Chương 8 NGÀI PHÁP SƯ
Trăng bán nguyệt bao bọc rừng già trong ánh sáng dịu dàng và dòng sông gầm lên bài hát ru của mình khi màn hơi nước bốc lên từ mặt sông. Lũ côn trùng đói khát lảng vảng ngoài màn chống muỗi của tôi. Bóng tối che giấu những phiền muộn của thế giới, để lại tôi một mình với bộn bề suy nghĩ.
Tôi nhớ Sofía và thích thú tìm cách kể cho cô ấy nghe về ngày hôm nay. Tôi có bao nhiêu chuyện, những trải nghiệm và mô tả – nhưng thậm chí sau đó, tôi vẫn phải tóm tắt những chi tiết quý giá của cuộc hành trình. Không có câu chuyện nào, không có nghiên cứu khoa học nào, không tấm hình hay video nào có thể mô tả chính xác nơi này. Có thể đó là lý do họ nói nó linh thiêng.
Sáng sớm nay, Brunswick đã dẫn chúng tôi lên thượng nguồn khoảng một dặm*, đi sâu vào rừng. Mọi loài thực vật chúng tôi đi qua đều có giá trị chữa bệnh và mọi đặc tính dọc theo dòng sông đều ẩn chứa một linh hồn khác nhau. Chúng tôi nhìn thấy những hồ nước lớn, trong đó có một hồ có thác nước hùng vĩ cao khoảng hai mươi bộ* – tất cả đều là nước nóng nguy hiểm.
* 1,61 kilomet.
* 6,1 mét.
Brunswick cho phép tôi thu thập các mẫu nước, với điều kiện tôi phải hỏi lại Đại sư khi chúng tôi tới Pucallpa. Anh thích thú xem tôi cẩn thận đổ đầy từng chai nước nóng bỏng và ghi lại chi tiết mỗi địa điểm.
Dù đo được nhiệt độ nước lên đến 91°C (196°F) nhưng tôi lại khám phá ra khởi nguồn của con sông là một dòng suối lạnh. Dọc theo dòng chảy, nó được tăng nhiệt tại ba vùng tiếp nhiệt chính. Kiểu gia nhiệt này khiến tôi hi vọng rằng rốt cuộc, dòng sông có thể là tự nhiên – nếu dòng nước chảy từ một giếng dầu bỏ hoang, nó chỉ có thể được làm nóng tại một điểm. Nhưng vẫn có khả năng nước từ giếng dầu quay lại Trái đất, được gia nhiệt và chảy tới bề mặt qua những vùng đứt gẫy tự nhiên. Tôi cần thêm dữ liệu trước khi có thể chứng minh bất cứ điều gì.
Phía thượng lưu, chỉ ngay trước vùng tiếp nhiệt đầu tiên, một tảng đá sa thạch lớn trông giống đầu một con rắn nhô lên từ rừng rậm. Brunswick xác định nó là nơi linh thiêng nhất trên dòng sông, nhà của Yacumam hay “Mẹ Nước” – một linh hồn rắn khổng lồ sinh ra nước nóng và nước lạnh. Dưới “hàm” con rắn đá vĩ đại ấy, một suối nước nóng hòa trộn với suối nước lạnh, biến huyền thoại thành sự thật.
Brunswick nói dòng sông đã tồn tại từ trước thời của ông cha và đại diện cho cả sự sống cũng như cái chết. Tại đây, cái chết ở khắp mọi nơi, khi mới đi bộ, tôi đã nhìn thấy một con ếch bất hạnh rơi xuống sông và bị luộc sống. Dòng sông tự trang trí cho mình bằng những bộ xương của những kẻ không giữ được khoảng cách tôn trọng với nó.
Nhưng bất chấp dòng nước nóng bỏng, sự sống vẫn tràn đầy. Thực vật đâm chồi từ từng mẩu đất và nhìn đâu cũng thấy thứ gì đó đang trườn bò, vẫy gọi. Tôi sửng sốt khi thấy rong biển mọc dưới sông dù ngay gần dòng nước nóng.
