← Quay lại trang sách

Chương 5 MÊ CUNG CỦA SỰ CÔ ĐỘC:
PARK VÀ CÁCH THỨC
SỬ DỤNG QUYỀN LỰC TỔNG THỐNG
Kim Byung-kook

Tài lãnh đạo chính trị là chìa khóa lý giải cho thành công của Park khi kéo dài được thời gian cầm quyền và đem lại tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu về tình hình chính trị và kinh tế Hàn Quốc trong thời của Park đều xem tài lãnh đạo của ông là sẵn có và bất biến. Thậm chỉ tệ hơn nữa, với việc nhìn nhận khả năng lãnh đạo của ông trên cơ sở những thành tựu đạt được, các nhà quan sát đã dựa trên giả định rằng thành tích tăng trưởng trong quá khư dĩ nhiên ban cho ông quyền lãnh đạo chính trị. Có ba vấn đề với lập luận kiểu này. Đầu tiên, câu hỏi đặt ra là cách thức lãnh đạo nào đã cho phép Park tối ưu hóa các kết quả chính sách của chính phủ Hàn Quốc cũng như chính danh hóa sự trị vì của ông. Vấn đề này không có nghĩa là tính chính danh của ông được xác định dựa trên khả năng mang lại tăng trưởng kinh tế và an ninh quân sự, mà câu hỏi này có nghĩa là Park đã làm cách nào để có thể mang lại những kết quả tốt nhất với cương vị người đứng đầu.

Thứ hai, khi nhìn vào kết quả, đặc thù trong kỷ nguyên của Park là những cuộc khủng hoảng kinh tế nhiều không kém các phép màu hiện đại hóa. Vào năm 1962, cuộc đổi tiền làm tê liệt thị trường tài chính vào đúng lúc Park đang phải đối phó với các bè phái quân sự đối trọng cũng như với Washington. Vào năm 1972, khả năng nắm giữ quyền lực của ông tưởng như một lần nữa sẽ vuột mất dưới áp lực của một mặt là tình trạng kiệt quệ trong giới doanh nghiệp, tài chính và mặt khác là sự leo thang tranh giành vị trí kế nhiệm trong Đảng Cộng hòa Dân chủ (DRP) giữa các cấp phó và đồ đệ của ông. Vào năm 1979, bong bóng hình thành từ quá trình công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất (HCI) vỡ tan, làm căng thẳng thêm thách thức của lực lượng đối trọng chính trị với quyền lực của Park. Kể cả trong những giai đoạn bình thường, khi nền kinh tế không ở bờ vực sụp đổ, chính quyền yushin mang lại tốc độ tăng trưởng hai con số nhưng cái giá phải trả là mâu thuẫn xã hội tăng cao: lạm phát tăng; chênh lệch thu nhập và giàu nghèo tăng.

Thứ ba, lý giải cho thành công trong việc nắm giữ quyền lực chính trị của Park chỉ bằng thành quả dài hạn và vĩ mô sẽ bỏ sót cuộc đấu tranh khi đưa ra các quyết định chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế của ông cũng như khi thiết kế những công cụ ông dùng để thực thi quyền lực vào những giai đoạn bế tắc trầm trọng như những năm 1962, 1972 và 1979. Thành tựu nổi bật ở tầm vĩ mô dài hạn là kết quả từ một loạt những lựa chọn chính sách ngắn hạn đầy khó khăn về mặt chính trị ở những lĩnh vực nổi cộm, các quyết định ngắn hạn ấy sẽ bị bỏ sót nếu quá trình phân tích chỉ tập trung vào các xu hướng vĩ mô dài hạn. Quyền lực Park có được không phải chỉ là một sản phẩm phụ từ quá trình tăng trưởng công nghiệp; ông đã phải lao động vất vả để bảo vệ nó kể cả trong những năm tháng tăng trưởng và để phát triển nó thông qua các quyết định chính sách.

Để tập trung vào cách thức Park đã nuôi dưỡng, tổ chức và mở rộng quyền lực của mình, chúng tôi phải loại bỏ chuyện hoang đường về việc ông đứng “trên” chính trị. Rõ ràng rằng ông đã khuyến khích xã hội tin vào ảo tưởng này, nhưng ông làm vậy vì đó là cách ông muốn mọi người nhìn nhận về ông. Hình ảnh này giúp ông bảo vệ quyền lực của mình khỏi các đối thủ, kẻ thù và đồ đệ chính trị. Một ngài Park thật sự sở hữu năng khiếu tự nhiên với quyền lực, ông tạo được những cơ hội mới với những nước cờ chiến lược đi trước người khác một hoặc hai bước và đưa được họ vào vai người hùng hoặc nhân vật phản diện trong vở kịch chính trị có kịch bản công phu của mình. Những nước cờ thao túng của Park tiến hành được là nhờ ông hiểu được điểm mạnh và yếu của kẻ khác, và vì ông tích cực mà thầm lặng tham gia vào hoạt động chính trị hằng ngày và đã tiếp cận sâu xuống các đảng phái chính trị và các bộ ngành nhà nước để có được những thông tin quan trọng. Park trông có vẻ như bị cầm tù và những cận vệ cấp cao của ông đôi khi giống như người canh ngục, nhưng thực sự ông mới chính là người thống trị. Park chỉ hé lộ những suy nghĩ bên trong của mình thông qua vở kịch ông dàn dựng khi sử dụng kẻ khác để phục vụ cho mục tiêu của mình.

Park cũng không hề bị đè nặng bởi ý thức về tính không chính danh, một ảo giác khác mà nhiều nhà quan sát - đặc biệt là những người chỉ trích ông — vẫn luôn giữ khư khư. Chương 5 sẽ lập luận rằng sau khi đắc cử năm 1964, ý thức này không phải là điểm yếu mà chính là thế mạnh có thể giải thích cho các nước cờ chính trị của ông, ít nhất cho đến những tháng cuối cùng của cuộc dời. Trong chiến dịch tranh cử năm 1967, ông đã thắng Yun Po-sun 10,5 điểm phần trăm. Khoảng cách này bị thu hẹp trong cuộc cạnh tranh với Kim Dae-jung, nhưng chỉ xuống mức 7,6 điểm. Sự kiểm soát của Đảng Cộng hòa Dân chủ ở Nghị viện Quốc gia dù có thất thường, nhưng kể cả trong cuộc bầu cử tệ hại nhất, đảng này vẫn giữ được trạng thái đa số. Thành phần của đảng này trong Nghị viện Quốc gia đạt 62,8% vào năm 1963, chạm đến 73,7% vào năm 1967 và rơi xuống mức 55,4% vào năm 1971. Thậm chí từ sau năm 1972 khi Park đã bãi bỏ các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp và lấp đầy một phần ba số ghế trong Nghị viện Quốc gia bằng những thành viên “Yujeonghoe” được ông tuyển chọn, đảng của ông đạt 38,7% số phiếu bầu vào năm 1973 - giảm 10,1 điểm phần trăm so với năm 1971, nhưng vẫn cao hơn 6,1 điểm so với số phiếu bầu cho Đảng Dân chủ Mới. Chỉ đến năm 1978, DRP mới giành số phiếu ít hơn NDP trong bầu cử Nghị viện Quốc gia; đảng của Park thua 0,5%. Vấn đề về tính không chính danh bị cáo buộc chỉ ám ảnh Park trước năm 1963 và sau 1972, tuy nhiên chính trong giai đoạn giữa hai mốc này ông đã ra những quyết định chính trị rủi ro nhất: bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, can thiệp quân sự vào Việt Nam, sửa chữa hiến pháp để chấp thuận một nhiệm kỳ tổng thống thứ ba, Sắc lệnh Khẩn cấp Bình ổn và Phát triển Kinh tế và công cuộc công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất. Các quyết định này của ông không phải là của một lãnh đạo thiếu chính danh. Hành động chấp nhận rủi ro của ông đã tiến gần đến sự bất chấp, tuy vậy ông vẫn tin rằng ông có thể kiểm soát được tình hình. Vấn đề của Park là sự quá tự tin vào năng lực của mình chứ không phải là sự thiếu tự tin.

