổ ra một dòng chảy đáng kể vào Pachitea. Nơi hai dòng nước gặp nhau, một luồng nước màu ô liu uốn cong hòa vào vùng nước màu nâu sô-cô-la của dòng Pachitea. Nhưng tôi thậm chí không nhìn thấy làn hơi nước mỏng nhất.
Mũi tàu đi vào vùng nước và Brunswick nhúng tay xuống làn nước xanh, ra hiệu cho tôi cũng làm như vậy.
Tôi nhúng tay xuống làn nước nâu lạnh của Pachitea. Khoảnh khắc chúng tôi lướt vào luồng nước xanh, nước trở nên ấm áp. Nó càng ngày càng ấm hơn khi chúng tôi tới gần sông nhánh, cuối cùng chúng tôi cũng vào tới cửa sông. Ở đây, nước ấm hơn đáng kể, giống như bồn nước nóng vậy, nhưng không có chỗ nào nước gần sôi cả.
Tôi không nên thất vọng, nhưng sự phấn khích của tôi đã thắng thế. “Dòng Sông Ấm này của Amazon” không phải thứ trong những giấc mơ của tôi. “Sông Sôi” không xứng với tên gọi của nó. Tôi bật ra một tiếng thở dài.
Được rồi, không suy đoán thêm, không mong đợi thêm nữa. Tôi cần tới Mayantuyacu để nghe dòng sông kể câu chuyện của chính nó. Phải tập trung vào dữ liệu thật có thể định lượng được, chứ không phải tin đồn.
Thành thạo điều khiển pekepeke, Francisco lái thuyền vào bờ, nơi những dấu chân in hằn trên bùn đỏ của vách đá báo hiệu hướng dẫn tới chặng tiếp theo của cuộc hành trình.
Tôi bật máy theo dõi đường đi trên thiết bị GPS của mình rồi thả nó vào ba lô.
Lên bờ, chúng tôi trèo lên đỉnh dốc bờ sông, từ đó chúng tôi nhìn thấy một lối mòn hẹp, lầy lội dẫn vào rừng. Francisco trở lại Honoria, còn Brunswick dẫn chúng tôi đi tiếp.
Con đường mòn đã có khá nhiều người qua lại nhưng gập gềnh. Những cây đại thụ với bộ rễ trụ chống bệ vệ che ánh mặt trời nóng bỏng cho chúng tôi. Dây leo xoắn vào nhau thành những hình thù và kết cấu kỳ lạ uốn khúc qua các tán lá. Những bông hoa sắc màu như ánh điện treo trên đầu chúng tôi, tinh tế và kì diệu đến mức tôi khó có thể tin rằng chúng là tự nhiên. Chúng tôi lặn lội hết lên lại xuống trên địa hình nhấp nhô, những động vật ẩn trốn đâu đó dạo lên khúc nhạc chiều. Cả phi đội muỗi đuổi theo chúng tôi. Các phương thức chống côn trùng được chúng tôi thoải mái sử dụng đã tạo nên một tấm chắn, bọn muỗi chỉ bay lượn bên ngoài mà không động vào được chúng tôi.
Đi tới cuối một khoảng trống rộng, gần đỉnh ngọn núi cao, tôi thấy một con đường đất sạt lở nặng. Tôi hỏi Brunswick về nó. “Nhiều năm trước, những kẻ đốn gỗ đã tới đây mang theo những chiếc máy kéo và đốn hạ những cây to”, anh trả lời buồn bã. “Những kẻ đó đã bị đuổi đi, nhưng khoảng trống vẫn còn đây.”
Dì Guida nói giọng đau đớn. “Nhiều năm trước, dì làm công tác xã hội với một nhóm người bản địa trong các khu rừng xa về phía Nam. Dì ở một ngôi làng bên một dòng sông lớn và dù khu vực đã được coi là bảo hộ, những người dân địa phương vẫn gặp rắc rối với những tên trộm gỗ bất hợp pháp. Một đêm, dì không ngủ được nên đã tản bộ ra sông. Khi xuống tới bờ sông, dì nghe thấy những tiếng động lạ. Trăng tròn giúp dì nhìn rất rõ, dù phần nào đó, dì ước giá như mình đã không nhìn thấy. Từ đầu này đến đầu kia, như dì có thể nhìn thấy xa nhất ở thượng nguồn và hạ nguồn, dòng sông tràn ngập những cây lupuna khổng lồ. Những người đàn ông với những cây sào dài, đi tới đi lui trên những khúc gỗ nổi khổng lồ, đưa chúng xuống hạ nguồn. Thật dễ hiểu tại sao họ lại chuyển gỗ trong đêm.
