Chương 12 BẰNG CHỨNG HIỂN NHIÊN
Đáng ngại ngay từ quan sát đầu tiên…”
R. G. Greene, đồng nghiệp của Robert B. Moran và Douglas Fyfe
khi nhận xét về cuộc chạm trán với Sông Sôi vào đầu những năm 1930.
Các tài liệu Moran. 1936.
Tháng 2 năm 2013, tôi đang ở Phòng thí nghiệm Địa nhiệt SMU tại Texas, phân tích các mẫu thu được từ Sông Sôi trong một phòng thí nghiệm lạnh giá, không cửa sổ. Sáu tháng kể từ lần cuối cùng rời Amazon, tôi nhận thấy tâm trí mình thường xuyên nghĩ về dòng sông và khu rừng của nó. Đại sư nói rừng đã “trao cho tôi trái tim của rừng” – và rõ ràng, tôi cũng đã để lại một phần trái tim mình ở đó.
Sông Sôi không phải là một huyền thoại nhưng nó giống như trong mơ vậy. Nước nóng của nó chảy khoảng bốn dặm*, sâu hơn sáu bộ* ở nhiều nơi và rộng tới tám mươi bộ* ở những nơi khác. Dòng sông kiêu hãnh với những hồ nhiệt lớn, những ghềnh nước nóng bỏng, những thác nước bốc hơi và những con suối sủi bong bóng – và tất cả đều nằm trong một hệ thống địa nhiệt không bao gồm núi lửa, cách trung tâm núi lửa hoạt động gần nhất hơn bốn trăm dặm*.
* 6,44 kilomet.
* 1,83 mét.
* 24,4 mét.
* 644 kilomet.
Nhưng một mối đe dọa vẫn lởn vởn như một cơn ác mộng – dòng sông thiêng này có thể là một sự cố dầu mỏ không? Rốt cuộc, làm sao mà một đặc trưng địa nhiệt lớn như vậy lại không được ghi chép lại và “không được chú ý” trong một khu vực đã được nghiên cứu và thăm dò kĩ càng? Tại sao dòng sông địa nhiệt lớn, có ý nghĩa văn hóa này lại chưa bao giờ được nghiên cứu thỏa đáng? Dù Đại sư và các thành viên lớn tuổi hơn của cộng đồng khăng khăng dòng sông đã tồn tại “từ trước thời của ông cha” nhưng vẫn không có bằng chứng rõ ràng. Giờ đây, việc tìm kiếm báo cáo của Moran và Fyfe trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đó là tài liệu duy nhất có thể trả lời câu hỏi liệu Sông Sôi có tồn tại trước sự phát triển dầu mỏ hay không.
Tôi đi tới máy tính trong phòng thí nghiệm, gõ “Moran và Fyfe” vào công cụ tìm kiếm, điều dường như đã diễn ra cả triệu lần. Nhiều năm qua, tôi đã sử dụng nhiều kiểu kết hợp từ khoá khác nhau để tìm kiếm trên mạng nhưng không thành công. Tôi dừng lại, chờ yêu cầu được xử lý. Không thể tin được, lần này lại có một kết quả. Tôi ghé sát và đọc tiêu đề: “Hướng dẫn về các tài liệu Robert B. và William R. Moran.”
Trong sự bối rối của vài cú nhấp chuột, tôi đã vào được Văn khố Trực tuyến của California, nơi tôi phát hiện ra từng mục lưu trữ của bộ các báo cáo, văn bản, ảnh chụp và các tài liệu gốc khác thuộc về Robert B. Moran – gọi chung là “Các tài liệu Moran.”
Sau hai năm tìm kiếm, nó đã ở đây: một chỉ dẫn đến báo cáo Moran thực sự. Không có bất kỳ báo cáo hay tài liệu nào thuộc Các tài liệu Moran có thể xem trực tuyến. Nhưng trang web cho biết Các tài liệu Moran được cất giữ ở trong những văn khố đóng của Thư viện các bộ sưu tập đặc biệt, thuộc phân viện Đại học California tại Santa Barbara (UCSB). Sau đó, tôi đi vào ngõ cụt: văn khố đó chỉ có thể được truy cập với sự cho phép hợp pháp đặc biệt từ Quỹ tín thác Moran.