Khả năng lãnh đạo chính trị của Park đến từ đâu? Park là một người xây dựng tổ chức, ông đã nuôi dưỡng vị thế của mình bằng cách cai trị thông qua một cấu trúc hai mũi nhọn, gồm Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc che chắn cho ông trong lĩnh vực chính trị và Ban Kế hoạch Kinh tế phối hợp cùng Ban Thư ký Nhà Xanh lãnh đạo các bộ ngành nhà nước theo một chương trình huy động nguồn lực có điều phối. Để chèo lái được chính phủ hai mũi nhọn này theo một hướng có thể tăng cường quyền lực cho mình, Park đã xây dựng một hệ thống rất phức tạp có chức năng kiểm soát và cân bằng, thâu nạp và đàn áp có chọn lọc, cùng với một hệ thống phân chia lao động bên trong mỗi một trong hai lĩnh vực này, bên cạnh đó ông cũng giao cho KCIA và EPB quyền lập kế hoạch, thực hiện và giám sát những hoạt động cần thiết phải có để kiểm soát nhà nước về mặt chính trị và huy động các nguồn lực để hiện đại hóa đất nước. Park chọn cách làm việc thông qua KCIA và EPB, nhưng ông cũng cẩn thận để không phải trở thành tù nhân của những cận vệ này, dù khả năng làm được việc đó cụt giảm nhanh hơn dự kiến vì ông đã vô tình làm suy yếu hệ thống kiểm soát và cân bằng của mình trong nỗ lực tập trung quyền lực vào Nhà Xanh đến mức cực đoan vào những tháng cuối cùng của yushin. Chế độ chính trị của ông có những thế mạnh nổi bật, nhưng cũng có những yếu điểm: ông lệ thuộc quá nhiều vào những cận vệ cấp cao và quân đội hơn là các đảng phái chính trị và chính điều này đã hạ gục ông vào năm 1979.

Đặc vụ, cận vệ, và ban cố vấn

“Chưa bao giờ tôi nghĩ mình là một chính trị gia,” Park từng nhấn mạnh như vậy. Câu nói này che giấu tính cách phức tạp của ông cũng nhiều như hé lộ về chúng. Park chưa bao giờ che giấu nỗi chán ghét các cuộc bầu cử và sự khinh miệt các nhà lập pháp. Những yếu tố này gây ra chia rẽ và tốn kém, một điều xa xỉ đối với Hàn Quốc. Tuy nhiên, theo một ý nghĩa sâu xa hơn, ông là một nhà chính trị: ông biết làm thế nào để thâu tóm và sử dụng quyền lực. Khi thành lập chính quyền quân sự vào tháng 5 năm 1961, Park đã là một chính trị gia bất đồng lão luyện trong quân đội bị chính trị hóa của Lý Thừa Vãn. Ông đã chứng kiến Lý Thừa Vãn giữ vững được quyền lực như thế nào, không chỉ bằng cách gây chia rẽ lẫn nhau giữa các phe phái có nguồn gốc từ Hamgyeong và Pyeongan mà còn bằng cách thiết lập một hệ thống an ninh và tình báo quân sự phức tạp được kết nối chặt chẽ đóng vai trò như một cơ quan giám sát tất cả các bè phái.

Park đã là một nạn nhân, bị loại khỏi các vị trí quân đội chủ chốt vì nguồn gốc Gyeongsang của mình và cũng từng một lần bị kết án chung thân do hệ tư tưởng cánh tả. Park đã là phó giám đốc của Yi Young Mun ở Tổng cục Tình báo thuộc tổng hành dinh quân đội và là một trong những chuyên gia cố vấn đứng sau nỗ lực đảo chính bất thành vào năm 1952 của Yi. Trong vai trò nhân chứng, nạn nhân và người âm mưu, kinh nghiệm dạy cho ông ba nguyên tắc đã phục vụ ông đắc lực sau khi chiếm lấy quyền lực vào năm 1961: kiểm soát luồng thông tin, chia để trị và tận dụng những cảm tình địa phương.

Khi Park chọn pháo binh làm lĩnh vực mới của mình vào năm 1952, ông học được một nguyên tắc khác: lập kế hoạch, thực thi và giám sát. Cho Kap-che, người viết hồi ký về Park ghi “không giống như bộ binh, một pháo binh phải nhắm bắn mục tiêu nằm ngoài tầm nhìn của anh ta. Để cải thiện tỷ lệ chính xác, anh ta phải kiểm tra vị trí quả đạn pháo và điều chỉnh những tính toán về khoảng cách và hướng bắn. Hoạt động phía sau [các tuyến đầu], anh ta cũng được đào tạo để tác chiến với tầm bắn rộng. Pháo binh có tính đa chiều, có hệ thống và chính xác.” Chính lĩnh vực này đã tạo ra sự khác biệt giữa Park và Lý Thừa Vãn. Cả hai đều cố gắng giám sát chặt chẽ các đồng minh lẫn kẻ thù bằng cách độc chiếm các đơn vị tình báo, nuôi dưỡng lòng ganh ghét và sự ngờ vực giữa các lãnh đạo phe phái và khơi dậy định kiến giữa các địa phương. Nhưng Park có hệ thống và có tổ chức hơn khi theo đuổi các mục tiêu của ông và do đó thành công hơn. Trọng tâm trong cỗ máy quyền lực của Park là Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc, được thiết lập bằng pháp luật chỉ 24 ngày sau cuộc đảo chính 16 tháng 5 năm 1961.

KCIA

Thành lập KCIA là quyết định đầu tiên của Park về những điều cần phải làm với quyền lực mới giành được và cách thức để bảo vệ quyền lực này khỏi các đồng minh cũng như kẻ thù. Được lên kế hoạch bởi Trung tá Kim Jong-pil, người đã gắn cuộc đời mình với Park bởi quan hệ gia đình cũng như sự nghiệp kể từ năm 1949, Luật số 619 chỉ có chín điều. Điều 1 khiến KCIA giống như KGB của Xô-viết hơn là CIA của Mỹ bằng cách đặt lực lượng tình báo trong và ngoài nước dưới thẩm quyền của tổ chức này; bằng cách thêm quyền điều tra tội phạm vào quyền hạn của cơ quan; và bằng cách giao cho cơ quan này quyền “điều phối và giám sát các hoạt động điều tra và tình báo về các bộ ngành nhà nước - gồm cả các lực lượng vũ trang - trong những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia”. Thông qua Điều 3, cơ quan này có thể “thành lập các cơ sở ở địa phương khi cần thiết.” Điều 7 ghi rằng cơ quan này có thể “nhận hỗ trợ và viện trợ từ tất cả các cơ quan nhà nước khi cần thiết cho công việc [của họ]” [82] Với một đạo luật gồm chín điều, Kim Jong-pil đã thiết lập KCIA như một cơ quan hoạch định, thực thi và giám sát cho chủ tướng của ông ta.

Park đã điều chỉnh Luật số 619 khi ông khôi phục lại hoạt động chính trị bầu cử vào năm 1963, nhưng chỉ để ngăn không cho quá trình dân chủ hóa cản trở nhiệm vụ của KCIA. Điều 9 của đạo luật sửa đổi giao cho giám đốc KCIA quyền sử dụng binh sĩ và quan chức vào bất kỳ giai đoạn nào theo biên chế của cơ quan này. Với Điều 11 mới thêm, giám đốc KCIA cũng có thể từ chối các yêu cầu cung cấp báo cáo, lời khai cũng như hoạt động chất vấn từ các thành viên Nghị viện Quốc gia hoặc từ Ban Kiểm toán và Thanh tra mới được thành lập về các vấn đề liên quan đến “bí mật quốc gia”. Khi tất cả các lãnh đạo đảo chính đối thủ đã bị thanh trừng vào năm 1963, Park cũng đã sử dụng đến đặc quyền tổng thống của mình để chỉ định giám đốc KCIA.