Trong lúc tôi lấy các mẫu nước, Brunswick kể cho tôi nghe về những bệnh nhân tới đây chữa bệnh. Sự thu nạp hoàn toàn bằng cách truyền miệng – cách duy nhất để được nhận vào là một “người bạn của Mayantuyacu” giới thiệu, như dì Guida đã làm với tôi. Dù vậy, hầu hết bệnh nhân đều là người nước ngoài, chủ yếu là người châu Âu và Bắc Mỹ. Brunswick cũng nói các nhà nhân chủng học và tâm lý học đã tới nghiên cứu về các vị thuốc tự nhiên và phương pháp chữa lành truyền thống của Mayantuyacu. Tôi nghĩ, không phải lần đầu tiên, rằng đây là nơi chưa được biết tới nổi tiếng nhất thế giới.
Nhưng Brunswick nói với tôi rằng chưa có ai tới đây để nghiên cứu dòng sông cả. Trong quá khứ, người ta cho rằng hơi nóng là do linh hồn của Yacumama tạo ra. Giờ đây, người dân địa phương cũng như người nước ngoài chỉ đinh ninh rằng hơi nóng là từ một núi lửa.
Buổi sáng, ánh nắng mặt trời rọi qua cửa sổ và các lỗ hổng trong căn lều gỗ. Tôi thức dậy và nhận ra những âm thanh hài hòa của rừng. Tôi tỉ mỉ gói ghém dụng cụ và các mẫu nước quý giá cho hành trình dài trở lại Lima.
Đi về phía bếp, tôi gặp Brunswick và hỏi anh tôi có thể uống trà ở đâu. Anh đưa cho tôi cái tách cùng một túi trà và chỉ xuống dòng sông. Tôi cười lớn nhưng anh chỉ vào tách trà đang bốc hơi nghi ngút của anh. Anh rất nghiêm túc! Đi xuống sông, tôi nghĩ đến các kim loại nặng và những thứ khó chịu khác, chất hữu cơ và vô cơ, thường được tìm thấy trong nước địa nhiệt. Tuy nhiên, nhập gia tùy tục...
Tôi nhúng cốc xuống sông rồi nhấc lên. Hơi nóng tỏa ra từ cốc nước mơn trớn mặt tôi khi tôi nhòm sát xuống thấy nước trong, không mùi vị. Khi nó nguội, tôi nhấp ngụm đầu tiên. Nước sạch và có vị dễ chịu. Tôi uống cốc trà được pha bằng nước sông, nói lời chia tay trước khi chúng tôi quay lại hành trình ngày hôm qua để trở lại thành phố.
Quay lại Pucallpa, dì Guida và tôi thấy mình đứng trước cánh cửa màu xanh lá cây quen thuộc. Tôi cảm thấy một sự phấn khích dâng trào mạnh mẽ khi biết rằng Đại sư Juan chỉ ở ngay phía bên kia cánh cửa. Ông ấy sẽ nói gì với tôi?
Dì Guida gõ cửa và ngay sau đó cánh cửa mở ra. Một người phụ nữ Amazon mập mạp đứng trước mặt chúng tôi.
“Sandra”, dì Guida kêu lên. Những người bạn cũ ôm chầm lấy nhau và dì Guida giới thiệu tôi. “Chúng ta đã nghe nhiều về con,” Sandra nói, đưa tôi vào trong. “Không phải ngày nào con cũng gặp được ai đó quan tâm tới núi lửa và các dòng sông nước nóng đâu. Nó hơi lạ đấy. Vui là con đã không bị ngã xuống sông.” Đặt bàn tay lên cánh tay tôi, bà nói: “Chúng ta biết Guida sẽ chỉ đưa những người tốt tới đây. Xin mời vào.” Bà dẫn chúng tôi vào một văn phòng được trang trí, nơi mà hôm qua cuộc hành trình của chúng tôi đã bắt đầu.
Một người đàn ông đang ngồi ghế đứng dậy. Ông khoảng 60 tuổi, mặc áo thun Nike, quần sooc dài màu nâu, tất dài ngang bắp chân và đi chân trần. Dù đang ở cách xa Mayantuyacu, tôi vẫn cảm thấy sự hiện diện của rừng trong căn phòng. Da ông màu sô-cô-la của sông Pachitea, mái tóc ngắn và đôi mắt sắc lẹm cũng đen như đêm rừng.