“Mỗi cái cây đó dễ đến hàng trăm tuổi. Đây chính xác là điều dì đã giúp đỡ cộng đồng chống lại. Dì cảm thấy thật bất lực, dì khụy xuống và khóc.
Ngày hôm sau, dì kể lại những điều mình đã thấy. Dân làng đã quá quen thuộc với cảnh tượng này. Họ mô tả những kẻ trộm gỗ xuất hiện như thế nào, đốn hạ những cây gỗ lớn ra sao, sau đó chuồn đi, đốt trụi những vạt cỏ tạo thành các con đường để lăn hoặc kéo các thân cây tới khúc sông gần nhất, sử dụng các máy kéo giống như bọn chúng đã để lại con đường mòn chúng ta mới thấy.”
Cơn giận trào lên trong tôi. “Thật khủng khiếp”, tôi lầm bầm.
“Nhưng đây mới là điều đau đớn nhất,” dì Guida tiếp tục. “Chúng ta phát hiện ra hầu hết những cây cổ thụ đó được sử dụng để làm gỗ dán. Gỗ dán! Lupuna được biết đến là Quý bà của Rừng Già. Thân cây có thể rộng đến hơn ba thước.”
Chúng cũng được coi là nơi trú ẩn của những linh hồn hùng mạnh và trong một số bộ lạc, việc đại, tiểu tiện ở gần một cây lupuna cũng bị coi là tội lỗi tày đình. Vậy mà chúng bị đưa ra làm gỗ dán.”
Một sự im lặng chán nản bao trùm lấy cả nhóm khi chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình xuyên rừng. Những ý nghĩ của tôi trở lại với Sông Sôi. Nếu những miêu tả về dòng sông là thật và không đơn thuần là một sự cường điệu, có thể có ba cách giải thích: đó là một hệ thống núi lửa/mắc-ma, hoặc là một hệ thống thủy nhiệt không bao gồm núi lửa, nơi nước địa nhiệt từ sâu trong lòng đất chảy tới bề mặt trái đất, hoặc do con người tạo ra.
Khả năng cuối cùng khiến tôi bối rối. Nếu Sông Sôi chỉ là kết quả của một tai nạn mỏ dầu – một mỏ dầu bị bỏ hoang không đúng cách, kỹ thuật thủy lực cắt phá bị làm sai hay nước thải từ giếng dầu bị đưa vào Trái đất sai cách thì sao? Tôi biết nhiều trường hợp, ở Peru và nước ngoài, các tai nạn mỏ dầu đã gây ra các đặc tính địa nhiệt – và tai nạn tai tiếng nhất là núi lửa bùn Lusi ở Đông Java, khiến hơn ba vạn người phải sơ tán. Những tai nạn với quy mô này nhanh có mức độ quan trọng đáng kể về chính trị và tài chính và kết quả là “nguyên nhân thật sự” của Lusi vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Ở sa mạc Talara, tôi vừa tới thăm hai điểm tham quan du lịch với nguồn gốc đáng kinh ngạc. Địa điểm đó vốn là hai giếng dầu cũ – những giếng dầu chỉ tạo ra nước muối ấm – bị các công ty dầu mỏ bịt kín và đóng cửa đúng cách. Sau đó, người dân địa phương nhìn thấy tiềm năng từ các hồ nước ấm và đã buộc các công ty phải để các giếng dầu mở cửa. Các công ty dầu mỏ nhượng bộ và những giếng này đã chuyển thành hồ tắm. Giờ đây, các du khách tin tưởng bỏ tiền ra để được thư giãn trong “vùng nước nhiệt chữa bệnh tự nhiên” và thoa bùn nhiệt “trẻ hóa” khắp mặt.