Ngay từ khi bắt đấu, KCIA đã là công cụ quyền lực ưa thích của Park. Không giống các bộ ngành nhà nước, cơ quan này có thể đảm bảo tính bảo mật trong cả công tác hoạch định và thực thi chính sách. Bằng cách tuyển nhân sự từ các bộ nắm trách nhiệm chỉ đạo và từ quân đội vào một nhóm hoạt động, KCIA cũng có thể vượt lên trên các cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các bộ và hoạch định chính sách chỉ tuân theo quan điểm của Park. Luật số 619 cho phép KCIA che giấu ngân sách chiếm dụng từ các bộ ngành nhà nước vì những lý do an ninh quốc gia, điều này cho phép cơ quan tình báo hoạt động ngoài tầm giám sát của Nghị viện Quốc gia. Tuy nhiên, dù KCIA mang lại cho Park nhiều lợi thế, nó cũng kéo theo những rủi ro chính trị chết người. Các mưu đồ chính trị của KCIA, được hỗ trợ bởi hoạt động khủng bố và gián điệp, đã làm mất lòng các chính trị gia trong đảng, lực lượng bất đồng chính kiến chaeya và khuấy động các cuộc biểu tình chống đối chính phủ. Tệ hơn nữa, một ngày nào đó KCIA có thể sẽ quay lưng với Park và tự mình giành lấy quyền lực.

Để tránh né cơn thịnh nộ của quần chúng nhưng cũng để kiểm soát được KCIA, Park luôn sử dụng cơ quan này như một bia đỡ đạn và miễn nhiệm giám đốc mỗi khi nỗi bất mãn của quần chúng dâng cao và các cuộc biểu tình đạt đến mức nguy hiểm. Chiến lược này của ông có hiệu quả trong một thời gian dài đến đáng ngạc nhiên. Đảng cầm quyền cũng như phe đối lập đều đổ lỗi cho ba giám đốc KCIA — một Kim Jong-pil “khoe mẽ” (1961-1963), một Kim Hyeong-wook “thiếu hiểu biết” (1963-1969) và một Yi Hu-rak “gian manh” (1970-1973) - vì những hành động chính trị hung bạo trước khi họ bắt đầu chống lại Park. Để phòng những cận vệ cấp cao trung thành này, vốn đa nghi, Park đã tạo dựng những kênh thông tin thay thế và vận hành các cơ quan giám sát cạnh tranh. Văn phòng An ninh Tổng thống rà soát bất cứ hành vi “bất thường” nào. Tổng cục An ninh Quân đội cũng tham gia kiểm soát KCIA.

Bị giám sát chặt chẽ bởi các đối thủ, KCIA, vốn hiếm khi không phục vụ cho các lợi ích của Park, đã phát triển nhiều vai trò và sứ mệnh. Với vai trò một vũ khí chính trị cho Park, cơ quan này, dưới sự lãnh đạo của Kim Jong-pil, đã thành lập Đảng Cộng hòa Dân chủ là một đảng cầm quyền mới, với nguồn quỹ lấy từ hoạt động trái phép vào năm 1962, như chúng ta đã biết ở Chương 3. Park đã dùng Kim như là một tấm bia đỡ khi ông này rời KCIA để tham gia vào DRP với vai trò chủ tịch vào năm 1963 và buộc Kim phải ra nước ngoài trong một đợt trục xuất ngắn vì những hoạt động phạm pháp của cơ quan tình báo, trong khi đó Park tiến hành chiến dịch tranh cử với vai trò ứng viên tổng thống của DRP. Khi Park âm mưu kéo dài thời gian cầm quyền của mình bằng cách sửa đổi hiến pháp nhằm cho phép ông tranh cử nhiệm kỳ thứ ba vào năm 1969 và sau đó trị vì suốt đời thông qua tuyên bố hiến pháp yushin năm 1972, KCIA một lần nữa trở thành công cụ chính trị trọng yếu cho ông. Để đánh bại mong muốn kế vị Park của Kim Jong-pil khi ông này đấu tranh giữ lại giới hạn hai nhiệm kỳ tổng thống hiến định, Park đã yêu cầu KCIA, lúc bấy giờ do Kim Hyeong-wook lãnh đạo, hăm dọa phái “thái tử” của Kim Jong-pil về nguy cơ một cuộc thanh trừng, trong khi đó chủ tịch tài chính của DRP Kim Seong-gon thuyết phục người của Kim Jong-pil chấm dứt đấu tranh bằng những cuộc đàm phán nhẹ nhàng vào năm 1969. Chiến lược hai phía trấn áp và thâu nạp này đã có tác dụng, thuyết phục được Kim Jong-pil ủng hộ sửa đổi hiến pháp.

Ba năm sau, khi Kim Jong-pil đã bị khuất phục và Kim Song-gon đắm mình trong mơ tưởng xây dựng một hệ thống nghị viện sau khi nhiệm kỳ thứ ba của Park kết thúc vào năm 1974, KCIA theo lệnh Park đã tấn công Kim Seong-gon và ép buộc ông này phải nghỉ hưu sau khi tiến hành các cuộc thẩm vấn lạm quyền. Với những cuộc đàn áp tàn nhẫn như vậy nhằm vào những đồng minh và cộng sự một thời của Park vào các năm 1962, 1969 và 1972, KCIA đã góp phần dọn sạch đường cho cuộc bầu cử đầu tiên của Park, nhiệm kỳ thứ ba và chính quyền yushin. Kể cả khi Park không lập âm mưu chính trị thì cơ quan này cũng chăm chỉ làm việc dưới ảnh hưởng của Park để xây dựng và bảo vệ quyền lực cho ông, đe dọa những nhà lập pháp, nuôi dưỡng lòng ganh ghét và hoài nghi giữa các lãnh đạo chống đối đồng thời sách nhiễu giới báo chí. Hơn nữa, trong mùa bầu cử, do sự nông cạn thể chế của DRP, KCIA đã trở thành cơ quan chiến lược cho chiến dịch tranh cử, một đơn vị vận động gây quỹ chính trị và một “người thăm dò dư luận” cho Park.

KCIA cũng là một thế lực quan trọng trong chính sách đối ngoại. Khi các cuộc đàm phán bình thường hóa với Nhật Bản lâm vào bế tắc về vấn đề bồi thường, Park đã yêu cầu Kim Jong-pil, lúc bấy giờ đang là giám đốc cơ quan này, bay đến Tokyo vào năm 1962 để dàn xếp một thỏa thuận bí mật và “đáng xấu hổ” - trích lời những người chống đối trong cuộc khủng hoảng hiệp ước 1965 của Hàn Quốc. Năm 1972, khi chuyến đi của tổng thống Mỹ Richard Nixon đến thăm Trung Quốc lại làm dấy lên mối ngờ vực vốn đã ăn sâu của Hàn Quốc về những cam kết an ninh từ phía Mỹ, Park một lần nữa dùng đến KCIA cho nhũng hoạt động bí mật. Giám đốc KCIA Yi Hu-rak nhận lệnh, thực hiện chuyên viếng thăm thủ đô Bắc Triều Tiên, Bình Nhưỡng, với vai trò là phái viên của Park vào tháng 5 sau các cuộc đàm phán Chữ Thập Đỏ song phương về các cuộc đoàn tụ gia đình, và chúc mừng phó thủ tướng thứ hai của Bắc Triều Tiên Park Seong-cheol khi ông này thực hiện một chuyến viếng thăm tương tự đến Seoul một tháng sau đó. Sự trao đổi cấp cao này dẫn đến Tuyên bố chung ngày 4 tháng 7 về việc tái thống nhất hòa bình và hơn nữa. Ngay sau chuyến trở về Bắc Hàn của ông này, Yi Hu-rak đã hối thúc Park đình chỉ các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp và sửa chữa hiến pháp để tập trung hóa quyền lực của ông, với mục tiêu đánh bại chế độ toàn trị của Bình Nhưỡng trong một kỷ nguyên xoa dịu căng thẳng mới. Park đồng thuận. Khi chứng kiến tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia của mình vào tháng 12 năm 1971 bị chỉ trích và nhạo báng nặng nề vì tinh vi hiến trắng trợn của nó, cũng như khi Luật Biện pháp Đặc biệt về An ninh Quốc gia được thông qua muộn màng lại bị vô hiệu hóa bởi các đảng đối lập vào đầu năm 1972, Park đã quyết định viết một hiến pháp mới và giải tán Nghị viện Quốc gia. Một lần nữa, nhiệm vụ này thuộc về Yi Hu-rak. Vị giám đốc KCIA tham gia vào ban cố vấn tổng thống của Park trong những cuộc họp hàng tuần đánh giá lại những kế hoạch để thay đổi chế độ được các cơ quan của ông này soạn thảo dưới mật danh “Vụ mùa tốt” cho đến tháng 8. Tài liệu này của họ sau đó đã được chuyển đến Bộ trưởng Bộ Tư pháp Shin Chik Su và phó giám đốc KCIA Kim Chi-yeol để tiến hành các thủ tục pháp lý chi tiết. Vai trò của KCIA là một công cụ của chính sách đối ngoại đã chồng chéo, lấn sân và được củng cố bởi vai trò đối nội của chính nó như là cơ quan giám sát cho các lợi ích, quyền lực và sứ mệnh chính trị của Park.