Đại sư Juan bắt tay tôi. Chúng tôi ngồi xuống ghế. Dì Guida và Sandra trò chuyện trong khi tôi ngồi im lặng khó chịu. Đại sư vẫn bất động như một tảng đá, nhưng rõ ràng ông đang nắm bắt tường tận mọi chi tiết và tôi có thể chắc chắn rằng mình đang bị ông quan sát.
“Andrés, con nghĩ sao về Mayantuyacu?” Sandra hỏi tôi. Tôi nhận thấy ánh mắt sắc sảo của Đại sư đang nhìn mình chằm chằm.
“Tuyệt vời”, tôi thốt lên. “Dòng sông là một kỳ quan thật sự – của Peru và của thế giới.”
“Một kỳ quan?” Đại sư phá vỡ sự im lặng, nhìn vào mắt tôi. “Và cái gì tạo nên một kỳ quan?” ông hỏi bằng một giọng thổ, trầm và hơi ngả người về phía trước.
“Đó là một câu hỏi hay,” tôi căng thẳng nói. Rồi chỉ những hình ảnh trên tường, tôi nói: “Mọi người hãy nhìn kia ạ – “Những kỳ quan của Peru”. Chúng đều là những nơi đặc biệt. Con đã rất may mắn được đến nhiều nơi trong số đó và Marcahuasi chính là nơi con biết rõ nhất – con tới đó lần đầu tiên lúc 12 tuổi.”
Ông nheo mắt: “Đó là một nơi rất xa đối với một cậu bé 12 tuổi.”
“Nó quan trọng với gia đình con,” tôi đáp. “Tiến sĩ Daniel Ruzo.”
“Vâng! Sao ngài biết?”
“Ta đã từng tới Marcahuasi một vài ngày để nghiên cứu – để học từ người chết,” ông trang trọng nói. “Người dân Marcahuasi rất kính trọng Tiến sĩ Daniel Ruzo.”
“Đó là ông cố của con,” tôi nói. “Ông cố mất khi con còn rất nhỏ nên con không thực sự biết ông. Nhưng ông cố yêu Marcahuasi và con có cảm giác được gần gũi với ông ở đó.”
Ánh mắt Đại sư dịu lại. “Điều quan trọng là kết nối với tổ tiên.”
Tôi gật đầu đồng ý. “Gần đây, con cảm thấy rất gắn bó với ông cố khi bà cố đưa cho con một số vật dụng cũ của ông.” Tôi ngừng lại, mỉm cười nhớ về ký ức. “Hôm đó có một chuyện rất buồn cười. Khi biết con đã trở thành một nhà địa chất, bà cố đã phá lên cười và nói:
“Không có ai mà ông cố con lại ghét hơn những nhà địa chất.” Sau đó, bà ngửa mặt nhìn trời và thốt lên: “Thấy không, Daniel? Nghiệp chướng đấy!”
“Sao lại là nghiệp chướng?” Đại sư hỏi.
“Vâng, ông cố con có quan điểm riêng về những gì được khắc lên tảng đá nguyên khối Marcahuasi. Các nhà địa chất học không đồng ý với ông và nói một cách nhẹ nhàng thì chuyện đó khiến ông cố rất giận.”
Đại sư cười toe toét. “Vậy con tôn vinh ai – ông cố của con hay bạn bè của ông?”
“Con không nghĩ đến việc tôn vinh ai cả,” tôi đáp. “Mà vấn đề là tôn vinh Marcahuasi. Thiên nhiên sẽ kể câu chuyện của chính nó. Đôi khi chúng ta hiểu sai – nhưng có một sự khác biệt giữa việc cởi mở với bất kỳ kết quả nào và việc chỉ kiếm tìm kết quả bạn muốn. Con nói điều này một cách kính trọng, nhưng ông cố của con không phải là một nhà khoa học và trong các tác phẩm của mình, dường như ông quan tâm tới việc chứng minh quan điểm của ông hơn là lắng nghe thiên nhiên.”