Tôi bật ra tiếng thở dài khi nhận ra khả năng khủng khiếp này có thể là lời giải thích phù hợp nhất. Chúng tôi đang ở gần mỏ dầu cổ nhất của rừng Amazon trên địa phận Peru – đó là vùng được nghiên cứu kỹ càng và một dòng sông nhiệt rộng lớn thực sự không dễ bị bỏ sót. Hơn nữa, một dòng sông không xuất hiện trên bản đồ đặc tính địa nhiệt của Chính phủ Peru – dù báo cáo năm 1965 đó có nhắc đến một “dòng suối nhỏ, ấm” ở đâu đó trong khu vực này nói chung…
Có lẽ con sông từng là một dòng suối ấm nhỏ đã vô tình trở thành một dòng sông sôi. Có lẽ, các truyền thuyết sau này mới xuất hiện – tôi đã thấy nó xảy ra ở các vùng khác của Peru. Có lẽ tôi đang bước vào một nơi che giấu mỏ dầu. Xét cho cùng, các tai nạn rất nguy hại cho kinh doanh và các công ty xì tiền cho các cơ quan chính phủ để phớt lờ đi những “vụ bất tiện nho nhỏ” hầu như chưa được biết đến ấy.
Thất vọng, tôi lắc đầu cố tĩnh tâm lại. Mình quá mệt với tất cả những thứ không chắc chắn này, tôi nghĩ. Cho đến khi mình nhìn thấy dữ liệu thật sự, mình chẳng biết gì cả. Mình cần một vị trí GPS chắc chắn để xác định chính xác dòng sông gần mỏ dầu gần nhất đến mức độ nào. Mình cần dữ liệu nhiệt độ chính xác để xác định xem các mô tả này đã phóng đại ra sao. Quan trọng nhất, mình cần tìm ra nghiên cứu Moran năm 1933 ngu ngốc ấy – đó là nghiên cứu duy nhất được thực hiện trước khi vùng này phát triển và là nghiên cứu duy nhất có thể nhắc tới dòng sông.
Tôi chuẩn bị tinh thần để chấp nhận bất kỳ kết quả nào mình có thể tìm ra. Khoa học không phải là những câu chuyện chúng ta muốn nghe – nó là câu chuyện dữ liệu kể lại.
Ngay sau đó, Brunswick dừng lại và chỉ vào một ống kim loại dày, bị chôn vùi một phần, chạy cắt qua đường mòn. “Trước kia, đường ống dẫn dầu này chạy từ mỏ dầu tới Pucallpa,” anh nói. “Mấy năm trước họ ngừng sử dụng nó và giờ thì phần lớn đã bị lấy cắp. Nó đánh dấu ranh giới vùng đất của chúng tôi – từ đây tới dòng sông, chúng ta đang ở Mayantuyacu.”
Một tấm biển gỗ sơn lớn ghi: MAYANTUYACU – VÙNG CẤM.
“Vùng cấm?” tôi quay lại hỏi Brunswick. “Cấm đối với ai?”
“Những tên trộm gỗ, thợ săn, bọn chiếm đất. Chúng tôi đang cố gắng làm những điều tốt đẹp ở Mayantuyacu – chữa lành con người và trao cho họ những phương thuốc tự nhiên truyền thống. Chúng tôi có được tri thức từ các loài thực vật và ông bà mình.” Anh ngừng lại, ngước nhìn một cây cao lớn.
Brunswick nhẹ nhàng đặt tay lên thân cây. “Linh hồn sẽ bỏ đi khi đất đai bị hoang hóa.”
Chỉ về phía tấm biển, anh nói thêm: “Mayantu biểu trưng cho linh hồn của rừng và Yacu biểu trưng cho linh hồn của nước. Ở đây, chúng tôi chữa lành bằng cách kết hợp cả hai linh hồn này.”
Với giọng kính trọng sâu sắc, anh khơi dậy mối đồng cảm trong tôi. Tôi quyết định sẽ giữ kín các giả thuyết của mình về dòng sông – thậm chí, nỗi hoài nghi khoa học lành mạnh về dòng sông cũng có thể bị hiểu sai là sự thiếu tôn kính.
Đi đến đỉnh núi lớn thứ hai được bao quanh bởi những thân cây cổ thụ cao lớn, canh giữ khu rừng xung quanh, chúng tôi nghỉ ngơi một lúc. Dì Guida và tôi thở hổn hển. Chuyến đi hai tiếng trong cái nóng kinh người đã vắt kiệt sức lực của chúng tôi.
“Gần đến rồi,” Brunswick cam đoan.
Khi cơn thở dốc giảm dần, tôi nghe thấy cái gì đó ở phía xa. “Tiếng gì vậy?” tôi nói. “Nó giống như một con sóng nhè nhẹ.”
Brunswick nhướng mắt lên với tôi và cười: “Dòng sông.”