Tuy nhiên, nghị trình đổi nội và đối ngoại của KCIA đã gây ra những hệ quả tiêu cực sâu sắc lên mối quan hệ của Park với Tokyo và Washington sau năm 1973. Để kìm hãm, nếu không phải là đảo ngược, quá trình triệt thoái quân sự có lộ trình của Hoa Kỳ khỏi Hàn Quốc, KCIA đã tận dụng đến tài năng của Park Dong-seon, một chuyên gia vận động hành lang sở hữu độc quyền nhập khẩu gạo Mỹ vào Hàn Quốc, và Kim Han-jo, một doanh nhân người Hàn ở nước ngoài, vào tổ chức mà KCIA hy vọng sẽ trở thành một nhóm vận động hành lang mạnh ở Washington mô phỏng theo các nỗ lực của Đài Loan và Israel nhằm gây ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Vào tháng 8 năm 1973, Yi Hu-rak lệnh cho các đặc vụ KCIA bắt cóc lãnh đạo chống đối của Hàn Quốc Kim Dae-jung ở Tokyo, nơi ông này đã tìm cách tị nạn chính trị sau tuyên bố yushin, nhằm ngăn cản ông này không xây dựng các lực lượng chống Park ở nước ngoài. Những hoạt động này của KCIA đã phản tác dụng, rồi nhanh chóng đổ bể thành vụ bê bối Koreagate với hệ quả là “cuộc chỉ trích Park” ở Quốc hội Mỹ và một sự rạn nứt nghiêm trọng trong mối quan hệ với Nhật Bản.

Những căng thẳng trong quan hệ của Hàn Quốc với hai đồng minh quan trọng nhất đã làm tăng sự chống đối trong nước, đặc biệt sau là khi Hàn Quốc đã hồi phục được từ cú sốc Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975. Sự trỗi dậy của các thế lực chống đối trong xã hội theo dự đoán đã đẩy KCIA xa hơn vào các mưu đồ chính trị và các vấn đề chính sách đối ngoại. Để ngăn ngừa khả năng huy động các lực lượng chống đối xã hội của NDP vào năm 1979, Park đã loại bỏ lãnh đạo của đảng này, Kim Young-sam, ra khỏi Nghị viện Quốc gia, nhưng ông lại đành phải chúng kiến các nhà lập pháp từ chức hàng loạt và Hoa Kỳ phải triệu hồi Đại sứ William Gleysteen. Phong trào trăn áp dã man những công nhân đình công tại một nhà máy sản xuất hàng may mặc nhỏ bị phá sản cũng đã phản tác dụng, khiến công chúng phải dậy sóng vì những điều kiện lao động khắc nghiệt. Dân cư ở khu vực kém phát triển kinh tế Busan và Masan thuộc tỉnh Nam Gyeongsang quê hương của Kim Young-sam cũng nổ ra một cuộc biểu tình tập thể chống lại toàn bộ các sai lầm chính trị của Park. Trung tâm của những bước đi sai lầm này là giám đốc KCIA Kim Chae-gyu và giám đốc Văn phòng An ninh tổng thống Cha Ji-cheol. Họ đã lên kế hoạch cho các biện pháp mang tính “trung dung” và “cấp tiến” để đối phó với các cuộc đấu tranh quyền lực nội bộ hơn là để giải quyết khó khăn.

Với rất nhiều vai trò chính trị, quyền lực trải rộng, và cách tổ chức chặt chẽ của KCIA, giám đốc của cơ quan này đóng vai trò như một thư ký cấp cao cho tổng thống về những chính sách đối nội, đối ngoại cũng như chính sách an ninh trong Nhà Xanh của Park. Tổng thống bắt đầu công việc mỗi buổi sáng với những báo cáo từ giám đốc KCIA. Để che đậy những suy nghĩ sâu xa nhất về các vấn đề ưu tiên, Park chỉ gặp riêng giám đốc KCIA, đến cả trưởng ban cố vấn cũng không được tham dự. Giám đốc KCIA cũng có thể gõ cửa nhà ông bất kể lúc nào dù ngày hay đêm, nếu cần. Chỉ có hai nhân vật khác nữa có đặc quyền này: người đứng đầu Tổng cục An ninh của quân đội và giám đốc Văn phòng An ninh Tổng thống. Cuộc nói chuyện giữa ba trợ thủ cấp cao này có thể kéo dài hàng giờ mỗi khi Park gặp phải những vấn đề hệ trọng.

Nhà Xanh

Park cũng nhận thức được rằng KCIA không có đủ năng lực giải quyết các vấn đề kinh tế. Khi ông giao cho cơ quan này chịu trách nhiệm về chính sách kinh tế vào năm 1962, bước đi của ông gần như đã hủy hoại nền kinh tế vốn đã yếu ớt của Hàn Quốc, như ta biết ở Chương ba. Từ những thảm bại chính sách năm 1962, Park đã học được điều cấm kỵ: sử dụng KCIA cho hoạt động hoạch định chính sách kinh tế thay vì cho các mục tiêu chính trị. Tuy nhiên, cũng khá mất thời gian để ông biết được điều cần phải làm: đặt niềm tin vào đâu trong bộ máy quan liêu nhà nước và làm thế nào để tổ chức được đội ngũ cho tổng thống trong lĩnh vực kinh tế. Vào tháng 7 năm 1961, Park đã thiết lập Ban Kế hoạch Kinh tế làm cơ quan thử nghiệm của ông, nhưng lại ghẻ lạnh nó suốt những năm đầu của chính quyền quân sự bởi sự lệ thuộc của ông vào KCIA của Kim Jong-pil. Nhiệm vụ đặt ra trước mắt ông sau năm 1962 là tìm cách để biến EPB thành cơ quan kinh tế hàng đầu của mình trên cả danh nghĩa lẫn thực tế nhưng vẫn giữ nó dưới tầm kiểm soát cá nhân. Vấn đề cân bằng giữa khả năng phát triển thể chế với quyền kiểm soát chuyên chế rất quan trọng đối với Park, bởi cũng như KCIA, EPB quá mạnh để được đứng riêng rẽ. Với quyền hoạch định ngân sách quốc gia cũng như cấp phép các khoản vay và đầu tư nước ngoài đang là nguồn vốn chính của Hàn Quốc trong bối cảnh tiết kiệm trong nước thấp, EPB có thể độc lập kiếm tiền cho những dự án công nghiệp nó cho là cần thiết để đạt được mức tăng trưởng kinh tế mục tiêu mà không phải nhờ đến bất kỳ sự tham vấn chặt chẽ nào từ Bộ Tài chính. Cũng như KCIA, EPB bị giữ dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Park với sự trợ giúp của Ban thư ký tổng thống Nhà Xanh.