Đại sư mỉm cười: “Cây cỏ dạy chúng ta cách chữa lành cho mọi người. Chúng ta phải lắng nghe chúng để làm ra các vị thuốc. Con có thể làm tổn thương người khác nếu không biết lắng nghe.” Ông tạm ngừng lại lần nữa: “Tại sao con lại học địa chất?”
“Dạ, con thích được ở ngoài trời,” tôi mỉm cười nói. “Nhưng thực ra, con cảm thấy địa chất cho mình cơ hội tốt nhất để cứu thế giới, bởi con dùng nó để cố gắng tìm ra các cách tạo ra năng lượng và tài nguyên tốt hơn.”
“Con may mắn gọi ba đất nước là nhà: Peru, Nicaragua và Mỹ. Ba nơi khác nhau nhưng đều có những nhu cầu tương tự, như nước và không khí sạch, ổn định kinh tế, xã hội lành mạnh – tất cả được gắn kết, trực tiếp hoặc gián tiếp, với việc chúng ta sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên như thế nào. Vì vậy, nếu tìm ra cách sản xuất, sử dụng năng lượng và tài nguyên tốt hơn, chúng ta cũng đồng thời giải quyết được những vấn đề trên. Xét cho cùng, con nghĩ nếu chúng ta chăm sóc thiên nhiên, thiên nhiên sẽ chăm sóc chúng ta. Và địa chất học chính là cách con tôn vinh thiên nhiên.” Một lúc lâu – lâu một cách khó chịu – Đại sư không đáp lại. Cuối cùng, một nụ cười rạng rỡ bừng trên mặt ông và ông bật cười lớn.
“Giờ thì ta hiểu rồi,” ông nói nhẹ nhàng. Ta là một curandero (người chữa lành) của nhân loại – sứ mệnh của ta là chữa lành con người. Còn con là một curandero của Trái đất – sứ mệnh của con là chữa lành Trái đất. Thiên nhiên thuộc về tất cả các nước, không bị giới hạn bởi biên giới – và con cũng vậy, chàng bác sĩ trẻ của ta. Con được chọn lựa để hoàn thành nhiệm vụ này, con được sinh ra là một linh hồn song sinh của tự nhiên. Đối với con, thực hiện các nghiên cứu là quan trọng và ta cho phép con nghiên cứu tại Mayantuyacu.”
Tôi không nói nên lời.
“Bất ngờ tốt, đúng không?” Đại sư lại cười lớn.
Tôi cảm ơn ông vô cùng và bày tỏ hi vọng sớm được trở lại. “Ngài Đại sư, còn một điều nữa,” tôi nói.
“Sao?”
Tôi lôi ra một túi thực phẩm nhựa đựng các mẫu nước. “Hôm qua, con đã lấy những mẫu nước này. Con muốn xin phép ngài trước nhưng vì ngài không ở đó nên con đã hỏi ý kiến Brunswick, anh ấy nói mang chúng lại chỗ ngài và hỏi xem liệu con có thể lấy chúng không.”
“Con đã được phép rồi,” ông nói nhẹ nhàng, lôi ra một cái chai và ngắm nghía. “Cảm ơn con đã cho ta xem những thứ này. Con là người tốt.” Rồi đứng dậy, ông nói: “Ta có cái này cho con”. Ông biến mất vào căn phòng kế bên và quay lại với thứ gì đó trong tay. Ông thả nó vào tay tôi. Nó lành lạnh với những gợn sóng nhẵn mịn. “Đây là encanto của khu rừng – lá bùa bảo vệ sứ mệnh của con.”
Một con hàu đá hóa thạch. Nó vừa khít trong lòng bàn tay tôi. “Cảm ơn ngài,” tôi nói, ngưỡng mộ kết cấu nhẵn mịn của lớp vỏ màu xám.
“Còn một điều nữa ta muốn yêu cầu con,” Đại sư nói. Ông lại cầm lên một trong những mẫu nước. “Sau khi nghiên cứu các mẫu nước này, hãy đổ chúng xuống đất, dù con đang ở bất cứ đâu trên thế giới, để nước có thể tìm đường về nhà.”