← Quay lại trang sách

Chương 10 BUỔI LỄ

Ba ngày đầu tiên của chuyến thực địa trôi qua suôn sẻ: trinh sát dọc sông, căn chỉnh dụng cụ và thử nghiệm tại hiện trường các phương pháp để đảm bảo mức độ chính xác nhất có thể. Như đã hứa, Đại sư và Sandra trở lại cùng với những vị khách mới. Tôi cập nhật tình hình cho Đại sư trong lúc ông đang làm thuốc lá cạnh sông.

“Bọn con đã lên tới thượng nguồn, nơi dòng sông chỉ là một dòng suối lạnh, với một hồ nước lạnh và một thác nước mà ngài có thể ngồi ở phía sau,” tôi báo cáo. “Nhưng bọn con không thể vượt qua được thác nước này – rừng quá rậm.”

“Luis sẽ đưa con đi,” Đại sư nói. “Cậu ấy hiểu rừng nhất.” “Vậy thì tốt quá,” tôi đáp. “Địa hình và thảm thực vật dày thậm chí còn gây ra các vấn đề cho các thiết bị GPS của nhóm. Sai số vị trí quá lớn để sử dụng, trừ khi nhóm ở trong một khoảng trống, mà điều này lại rất hiếm.”

“Vậy con sẽ làm gì?” Đại sư hỏi, vẫn không rời mắt khỏi công việc của ông.

“Con sẽ buộc Poncho và Carlos lại với nhau bằng một sợi dây thừng dài mười một thước*,” tôi nói với ông. “Bắt đầu từ thượng nguồn xa nhất có thể, bọn con sẽ đo nhiệt độ của dòng sông theo từng đoạn mười một thước Anh một cho tới khi đi hết chiều dài của con sông.”

* 10 mét.

Đại sư thấy điều này thật buồn cười. Khi đã ngớt cơn cười, ông kiểm tra những vết côn trùng cắn của tôi. “Chúng đã cắn con rất nhiều.”

Tôi nhìn cánh tay và chân mình. “Chúng đang ăn tươi nuốt sống con! Chỉ trên một chân mà con đã đếm được tới 67 vết đốt, sau đó con không đếm nữa. Thật lạ là cả nhóm đều bôi kem chống côn trùng như nhau, nhưng không ai bị như con cả.”

“Ta đã hình dung điều này có thể xảy ra,” Đại sư nói. “Rừng đang cố gắng tự bảo vệ mình.”

“Khỏi điều gì?”

“Khỏi con.”

“Vậy những người khác trong nhóm thì sao?” tôi hỏi.

“Họ không phải là một mối đe dọa,” ông nói. “Rừng sợ con. Các linh hồn của rừng nhìn thấu tâm can chúng ta. Từ khi con tới, rừng đã quan sát con. Người nhìn thấy tâm trí con, thấy tri thức con sở hữu. Trước đây, những người có tri thức như con đã từng vào rừng và làm tổn thương rừng.”

Nghiên cứu Morgan vẫn còn chưa tìm ra lóe lên trong đầu tôi. Dù tôi chưa đọc nó, nhưng tôi biết nó đã đem lại sự phát triển dầu mỏ đầu tiên tới vùng rừng Amazon thuộc Peru.

“Thế còn Maria?”

“Cô ấy không có gốc rễ ở đây và không phải là một mối đe dọa.”

Tôi hít một hơi rồi hỏi: “Con phải làm gì?”

“Rừng cần nhìn thấy linh hồn của con.” Đại sư nói đều đều. Sau đó, nhìn xuống sông, ông tiếp tục:“Dòng sông có lý do để gọi con tới đây – dòng sông sẽ cho con thấy lý do ở thời điểm thích hợp. Trước kia, ta không hiểu mục đích của dòng sông đối với con. Bây giờ, chính rừng không hiểu con. Chúng ta sợ những gì chúng ta không hiểu. Vì vậy, tối nay chúng ta sẽ giới thiệu con với rừng.”

Tối đó, tôi đến maloca ở giữa làng, nơi Đại sư nói buổi lễ sẽ diễn ra. Tôi hơi lo lắng nhưng khi bước vào, một mùi hương quen thuộc khiến tôi thấy dễ chịu ngay lập tức. Maloca tràn ngập khói hương ngọt ngào của gỗ palo santo. Mùi hương gợi nhớ những kí ức tuổi thơ, khi cha tôi dùng palo santo trong nhà để cầu nguyện. Tôi lấy lại bình tĩnh, bước về phía trước.

Brunswick đang bê một bát hương rực sáng trong bóng tối. Ánh lửa cho thấy Đại sư và Brunswick đang mặc kushmas lễ hội truyền thống, những chiếc poncho Ashasninka dài với những đường kẻ sọc xanh dương, đỏ và xanh lá cây, cùng chiếc mũ rộng vành với những cái lông đuôi dài của vẹt đỏ. Một tay Đại sư cầm một cái chai cao cổ màu xanh lá, tay kia là mẩu thuốc lá mapacho Amazon đậm.

Ánh sáng lập lòe của lửa hương và ánh đỏ anh đào của mapacho trở nên nổi bật trong bóng tối, soi rõ khuôn mặt của vị pháp sư và người học trò trong khi họ chuẩn bị cho buổi lễ. Tôi quỳ xuống, giữ thẳng lưng khi Brunswick cầm bát hương tới gần. Anh thổi tắt lửa, chỉ để lại lớp tro hồng đỏ rực cuồn cuộn và giữ bát hương cách khoảng một bước chân trước mặt tôi trong khi Đại sư bắt đầu tụng niệm.