Được thiết lập nhằm cân bằng giữa các mục tiêu phát triển thể chế và quyền kiểm soát chuyên chế, Nhà Xanh cũng giống như một nội các thu nhỏ. Đứng đầu là trưởng ban cố vấn với hàm tương đương bộ trưởng. Ngay bên dưới là các thư ký cấp cao tương đương hàm thứ trưởng, số lượng thư ký này tăng từ một lên sáu sau một loạt những cuộc chỉnh đốn tổ chức vào năm 1968 và 1969. Từ lúc đó cho đến một thập kỷ sau cái chết của Park, số lượng thư ký cấp cao dao động từ năm đến tám, mỗi người trong số này sẽ chỉ huy các thư ký hàm tương đương với giám đốc tổng cục hoặc vụ trưởng trong bộ máy quan liêu nhà nước. Sau đó, mỗi thư ký có thêm quyền tuyệt đối với một hoặc hai bộ để chuyển hóa tầm nhìn của Park thành một gói chính sách chi tiết, khả thi. Vì vậy, cách thức tổ chức của Nhà Xanh gần như song song với các bộ ngành nhà nước của Hàn Quốc. Do Park phải phụ thuộc vào ba trợ thủ cấp cao - KCIA, Tổng cục An ninh Quân đội, và Văn phòng An ninh Tổng thống - để bảo vệ quyền lực của ông và giải quyết các vấn đề chính trị, phần “chính trị” của Ban thư ký tổng thống vẫn luôn yếu. Trước năm 1968, Park đã tạo ra hình ảnh về chính trị đặc quyền trong cách tổ chức của Nhà Xanh bằng cách chỉ định cho mỗi thư ký cấp cao một tập hợp nhiệm vụ “chính trị”. Tuy nhiên, chức vụ chính thức này chỉ là lừa gạt. Người trợ lý này phục vụ như một phó ban cố vấn chứ không phải là một cố vấn cấp cao với quyền hạn tuyệt đối về các vấn đề chính trị. [83] Vai trò của người này là thúc đẩy hợp tác giữa trưởng ban cố vấn và chín đơn vị thư ký thấp hơn, mà chỉ một trong số các đơn vị này mới chịu trách nhiệm về Nghị viện Quốc gia và chính trị đảng phái. Cuộc tái cấu trúc năm 1969 dường như đã tạo nên một chốn an toàn hơn cho chính trị bên trong Nhà Xanh của Park bằng cách tạo ra một đơn vị chính trị riêng biệt với một lớp thư ký cấp cao mới được đưa vào mang hàm thứ trưởng, tuy nhiên đơn vị mới này cũng xác định sứ mệnh của nó trong bộ máy quan liêu là một cơ quan giám sát bảy bộ “chính trị” trong nhà nước từ Văn hóa và Thông tin, Giáo dục, Sự vụ Chính phủ, Tư pháp, Ngoại Vụ, Quốc phòng, cho đến Nội Vụ. Với Park, đối trọng thật sự với các chính trị gia đảng phái và với các nhà lập pháp chính là KCIA của ông.

Rõ ràng là, Yi Hu-rak đã đóng một vai trò chính trị trung tâm suốt nhiệm kỳ ông làm trưởng ban cố vấn giữa năm 1963 và 1969, nhưng ông là một ngoại lệ. Suốt sáu năm này, Yi tự liên minh với giám đốc KCIA Kim Hyeong-wook và chủ tịch tài chính của DRP Kim Seong-gon để bức Kim Jong-pil mất chức và chuẩn bị cho nhiệm kỳ tổng thống thứ ba của Park vào năm 1969. Ba người này liên minh không chỉ vì họ thiếu sức hấp dẫn cá nhân và sự ủng hộ quần chúng để cạnh tranh với Kim Jong-pil cho vị trí thái tử, mà còn vì chính Park không hề có suy nghĩ về việc nghỉ hưu rút khỏi chính trị. Khi Yi Hu-rak ra đi, Park bổ nhiệm Kim Jeong-ryeom - một nhà kỹ trị lai tạo từng đảm nhận vị trí thứ trưởng và bộ trưởng ở các bộ chiến lược là Bộ Tài chính và Bộ Thương mại và Công nghiệp - làm trưởng ban cố vấn. Kim Jeong-ryeom giữ chức này trong chín năm cho đến khi DRP thua trong cuộc bầu cử Nghị viện Quốc gia vào năm 1978. Người kế nhiệm là người bạn cũ bất đắc dĩ của Park trong những năm binh nghiệp của ông, vị tướng về hưu Kim Kye-won, người mà Park đã thuyết phục giữ chức trưởng ban cố vấn để làm “bạn đồng hành” với ông khi tuổi già.

Bản chất của ban cố vấn Nhà Xanh chủ yếu là kỹ trị và quan liêu. Dù có những thư ký cấp cao phụ trách các sự vụ chính trị nhưng nhiệm vụ chính của họ là phải kiểm tra và cải thiện các kế hoạch mang tính chính trị do KCIA chuẩn bị. Tóm lại, trợ lý thật sự về chính trị chính là KCIA, điều này giải thích vì sao nhóm chính trị Nhà Xanh của Park vẫn còn yếu kém về mặt tổ chức cả trước và sau năm 1968.

Ban cố vấn Nhà Xanh là một tổ chức mà “80% là về kinh tế học”, trích lời một trợ lý cấp cao. [84] Hơn nữa, không giống như KCIA và các cơ quan an ninh đối thủ, trong khi Park tuyển chọn nhân sự cho các tổ chức này từ những thân phúc trọn đời kể từ những năm quân đội theo quan điểm quân sự của ông — xem chính trị như một cuộc chơi của các chính sách kiểm soát, huy động và chia để trị, Nhà Xanh “80% về kinh tế học” tuyển chọn nhân sự từ bộ máy quan liêu nhà nước Hàn Quốc - nguồn cung cấp chuyên môn trong một xã hội chính trị bị quan liêu hóa mạnh mẽ. Park biết về tầm quan trọng của bộ máy quan liêu nhà nước và đã tổ chức lịch làm việc hằng ngày của mình để tạo dựng được lòng trung thành nơi các quan chức nhà nước bằng cách tự mình đến viếng thăm các công trình xây dựng và giám sát chặt các dự án của chính quyền.

Vai trò chiến lược của Nhà Xanh không có nghĩa rằng nó là một tổ chức lớn. Ngay cả sau những lần mở rộng đáng kể vào tháng 7 năm 1967 và tháng 4 năm 1968, Ban Thư ký Nhà Xanh của Park cũng chỉ có 227 nhân viên cố vấn, với 99 người giữ bậc công chức 3B (cao thứ 5 trong 10 bậc) hoặc cao hơn. Park áp đặt một mức trần lên sự tăng trưởng về mặt tổ chức của Ban thư ký bởi ông muốn các trợ lý của Nhà Xanh vẫn luôn là trợ lý và có thể thực thi quyền lực bằng cách hợp tác với và làm việc thông qua - chứ không phải qua mặt - các bộ ngành nhà nước. Trên thực tế, bộ máy quan liêu nhà nước là nguồn trợ lý Nhà Xanh lớn nhất, cung cấp 37,9% thư ký cấp cao. Các lực lượng vũ trang theo sau với 27,6% tỷ trọng. Park cũng duy trì sự phân chia lao động, tuyển những trợ lý kinh tế cấp cao chủ yếu từ các bộ EPB và Bộ Tài chính cao cấp, chọn những phát ngôn viên từ giới báo chí, trong khi đó nhân sự quân đội đã về hưu nắm những vị trí trong các sự vụ chính trị và dân sự. Park ý thức được về nơi để đặt quyền lực và chuyên môn đồng thời hành động theo đó, ban phát cho giới tinh hoa quan chức của Hàn Quốc những đặc quyền. Dĩ nhiên, điều quan trọng vẫn là ai kiểm soát ai. Các “cận vệ” có thể đã xây dựng “bức màn người” (in-ui changmak) xung quanh Park và khiến ông trở thành tù binh của bộ máy quan liêu nhà nước hoặc của chính các cận vệ này, bóp méo thông tin, thiết lập lịch trình nghị sự quốc gia và thiết kế các lựa chọn chính sách để thúc đẩy các quyền và đặc lợi cho những cơ quan của họ hơn là cho Park. Để kiểm soát được Ban thư ký Nhà Xanh, Park có thể đã truyền nỗi sợ hãi vào các trợ lý của ông, nhưng chỉ ở một mức hạn chế, vì lo ngại nỗi sợ có thể hủy hoại bất cứ động lực nào thúc đẩy họ chủ động tham gia vào mối hợp tác liên bộ để thực hiện các mục tiêu chính sách mà Park muốn họ hướng đến. Người trợ lý lý tưởng cho Park chính là Kim Jeong-ryeom. Được tuyển chọn từ ngân hàng trung ương Hàn Quốc để tiến hành chương trình cải cách tiền tệ bí mật vào tháng 5 năm 1962, Kim Jeong-ryeom sau đó nhận thấy vai trò của mình là một quan chức hỗ trợ “trung lập” và là một người “hạn chế thiệt hại từ cuộc đổi tiền do KCIA chỉ đạo bằng cách lập nên một kế hoạch cải cách khả thi” dựa trên kinh nghiệm của ông khi tham gia vào một cuộc cải cách tiền tệ tương tự với vai trò là một nhà kỹ trị ở Ngân hàng Hàn Quốc vào năm 1952. Cuộc cải cách tiền tệ 1962 đã thất bại thảm hại, tuy nhiên Park đã chọn Kim Jeong-ryeom làm trợ lý kinh tế hàng đầu, đưa ông thành thứ trưởng Bộ Tài chính vào năm 1962 và thành thứ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp hai năm sau. Tiếp đó, ông trở thành bộ trưởng Bộ Tài chính cũng như Bộ Thương mại và Công nghiệp trước khi đứng đầu Nhà Xanh của Park với vai trò trưởng ban cố vấn từ năm 1969 đến tháng 12 năm 1978.