Tôi gọi tới thư viện. Một tiếng “Xin chào” nhỏ nhẹ từ người thủ thư ở đầu dây bên kia khơi dậy niềm đam mê thiết tha tôi dành cho việc tìm kiếm Các tài liệu Moran và sự yên lòng rằng cuối cùng công việc này cũng có thể kết thúc. Tôi ngưng lại để thở. Một sự im lặng khó xử. Tôi nhanh chóng nhận ra người thủ thư không hề được chuẩn bị cho nội dung của cuộc trò chuyện này khi nhấc điện thoại lên. Bỗng dưng xấu hổ, tôi cố nói với giọng bình tĩnh.
“Xin chào. Tên tôi là Andrés Ruzo, nghiên cứu sinh tiến sỹ của Đại học Southern Methodist và tôi gọi điện hỏi về việc tiếp cận Các văn khố Quỹ tín thác Moran cho mục đích liên quan tới nghiên cứu địa vật lý của tôi ở Peru.”
Một khoảng lặng, rồi sau đó là câu trả lời: “Đối với Các tài liệu Moran, quý vị cần phải liên hệ với luật sư của quỹ tín thác.”
Mười ngày dài trôi qua, tôi nghe tin từ luật sư và cuối cùng đã có câu trả lời. Tôi mau chóng lên máy bay đến Santa Barbara.
“Đây là phòng tra cứu.” Một nữ thủ thư với giọng nhỏ nhẹ, ân cần dẫn tôi tới một căn phòng chữ nhật rộng lớn trong Thư viện các bộ sưu tập đặc biệt UCSB. “Ở đây không được phép mang đồ ăn thức uống, và tài liệu không được mang ra khỏi phòng này. Anh hãy tìm một bàn và tôi sẽ mang xe đẩy chứa các hộp lưu trữ Tài liệu Moran tới cho anh.” Cô để lại tôi một mình trong phòng, trước đó nói thêm, “Ồ, và xin vui lòng nhớ – đây là phòng yên tĩnh.”
Là một nhà khoa học địa chất, “công tác lưu trữ” làm tôi nhớ tới những căn phòng không cửa sổ, thiếu ánh sáng, thường ở trong các tòa nhà có thể dễ bị coi là các nhà kho bỏ hoang, đầy các khay dài, nặng chịch chứa các mẫu đá. Các thư viện đá hiếm khi là nơi sạch sẽ nhất, bạn thường rời khỏi đó với bụi phủ đầy người và cần đi tắm gấp. Ngược lại, công tác lưu trữ của tôi ở đây lại có cảm giác sang trọng. Phòng tra cứu gọn gàng không chê vào đâu được. Những bóng đèn huỳnh quang dài trên cao tỏa ra màu sắc trung tính nhẹ nhàng càng tăng thêm sự yên ắng, tĩnh lặng nơi đây. Mười chiếc bàn, mỗi bàn chỉ có duy nhất một chiếc ghế ngồi, chiếm trọn cả căn phòng – một lời nhắc nhở rằng công việc được thực hiện một mình và lặng lẽ.
Một loạt những tủ phiếu thư viện cổ xưa, giống hệt nhau, cao sáu bộ*, trải khắp chiều dài bức tường phía sau. Hàng trăm tay nắm và nhãn dán quy củ càng làm tăng thêm cảm giác ngăn nắp của căn phòng. Trên đỉnh tủ phiếu, các bức tượng bán thân lầm lì nhìn khắp phòng. Gần đó, một con chó Jack Russell Terrier to như thật bằng sứ, nhìn chằm chằm vào chiếc máy hát cũ. Nhưng đặc điểm nổi bật nhất của căn phòng là những cửa sổ lớn chiếm gần hết các bức tường còn lại. Chúng gợi lên cảm giác đang ở trong một bể cá, nơi mà người xem văn khố bị những thủ thư cẩn trọng quan sát từ mọi góc độ.
* 1,83 mét.