Icaros! Những câu thần chú của người Amazon! Dì Guida và chú Eo đã kể với tôi về icaros lúc còn ở Lima. Chúng có thể chữa lành hoặc chỉ dẫn, cầu khẩn hoặc gọi hồn, triệu hồi hoặc che giấu, chuyển biến hoặc định hình, tấn công hoặc phòng thủ. Ở đây, trong bóng tối, tôi nghe thấy chúng được tụng niệm bởi một vị pháp sư.

Brunswick, bằng tay còn lại, ra hiệu cho tôi rải hương thơm lên khắp người. Hai bàn tay khum lại, tôi giữ làn khói khi chúng bay ra khỏi bát hương và làm như hướng dẫn. Khói dày, ngọt ngào bao bọc khắp cơ thể, tôi cảm thấy một sự ấm áp dịu dàng ôm ấp lấy da dẻ, mang lại sự dễ chịu không ngờ. Trong ánh sáng đỏ rực, tôi nhìn khói quấn quýt lấy từng nếp gấp quần áo trên người mình trong giây lát trước khi tan biến.

Đại sư hát một điệu icaro nhịp nhàng và ám ảnh bằng tiếng Amazon lạ lẫm, đôi khi có lời, đôi khi chỉ là giai điệu. Bài ca cũng cổ xưa như chính khu rừng này. Khi ông hát, bài hát thay đổi một cách tinh tế. Những âm thanh của Đại sư tạo ra gần giống với những âm thanh thân thuộc của rừng.

Sau một vài phút, icaro bắt đầu nhỏ dần và kết thúc với tiếng thở ra sắc lẹm, rít lên. Maloca vẫn yên tĩnh, dòng sông thì đang gầm lên điệu icaro của mình trong bóng tối. Những tia lửa lóe lên từ chiếc bật lửa khi Đại sư châm lại điếu mapacho của mình.

Giờ Brunswick bắt đầu bài icaro của riêng anh, một bài ca tôn giáo về Chúa Giê-xu xuất hiện trong những đám mây. Lời ca là tiếng Tây Ban Nha nhưng nhịp điệu là của Amazon không lẫn vào đâu được – một sự pha trộn thú vị giữa Thiên chúa giáo và tâm linh Amazon.

Đại sư cúi xuống trước mặt tôi, chìa tay trái của ông ra. Ông ra dấu về phía tay tôi và tôi nâng tay lên trong tư thế cầu nguyện. Chụm hai bàn tay của tôi lại với nhau, ông rít một hơi mapacho và nhả khói mùi xạ hương vào bàn tay tôi trong những tiếng thở ra sắc lẹm, rít lên. Ông lặp đi lặp lại hành động này trên tay tôi, sau đó là trên đỉnh đầu tôi.

Icaro của Brunswick bắt đầu nhỏ dần. Sau ít phút nghỉ ngơi, Đại sư bắt đầu bài icaro khác. Ông hát tiếng Tây Ban Nha, pha lẫn với tiếng bản địa, không phải là ngôn ngữ ông đã hát trong bài icaro đầu tiên. Lắng nghe chăm chú, tôi có thể phân biệt được một số từ, trong đó có những từ rõ ràng có nguồn gốc Quechua – nhưng không phải là tiếng Quechua ở Andres tôi quen. Đại sư cầu khẩn linh hồn của nước và hơi nước, rừng và cây cối, cuối cùng là Chúa Trời và các thiên thần. Khi ông hát tới những dòng nước, giọng ông ấm áp và thân thuộc như thể ông đang nói về những thành viên trong gia đình yêu thương. Khi ông hát tới Đức Chúa Trời, tôi nhận thấy một sự tôn kính sâu sắc. Nhưng khi ông hát với rừng và cây rừng, dường như ông đang cố gắng thuyết phục chúng về một thứ gì đó. Tôi có thể nói ông đang biện hộ giúp cho tôi.

Ông gọi tên những cây quan trọng, Came Renaco là cây đầu tiên trong số đó, và ông ca ngợi mỗi cây vì y thuật kỳ diệu của nó. Với tên từng cây, ông hát một giai điệu khác nhau, dành riêng cho cây đó. Tôi hình dung là ông đang chứng minh cho từng cây hộ vệ đó rằng ông biết chúng. Đại sư khép lại bài icaro của từng cây bằng những từ llora, llora, como yo (khóc, khóc, giống như tôi) như thể nhắc nhở từng cây rằng ông công nhận sự sống của chúng, tôn trọng linh hồn của chúng ngang bằng với sự sống và linh hồn của chính ông.

Đại sư kết thúc với hàng loạt tiếng thở ra rít lên khác. Ông nhấc cái chai mỏng màu xanh lá cây lên và vảy chất lỏng trong chai lên người tôi – một thứ nước hoa với mùi hương tinh tế, dễ chịu. Ông ra hiệu cho tôi nâng tay lên trong tư thế cầu nguyện như trước. Ông đặt miệng vào miệng chai đã mở hít một hơi sâu lấy hương hoa rồi trong tiếng thở ra sắc lẹm, rít lên tương tự, ông phả hơi thở vào tay tôi, lên hai vai tôi và lên cả đỉnh đầu tôi.

Đại sư lùi lại. Nhờ ánh sáng của than hồng, tôi thấy một nụ cười thấp thoáng trên mặt ông. Ông gật gù và tôi đứng dậy.

“Sáng mai tới tìm ta,” ông nói giọng thấp xuống. “Ta cần chỉ cho con một nơi.”