Sự nghiệp của Kim Jeong-ryeom minh họa cho cách thức tạo dựng lòng trung thành trong ban cố vấn Nhà Xanh một cách có hệ thống của Park thông qua sự bảo trợ chính trị dự đoán được. Trong số 29 thư ký cấp cao trong những năm tổng thống của Park (1963-1979), 44,8% thăng tiến lên các vị trí nội các và 24,1 % trở thành các nhà lập pháp. Không những thế, Park cũng quan tâm tới các cựu thành viên ban cố vấn tổng thống cả khi họ đã rời khỏi Nhà Xanh. Ngoại trừ bảy người đã giữ chức thư ký cấp cao vào thời điểm xảy ra cái chết của Park tháng 10 năm 1979, có một đặc thù là các trợ lý cấp cao luôn có 50% cơ hội được chuyển đến một nhiệm vụ khác trong chế độ chính trị của Park. Khi Park đưa một nhà kỹ trị vào trong ban cố vấn của ông, ông sẽ hứa hẹn về sự bảo trợ chính trị suốt đời. Để có được sự đảm bảo vững chắc hơn cho lòng trung thành, Park cũng ưu tiên tuyển chọn các tài năng trẻ đang lên và những người gốc Gyeongsang, đặc biệt vào các công việc chính sách chính trị và kinh tế mang tính chiến lược. Để xây dựng các mối liên hệ cá nhân cũng như để phát triển kinh nghiệm và bộ nhớ nội bộ [85] [institutional memory] về Nhà Xanh, ông giữ các trợ lý chính trị và kinh tế cấp cao ở vị trí của họ trung bình khoảng hơn hai năm rưỡi. Nhiệm kỳ của các trợ lý cấp cao khác tính trung bình dài hơn, đến khoảng hơn năm năm trong trường hợp thư ký cấp cao ở các văn phòng nghi thức ngoại giao. Cũng quan trọng không kém, 48,3% số thư ký cấp cao đã từng giữ vị trí thư ký cấp trung trong Nhà Xanh, dẫn đến số năm phục vụ trung bình lớn đáng kể ở Ban thư ký tổng thống. Các bộ phận phụ trách sự vụ nghi thức ngoại giao và dân sự thậm chí được giữ cố định, với những trợ lý cấp cao nắm giữ nhiều vị trí trung bình lần lượt 5,3 và 8 năm. Nhà Xanh trở thành một phần thiết yếu trong bộ máy quan liêu nhà nước, tuyển chọn những nhân tài của bộ máy làm thư ký và thư ký cấp cao rồi gửi họ ngược lại vào các bộ làm những nhà hoạch định chính sách cấp cao - với ý thức được củng cố về sứ mệnh và lòng trung thành được Park truyền thụ trong suốt thời gian phục vụ của họ ở Nhà Xanh.

Tuy nhiên, bất kể cách thức nuôi dưỡng có hệ thống những nhóm ủng hộ trong bộ máy quan liêu, Park ý thức được rằng cuối cùng chỉ có chính ông mới thật sự có thể chịu trách nhiệm cho những lợi ích chính trị của mình. Do đó, ông đã lựa chọn cách tiếp cận chủ động với các quyết định chính sách quan trọng, đặc biệt là để giám sát chính sách và kết quả hoạt động của các bộ. Mỗi tháng ông tổ chức một Cuộc họp Thúc đẩy Xuất khẩu với các thành viên nội các và các giám đốc chaebol, yêu cầu các quan chức nộp “Báo cáo Xu hướng Kinh tế”. Trong các lĩnh vực chính sách khác, Park triệu tập Cuộc họp Thanh tra và Phân tích hằng quý. Sau khi Nixon thông báo về các kế hoạch triệt thoái quân sự của Mỹ khỏi châu Á lục địa, Park tổ chức thêm một Cuộc họp hằng quý về Phát triển Công nghiệp Quốc phòng vào danh sách các cuộc họp điều phối liên bộ do ông chủ trì. Ngoài ra còn có một chuyến thanh tra hằng năm (yeonndo sunsi) diễn ra vào tháng 1. Park đến tất cả các bộ vào tháng đó, và toàn bộ nội các, thư ký cấp cao Nhà Xanh cùng các lãnh đạo Nghị viện Quốc gia, gồm cả Chủ tịch, đi cùng. Chuyến thanh tra này được tổ chức để đánh giá lại các kế hoạch làm việc năm cũng như để “kiểm tra và đôn đốc tinh thần và năng lực của các quan chức nhà nước”. Park sẽ luôn ngồi một mình, bất động, trước phái đoàn của ông trong một căn phòng đã đủ người, trấn áp tất cả bằng sự im lặng của mình, trong khi đó các cục trưởng của bộ đang bị thanh tra lần lượt trình bày một biểu đồ họp dày đặc. Park chỉ thỉnh thoảng cất giọng để đặt những câu hỏi chính sách tập trung và mang tính chiến lược. Hơn nữa, để kiểm tra kết quả hoạt động của các bộ cũng như để đặt ra những mục tiêu rõ ràng, ông ưu tiên định lượng trong những câu hỏi và bình luận của mình. Trong các chuyến thanh tra, Park cũng kiểm tra năng lực các tài năng trẻ đang lên của mỗi bộ ngành nhà nước và, khi một người chứng tỏ được năng lực, ông không hề ngần ngại gọi trực tiếp các giám đốc cục và thậm chí cả các công chức bậc 3A thấp hơn để trả lời những câu hỏi của ông. [86] Nhiều người trong số các quan chức tài năng nhất ở đây đã được Park tuyển chọn vào làm trợ lý trong Nhà Xanh.

Hai mặt của Park

Trong quá trình thiết lập các cơ chế nội bộ chặt chẽ của các tổ chức KCIA, EPB và Ban thư ký Nhà Xanh nhằm giúp ông hoạch định, thực thi và giám sát cả các chính sách chính trị lẫn kinh tế, và cũng đang tận hưởng tính chính danh vừa mới có được từ cuộc bầu cử năm 1963, Park là một nhân vật hùng mạnh không có đối thủ vào giữa những năm 1960. Những bận tâm của ông sau đó là cách thức để sử dụng KCIA, EPB và các trợ lý Nhà Xanh để bảo vệ và mở rộng quyền lực của mình. Để đạt được điều này, ông vạch ra hai chiến lược. Về chính trị, ông áp dụng một chiến lược tiêu cực, tìm cách ngăn cản các lãnh đạo phe phái trong DRP cũng như các chính trị gia của đảng NDP đối lập trở thành những người cân bằng với ông về mặt chính trị. Trong lĩnh vực kinh tế, ngược lại ông đã phát triển một chiến lược huy động với mục tiêu tích cực là tạo ra giá trị, xây dựng một “thị trường” được dẫn dắt bởi các mục tiêu đặt ra mang tính chính trị - các mục tiêu được xác lập từ trên xuống bởi một nhà nước chỉ huy kinh tế - và đặt nhà nước cùng các thế lực xã hội vào các vai trò bổ trợ mà ông nghĩ là cần thiết để nền kinh tế do nhà nước chỉ huy đem lại kết quả như mong đợi. Đáng ngạc nhiên là Park đã duy trì được chiến lược hai phía này trong một thời gian dài, một phần vì ông nắm giữ quyền lực áp đảo nhờ kiểm soát KCIA và EPB.