Tôi chọn bàn đúng lúc người thủ thư trở lại với một chiếc xe đẩy kim loại nhiều tầng. Chiếc xe đẩy cũ chứa một số hộp lưu trữ màu xám, mỗi hộp có một dải ruy băng đỏ buộc nắp. Tôi được biết mỗi lần mình chỉ được mang một hộp vào phòng. Tôi rón rén nhấc hộp đầu tiên trong số các hộp đã được đánh số, ý thức rõ ràng về cái nhìn chăm chú của người thủ thư khi bước vào phòng tra cứu. Tôi kiểm tra cái hộp hết sức cẩn thận, xem xét tỉ mỉ từng tài liệu trước khi đóng lại với cái ruy băng màu đỏ và mang nó ra khỏi phòng để đổi lấy hộp khác. Việc này kéo dài nhiều giờ. Hầu hết nội dung là các vật dụng cá nhân: bưu thiếp, các áp phích quảng cáo opera hoặc các thông tin không liên quan gì đến địa chất khác.
Khi tôi nhấc nắp Hộp 89 ra, một tiêu đề ngay lập tức thu hút sự chú ý của tôi: “Các báo cáo địa chất Agua Caliente, Peru”. Tôi nghẹt thở. Giống như nhìn thấy ma vậy. Nhẹ nhàng, tôi nhấc thư mục ra khỏi hộp và từ từ mở ra, hé lộ một chồng giấy tờ cũ kỹ, ố vàng. Ở chỗ này chỗ kia, văn bản đánh máy được chú thích bằng chữ thảo viết tay thuộc về một thời đã xa. Trong lúc nhìn qua những trang có gấp mép, niềm vui sướng không thể kiểm soát trào lên trong tôi – tôi đã tìm thấy nó. Tôi đang cầm trong tay không phải chỉ là nghiên cứu năm 1933 mà mình vẫn tìm kiếm bấy lâu mà là toàn bộ các báo cáo, ghi chú chưa từng được công bố, những tài liệu đặt nghiên cứu này trong bối cảnh lịch sử của nó – những hiểu biết vô giá về những giai đoạn đầu tiên của công cuộc thăm dò và khai thác ở vòm đất Agua Caliente. Câu trả lời cho câu hỏi liệu có hay không dòng sông tồn tại trước khi khai thác dầu mỏ ẩn giấu trong chính những trang viết này.
Bây giờ đang là giữa buổi sáng, nhìn qua “bể cá”, tôi thấy các sinh viên UCSB đang đi lại trong sảnh và làm việc cần mẫn trong thư viện. Thật kinh ngạc, tôi tự nhủ bụng. Tôi đã mất nhiều năm tìm kiếm thông tin này và đã bay nửa vòng đất nước chỉ để ở trong thư viện này. Nhưng với những sinh viên này, thư viện lại chỉ là một phần trong đời sống hàng ngày của họ, cũng như SMU đối với tôi hay dòng sông với Mayantuyacu. Một ý nghĩ chợt lóe lên: những khám phá nào đang nằm giấu kín trong âm thanh cuộc sống hàng ngày, bị mất đi trong khung cảnh thường nhật của chính tôi? Chiếc đồng hồ treo tường lớn của phòng tra cứu kéo tôi trở lại với những trang giấy trên tay. Các tài liệu Moran kể một câu chuyện hấp dẫn về những ngày đầu thoải mái thăm dò dầu mỏ ở Amazon.
Trong những năm 1920 và 1930, rừng Amazon thuộc địa phận Peru là trung tâm chú ý của việc khai thác dầu mỏ quốc tế. Standard Oil của New Jersey và Quỹ Rockefeller cử các đội nhà địa chất vào rừng, bí mật tuyệt đối.
Trong suốt thời gian này, nhà địa chất học Robert B. Moran đã tình cờ bắt gặp một địa mạo hình bầu dục, rộng lớn trong khi đang thực hiện cuộc khảo sát trên không cho một dự án xây dựng đường sắt – một mái vòm địa chất vươn cao cả trăm bộ phía trên cánh rừng rậm thấp, bằng phẳng.
Moran nhanh chóng xác định mái vòm này là nơi lý tưởng để tìm dầu và khẩn trương thành lập một đội khảo sát khu vực này trong những năm từ 1930 đến 1932.