Bên cạnh cấu trúc thống trị này, đầu óc chiến lược của Park góp phần rất lớn. Nếu không phải vì ông luôn đi trước người khác và điều chỉnh những bước đi của mình khi dự đoán được người khác sẽ diễn dịch và phản ứng như thế nào với những bước đi đó thì KCIA, EPB và các trợ lý Nhà Xanh có lẽ đã không thể thành công khi thúc đẩy ngăn chặn chính trị và huy động kinh tế. Ba cơ quan này hiện thực hóa được tiềm năng của của chúng để sử dụng quyền lực chỉ vì ông chủ của chúng, Park, đã hành động với tư duy chiến lược.

Cuộc đua với thời gian

Ý định không cho phép một ai thách thức mình của Park thể hiện rõ nhất khi ông bổ nhiệm Jeong Il-kwon, một vị tướng về hưu từ vùng Hamgyeong, làm thủ tướng vào tháng 5 năm 1965. Park đã cảnh báo Chong “không được giao du với các tướng lĩnh đang chỉ huy các đơn vị quân đội chủ chốt cũng như với các lãnh đạo chaebol” “Giao nhiệm vụ gây quỹ chính trị cho phó thủ tướng phụ trách EPB Jang Ki-young.” Tiếp đó Park nói thêm “hãy cảnh giác khi những người từ các vùng phía bắc tiếp cận anh, để ngăn những người khác đánh giá anh đang xây dựng một nền tảng quyền lực chính trị cá nhân.” Park cũng không che giấu những tính toán chính trị với Kim Jong-pil. Khi Kim Jong-pil trở về vào tháng 12 năm 1963 sau oeyu, hay đợt tạm trú, thứ hai của ông này do bị ép buộc bởi các đối thủ chính trị sáu tháng trước vì vai trò mờ ám của mình khi đàm phán về quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, Park đã nói những lời Kim muốn nghe: “Anh sẽ trở thành người kế nhiệm tôi.” Sau đó ông nói tiếp: “Hãy luôn cảnh giác. Hiện giờ người ta không đụng đến anh vì tôi đang ở đây. Khi tôi không còn ở đây nữa, mọi người sẽ tìm cách bắt nhốt và vu khống anh. Đó là lý do tại sao anh không được nhúng chàm. Tránh xa khỏi tiền bạc. Đừng chỉ định người của anh vào bất kỳ vị trí nào.” Park đã cảnh báo Jeong Il-kwon và Kim Jong-pil tránh xa khỏi ba nguồn sức mạnh chính trị quan trọng: súng, tiền bạc và tổ chức địa phương.

Jeong Il-kwon lịch thiệp đã tuân lệnh và đảm nhiệm một vai trò về cơ bản mang tính nghi thức và vì điều này ông đã được tưởng thưởng hậu hĩnh, ông giữ chức thủ tướng cho đến tháng 12 năm 1970 và thậm chí đã đóng vai trò Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào đầu năm 1967. Kim Jong-pil trẻ trung, đầy hấp dẫn và tham vọng cũng tuân lệnh khi Park - sau nhiều năm chinh chiến - tiết lộ ý định không từ chức bằng cách thay đổi hiến pháp thông qua một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1969 cho phép ông nắm quyền nhiệm kỳ thứ ba. Kim Jong-pil không thể làm gì khác vì đã xây dựng một bè phái ủng hộ thông qua hoạt động chính trị trên cơ sở tiền bạc, ông ta có thể bị quy tội tham nhũng và bị thanh trừng nếu nổi dậy chống lại Park. Ngoài ra, KCIA lúc bấy giờ được Kim Hyeong-wook lãnh đạo, ông này đang mong chờ loại Kim Jong-pil ra khỏi vị trí người đại diện trong lực lượng lãnh đạo chính trị của liên minh chính trị DRP. Để giữ chặt được quyền lực hiện có, Kim Jong-pil phải kìm hãm lại những mong muốn cho chức vị tổng thống và lên chiến dịch vận động cho cuộc sửa đổi hiến pháp của Park vào năm 1969. Ông ta có lý do để sợ Park. Chỉ mới một năm trước, Park đã trục xuất thành viên Nghị viện Quốc gia Kim Yong-tae khỏi DRP với tội gây tổn hại đến lợi ích của đảng do bí mật tham gia vào các hoạt động bè phái để hỗ trợ cho vị trí ứng viên tổng thống của Kim Jong-pil vào năm 1971. Tương tự, vào tháng 4 năm 1969, chỉ ba tháng trước khi DRP công khai ủng hộ đề xuất của Park về sửa đổi hiến pháp, Park miễn nhiệm thêm năm nhà lập pháp nữa khi họ lãnh đạo khoảng 40 thành viên nghị viện của DRP ủng hộ các chính trị gia NDP đối lập nhằm cách chức bộ trưởng Bộ Giáo dục của ông như một phần trong việc bỏ phiếu bất tín nhiệm với kế hoạch sửa đổi hiến pháp của Park. Đứng sau những động thái này là KCIA. Cựu chủ tịch DRP Jeong Ku-young nhớ lại “giám đốc Kim Hyeong-wook cung cấp tất cả những phương tiện khả dĩ.” “Kim Hyeong-wook thậm chí đã bới móc đời tư của các nhà lập pháp nhằm tìm ra các hành vi bất thường và thiếu đạo đức để đe dọa họ. Thỉnh thoảng, ông ta khẩn cầu; những lần khác thì cưỡng bức. Ông cũng thuyết phục họ bằng tiền nữa. Kim Hyeong-wook tiếp cận nhiều người theo nhiều cách khác nhau.”

Sau khi đã chế ngự Kim Jong-pil vào năm 1969, Park chọn Kim Seong-gon làm mục tiêu tiếp theo. Cuộc cạnh tranh quyền lực này kết thúc thậm chí nhanh chóng hơn và tàn bạo hơn bởi vì Kim Seong-gon, với vai trò người gây quỹ chính trị chủ yếu của DRP, đã trở nên cực kỳ yếu thế với những tội danh tham nhũng. Cuộc thanh trừng xảy ra sau khi Kim Seong-gon giúp Park cách ly Kim Jong-pil. Trớ trêu thay, cơ hội để tấn công lại được tạo ra bởi Kim Seong-gon khi ông này huy động bè phái của mình trong DRP cách chức bộ trưởng bộ nội vụ, Oh Chi Seong, như một màn phô trương lực lượng chống lại Park và thậm chí là như một màn mở đầu cho quá trình chuyển đổi sang hình thức chính phủ nghị viện sau nhiệm kỳ thứ ba của Park. Với việc phái của Kim Jong-pil tan rã và thời điểm kết thúc nhiệm kỳ thứ ba của Park được kỳ vọng vào năm 1975, Kim Seong-gon nghĩ rằng ông đã có được sự ủng hộ từ nhánh lập pháp để thông qua cấu trúc quản trị theo hình thức nghị viện. Bị ảnh hưởng từ hình ảnh chính trị mờ ám trong vai trò một nhà môi giới đằng sau những cánh cửa đóng kín, tuy nhiên vẫn đang chỉ huy hoạt động gây quỹ chính trị, Kim Seong-gon tin rằng việc thiết lập một chính phủ nghị viện sẽ mang lại lợi ích cho ông ta. Ngoài tầm dự đoán của ông này, Park đã tấn công dữ dội, ra lệnh cho KCIA bắt giữ và hỏi cung ông, cùng với 22 nhà lập pháp DRP khác, và buộc ông phải nghỉ hưu khỏi các hoạt động chính trị. Kim Seong-gon buộc phải chấp nhận phán xét của Park để không chịu tổn thất nhiều hơn, bao gồm cả đế chế doanh nghiệp của ông này - Tập đoàn Ssangyong. Sau đó, vào tháng 12 năm 1973, đến cả Yi Hu-rak - người đã lãnh đạo các chiến dịch chống lại cả Kim Jong-pil và Kim Seong-gon khi giữ chức trưởng ban cố vấn Nhà Xanh và sau đó là giám đốc KCIA - cũng buộc phải rời bỏ các hoạt động chính trị, khi Park bắt đầu xem ông này là một nguy cơ chính trị. Số phận của Kim Hyeong-wook bi đát hơn cả. Lo sợ bị trả thù bởi những người từng bị ông hăm dọa khi còn giữ chức giám đốc KCIA và cũng bị hoạt động điều tra của KCIA cảnh báo về sự giàu có do tích lũy tài sản bất hợp pháp của mình, Kim Hyeong-wook đã đi tị nạn ở New Jersey vào năm 1973 và xuất hiện trong các buổi điều trần quốc hội Mỹ để làm chứng chống lại chế độ của Park vào năm 1977 để rồi bị những người không rõ danh tính bắt cóc ở Paris vào năm 1979 và không còn tin tức gì nữa.

Do đó, silse, hay là những người nắm giữ quyền lực thật sự, dưới trướng Park đều đã rơi vào những tình huống không thể thành công nếu họ nuôi dưỡng bất cứ tham vọng nào lớn hơn việc phục vụ cho các lợi ích chính trị của Park. Để xây dựng được một nền tảng quyền lực theo bè phái, một silse phải kiếm được tiền và thu hút được lực lượng ủng hộ. Tuy nhiên khi làm như vậy, anh ta cũng đã đặt sự nghiệp chính trị của mình vào tay Park. Silse phải đầu hàng ý chí của Park vì lo sợ Park giao nộp hồ sơ bí mật của KCIA về những hoạt động phạm pháp của silse cho các công tố viên nhà nước để điều tra tội phạm. Dễ hiểu rằng không ai dám chống đối lại Park khi ông đã quyết tâm ngăn chặn. Đã từng là những giám đốc của KCIA, Kim Jong-pil, Kim Hyeong-wook và Yi Hu-rak đều ý thức được những gì phải đánh đổi. [87] Cuộc chơi chính trị do Park dựng lên không có chỗ cho người kế nhiệm. Kể cả trước khi Park bắt đầu chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống lần thứ hai của ông vào năm 1967, chủ tịch DRP đầu tiên Jeong Ku-young - khi không nhận thấy bất kỳ một người thách thức nào nổi lên từ bên trong DRP hoặc từ NDP đã chia rẽ - bắt đầu lo lắng về sự thiếu vững chắc về chính trị có thể sẽ xảy ra sau khi nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Park kết thúc, dự kiến vào năm 1971. Jeong Ku-young đã khuyên Park không nên dỡ bỏ hạn chế hai nhiệm kỳ về thời gian giữ chức tổng thống “dù Park có khả năng làm được như vậy, vì Park sẽ chỉ bị ô danh nếu ông điều chỉnh hiến pháp.” Park hiểu được mối quan ngại của Jeong Kyu-young nhưng vẫn né tránh nghi vấn về việc điều chỉnh hiến pháp. Tuy nhiên, các ý đồ của Park trở nên rõ nét hơn trong những hành động chính trị của ông, qua việc để Kim Hyeong-wook đánh bại Kim Jong-pil vào năm 1969 và Yi Hu-rak hăm dọa Kim Seong-gon vào năm 1971. Park đã tiến hành những bước đi này không phải vì Kim Jong-pil và Kim Seong-gon thách thức vị trí lãnh đạo của ông mà bởi hiến pháp Hàn Quốc cản đường ông đến với vị trí tổng thống trọn đời. Ông chạy đua với những hạn chế đặt ra bởi những giới hạn hiến định về các nhiệm kỳ tổng thống liên tục.

Tuy nhiên, Park cũng không thể nắm giữ quyền lực lâu như vậy nếu ông chỉ là một người tàn nhẫn. Ông trở nên tàn nhẫn chỉ khi quyền lực của ông gặp phải rủi ro. Thậm chí đối với silse đã thất thế, Park vẫn có thể là một người cha chu đáo nếu silse ăn năn và thề sẽ trung thành với Park. Khi Kim Jong-pil bị thất thế trước phái của ông này vào năm 1969 như là một lãnh đạo yếu kém không còn phù hợp để thách thức Park, Park đã cho ông làm thủ tướng, một vị trí ông nắm giữ từ tháng 6 năm 1971 đến tháng 12 năm 1975. Khi Yi Hu-rak kết thúc đợt bế quan tỏa cảng của ông này vào tháng 12 năm 1978 để tranh cử một ghế Nghị viện Quốc gia ở quận Ulsan và Ulju như một người độc lập, Park đã yêu cầu DRP đề cử một nhân vật ít người biết làm ứng viên của đảng đó cho quận này và Park trao cho Yi tư cách đảng viên khi ông này giành được chiến thắng lớn. Tuy nhiên, chính với những người không hề nuôi dưỡng những tham vọng chính trị độc lập, Park trở nên dễ chịu nhất. Để có được lòng trung thành của họ và tưởng thưởng họ vì sự ủng hộ, Park luôn xây dựng hình ảnh về một ông chủ không phản bội các cộng sự trung thành. Trong số 162 người từng giữ chức thứ trưởng hoặc cao hơn từ giữa năm 1963 đến năm 1972, 37 người giữ những chức vụ như vậy hai lần và 35 người nhiều hơn ba lần. Trong kỷ nguyên yushin, việc nắm giữ chức vụ liên tiếp còn tăng hơn nữa. Trong số 91 thứ trưởng và các quan chức cấp cao hơn trong chính quyền yushin, 22 người giữ chức vụ cùng cấp hai lần, 24 người hơn ba lần. Hơn nữa, khi đã được chỉ định, lớp tinh hoa quyền lực của Park thường sẽ tại chức. Trước năm 1972, 50,4% trong số họ có thời gian tại chức là hai năm hoặc hơn; vào thời yushin, tỷ lệ này lên đến 60,9%. Park đã cố gắng kết nối số phận của giới tinh hoa chính trị với định mệnh chính trị của riêng mình theo cách càng có ý thức và có hệ thống càng tốt. Với giới tinh hoa chính trị của ông, tham gia cùng Park là một cam kết suốt đời. Họ thịnh và suy cùng nhau.

Khi Park cố gắng kéo dài chế độ của ông chống đối mốc thời gian đã được hiến pháp xác định, đầu tiên vào năm 1969 khi chống đối giới hạn hai nhiệm kỳ và sau đó vào năm 1972 là giới hạn ba nhiệm kỳ, hoạt động chính trị trở nên hà khắc, với các chính trị gia chống đối NDP cũng như các lãnh đạo phe phái của DRP bị sách nhiễu, hối lộ và tống tiền một cách chọn lọc tại mỗi thời điểm quan trọng. Đứng đằng sau mỗi một âm mưu chính trị trọng yếu đều là KCIA. Trong hồi ký của mình, Kim Hyeong-wook viết:

Khi Park đã hạ quyết tâm sẽ tiến hành một cuộc sửa đổi hiến pháp để cho phép một nhiệm kỳ thứ ba, tôi đã đặt trọn tâm huyết của mình vào đó. Số tiền cần thiết để mua được sự ủng hộ đến từ người gây quỹ của DRP, Kim Seong-gon, theo các mệnh lệnh của Park... tôi quyết định không trấn áp mà sẽ khuất phục cánh nhà báo bằng tiền... Chỉ có Cheon Kwan Woo của Dong-A Ilbo là vẫn trung thành với các nguyên tắc của ông ấy.

Việc chuyển đổi các chính trị gia đối lập thành những người ủng hộ sự thay đổi hiến pháp thì dễ dàng hơn. Tôi thuyết phục được thành viên Nghị viện Quốc gia của NDP Jo Hung-man và Seong Nak-hyeon... Tôi cũng có những trung gian để thuyết phục Yeon Ju-hum, Im Kap-su và Han Dong-seok. Tôi đã bỏ ra một số tiền không nhỏ để làm được những điều đó.

Chống lại lộ trình của đảng đối lập đang huy động sự ủng hộ của quần chúng bảo vệ giới hạn hai nhiệm kỳ, Kim Hyeong-wook đã dàn xếp cho các hiệp hội cựu chiến binh, các tổ chức tôn giáo, các liên đoàn lao động và doanh nghiệp cũng như các liên minh chống chủ nghĩa cộng sản công khai lên tiếng ủng hộ thay đổi hiến pháp. Trong khi đó 38 trường đại học