Mặc dù không có ghi chép thực địa gốc nào trong văn khố nhưng tôi tìm thấy rất nhiều báo cáo thực địa được biên soạn rất lâu sau khi thời gian làm việc của đội tại Amazon kết thúc. Các báo cáo kể một câu chuyện khó hiểu. Moran và đội của ông đã tìm thấy dòng sông. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong những báo cáo của họ khiến tôi bối rối – một số phù hợp với những quan sát riêng của tôi về dòng sông, một số thì không. Trong số những ý kiến không khớp đó, có vẻ như dòng sông đang cố tình bị xem nhẹ. Tôi biết rõ trọng tâm của họ là tìm kiếm dầu mỏ chứ không phải nghiên cứu Sông Sôi – nhưng dù vậy, thì vẫn có cái gì đó dường như không đúng. May mắn thay, một báo cáo nội bộ của nhà địa chất học R. G. Greene đã trình bày một lời giải thích thuyết phục cho những mâu thuẫn đó. Greene là nhà thầu của bên thứ ba được mời đến để kiểm tra công việc của Moran và đội của ông. Đây vẫn là một hoạt động phổ biến trong ngành công nghiệp dầu – cần chuyên gia thứ ba để chứng thực lại công việc địa chất của một công ty, thường vì lợi ích của các nhà đầu tư tiềm năng (là những người thường không có kiến thức địa chất kỹ thuật nào).
Greence viết: “Sự hiện diện của nước nóng là khá đáng ngại ngay từ quan sát đầu tiên, nhưng sự phân tích dẫn tới một cách diễn giải hợp lý hơn việc mắc-ma nóng xâm nhập: sự hiện diện của nước nóng tự nhiên sẽ gây thiệt hại cho giá trị trong tương lai của nếp lồi Agua Caliente.”
Đây là bằng chứng hiển nhiên. Đại sư đã đúng – dòng sông đã tồn tại từ trước thời của ông cha. Đội của Moran đã tìm thấy dòng sông và những quan sát của họ nói chung trùng với những quan sát của tôi – củng cố cho giả thuyết rằng địa điểm này không bị tác động đáng kể nào bởi việc khai thác dầu. Họ đã tìm thấy dòng sông tại thời điểm khá lâu trước khi những quy định hiện đại yêu cầu lợi ích của môi trường hoặc “những người da đỏ hoang dã” (như một báo cáo đã gọi) được cân nhắc hoặc thậm chí được báo cáo lại. Rừng vẫn che giấu dòng sông rất tốt nên rất dễ dàng hình dung làm sao một “sự bỏ sót” có thể được chuyền từ công ty dầu khí vận hành này qua công ty dầu khí vận hành khác trong nhiều thập kỷ, thậm chí ngay cả sau khi những quy định hiện đại được áp dụng.
Cuối cùng, trọng tâm của đội nghiên cứu là sản xuất dầu mỏ và thu hút các nhà đầu tư.
Các hệ thống nhiệt địa thường bị xem là mối đe dọa tới tài nguyên dầu mỏ vì chúng có thể “nấu quá kỹ” những tài nguyên này, khiến chúng bị hủy hoại và vô giá trị. Moran và công tác nghiên cứu địa chất độc quyền những năm 1930 đã xác nhận dòng sông không liên quan đến mắc-ma và không đe dọa nguồn tài nguyên dầu mỏ. Tuy nhiên, dường như việc cố gắng giải thích tất cả điều này với những nhà đầu tư dễ hoảng sợ, không phải là chuyên gia, lại nắm giữ các điều kiện ràng buộc ngân quỹ cho những tài trợ cần thiết, là một nhiệm vụ rất khó khăn. Giờ thì không có gì bất ngờ khi dòng sông nhận được rất ít sự quan tâm trong Các tài liệu Moran và dù được mô tả tường tận trong một số báo cáo, dường như nó vẫn bị xem nhẹ ở những báo cáo khác.
May mắn cho Moran và những đồng nghiệp của ông khi nỗ lực của họ được đền đáp. Họ chính thức hóa nhượng quyền dầu mỏ với chính phủ Peru và năm 1938 đã khoan thành công giếng dầu đầu tiên tại khu vực rừng Amazon thuộc địa phận Peru.
Cuối cùng, đây là bằng chứng của tôi. Dòng sông là một hiện tượng tự nhiên, đã tồn tại trước khi phát triển mỏ dầu. Tôi ngồi xuống ghế, đầu óc muốn nổ tung với tất cả những điều phải làm và những câu hỏi vẫn chưa có lời giải.